Nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác

Xuất bản: 06/04/2023 - Tác giả:

Nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác, tham khảo top 3 bài văn nghị luận hay về khổ thơ 1, 2 của bài thơ Viếng lăng Bác

Tham khảo ngay những bài văn mẫu nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác do Đọc Tài Liệu cung cấp trong bài viết này. Hy vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình tìm hiểu nội dung bài thơ cũng như ôn luyện kĩ năng làm văn nghị luận.

Top 3 bài văn nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác

Dưới đây là một số bài văn nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác do Đọc Tài Liệu tổng hợp được hi vọng sẽ giúp các em có thêm vốn từ ngữ và rút kinh nghiệm về cách trình bày.

Nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác mẫu số 1

Viễn Phương là một trong số các nhà văn, nhà thơ tiên phong trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ. Dù ông không sáng tác nhiều, nhưng những tác phẩm mà ông để lại cho thế hệ sau đều chứa đựng tình cảm chân thành đối với cuộc sống, quê hương và đất nước. Viễn Phương cũng là một trong những người may mắn được sống và làm việc gần gũi với Bác Hồ trong nhiều năm. Với tình cảm sâu sắc dành cho Bác, Viễn Phương đã sáng tác nhiều bài thơ thể hiện tình yêu và kính trọng của mình đối với người lãnh đạo vĩ đại. Hai khổ đầu của bài thơ "Viếng lăng Bác" là minh chứng cho tình cảm đó.

Bài thơ "Viếng Lăng Bác" được tác giả Viễn Phương sáng tác vào năm 1976 khi ông có dịp đi cùng đoàn đại biểu miền Nam đến thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau khi đất nước thống nhất hoàn toàn và lăng Bác vừa mới hoàn thành. Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, mang âm hưởng của thể thơ tám chữ, với giọng điệu tha thiết, lời thơ chân thành và giàu cảm xúc. Bằng bút pháp nghệ thuật, cả bài thơ nói chung và hai khổ thơ đầu nói riêng, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca công sức của Bác cùng niềm tôn kính, yêu thương, khâm phục và tự hào của mình đối với vị cha già dân tộc.

Bài thơ mở đầu bằng lời bày tỏ cảm xúc của Viễn Phương qua lời tự giới thiệu như lời tâm tình nhẹ nhàng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.

Việc sử dụng đại từ nhân xưng “con”, “Bác” đã làm cho bài thơ trở nên thân thiết, ấm áp và gần gũi hơn. Từ này không chỉ diễn tả tình cảm của người con đối với cha mình sau bao năm xa cách mà còn thể hiện tình cảm của toàn miền Nam và cả đồng bào trên cả nước đối với Bác, vị cha già kính yêu của dân tộc. Đồng thời, từ này cũng gợi lên niềm thành kính, thiêng liêng. Nhà thơ đã sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” một cách tinh tế để diễn tả cuộc hội ngộ được mong ngóng từ lâu ngày, không chỉ là đến chia buồn với thân nhân người chết mà còn là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.

Cách nói giảm, nói tránh trên nhằm làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Bác Hồ đã mãi mãi ra đi nhưng hình ảnh của Người vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời, ý thơ còn gợi sự thân mật, gần gũi như đứa con phương xa về thăm cha, thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu, để tìm lại chính mình trong nỗi đau thương vô tận. Đọc lên câu thơ, ta không khỏi nghẹn ngào. Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của đồng bào miền Nam, tình cảm của cả dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.

Với tình cảm hân hoan tràn đầy, cùng niềm hạnh phúc rộn ràng, Viễn Phương đã tập trung ngắm nhìn khung cảnh quanh lăng Bác.

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Tác giả đã sử dụng bút pháp tả thực để giúp chúng ta hình dung một cảnh thật đẹp quanh lăng Bác trong sương trắng mờ ảo. Màn sương trắng cho thấy cảnh trời vẫn còn sớm tinh mơ. Tuy nhiên, tác giả vẫn rất háo hức khi được đến thăm lăng Bác dù chỉ là viếng lăng. Trong màn sương trắng, hình ảnh gây ấn tượng nhất đối với tác giả là hàng tre. Từ “hàng tre” được lặp lại hai lần trong bài thơ. Nhờ phép dùng điệp ngữ ấy, hàng tre hiện lên vẻ đẹp tuyệt vời, đẹp trong sắc xanh tươi thắm. Sự kết hợp giữa phép nhân hóa và phép vận dụng trong dòng thơ “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” đã làm tôn lên vẻ đẹp của hàng tre càng thêm đẹp đẽ vô cùng.

Hình ảnh hàng tre không chỉ gắn liền với vẻ đẹp quen thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam mà còn là biểu tượng của sức mạnh và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Qua thành ngữ "bão táp mưa sa" gắn liền với hàng tre, nhà thơ muốn gửi gắm thông điệp về những khó khăn, thử thách của lịch sử dân tộc và tinh thần đoàn kết, chiến đấu bất khuất của con người Việt Nam. Hình ảnh hàng tre trong sương quanh lăng Bác được nhà thơ mở rộng ý nghĩa thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường và không khuất phục của dân tộc Việt Nam trong suốt lịch sử.

Nói đến hình ảnh hàng tre thì không thể không nhắc đến nó là vũ khí truyền thống đầy hào hùng của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ cụm tre ngà đánh tan giặc Ân và Ngô Quyền dùng cọc tre tạo thành trận địa mai phục đánh chìm tàu thuyền quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã khắc sâu trong tâm trí của dân tộc. Biết bao nhiêu gậy gộc, cây chông dài vót nhọn đã được sử dụng để đánh Pháp, chống Mỹ trong các cuộc chiến vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, biểu tượng cho tinh thần vượt khó của nhân dân Việt Nam. Hình ảnh hàng tre tái hiện lại quá khứ hào hùng, lẫm liệt của các vị anh hùng như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... Những chiến công hiển hách đó gợi lên trong tâm trí người đọc sự hi sinh, đau thương và lòng trung thành của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống lại xâm lược và âm mưu đồng hóa của kẻ thù.

Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu. Với cảm xúc dâng trào ấy, nhà thơ đã thả hồn liên tưởng tới hình ảnh vĩ đại khi bước đến gần lăng Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”

Bắt đầu bằng cụm từ chỉ thời gian "ngày ngày", khổ thơ diễn tả hiện thực vận chuyển của thiên nhiên, trong đó sự vận chuyển của mặt trời là một ví dụ điển hình. Viễn Phương sử dụng các từ "Mặt trời đi qua" và "thấy" để diễn tả sự vận chuyển của mặt trời, kết hợp với "ngày ngày" để tạo nên một chúng nhân say sưa ngắm nhìn sắc đẹp của đối nhân. Từ "thấy" đã góp phần khẳng định phép nhân hóa tài tình của nhà thơ đối với hình ảnh "mặt trời tự nhiên".

"Mặt trời đi qua trên lăng" là một hình ảnh có thật, đó là mặt trời tự nhiên, là nguồn sáng cho toàn vũ trụ, gợi lên sự kì vĩ, bất diệt và vĩnh cửu. Mặt trời là nguồn gốc của sự sống và ánh sáng. Hình ảnh "mặt trời trong lăng" cũng là một ẩn dụ đầy sáng tạo và độc đáo cho hình ảnh của Bác Hồ vĩ đại. Tương tự như "mặt trời", Bác Hồ cũng là nguồn nắm giữ ánh sáng, nguồn năng lượng của dân tộc Việt Nam. Con người Bác là sự kết tinh của tình yêu thương ấm áp, ý chí vượt khó, tinh thần bất khuất và niềm tin vào thắng lợi. Trong lịch sử, Bác đã cùng nhân dân vượt qua hàng ngàn gian khổ, hi sinh để đạt được chiến thắng vinh quang, trọn vẹn. Ý thơ vừa giúp tôn vinh tầm vóc vĩ đại của Bác, đồng thời cũng biểu lộ được sự tôn kính sâu sắc của nhà thơ đối với Bác. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: "Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ". Cái nhân, cái nghĩa lớn lao của Bác đã có tác động mạnh mẽ và sâu xa đến từng số phận con người.

Viễn Phương nhìn thấy dòng người đang xếp hàng để vào thăm lăng Bác, ông liên tưởng đó như một "tràng hoa". Như vậy, nhà thơ đã một lần nữa kết hợp hai hình ảnh thực và ẩn dụ để miêu tả sự tưởng nhớ của nhân dân đối với Bác và thể hiện sự tri ân đối với Bác.

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”.

Sự trang nghiêm và tình cảm của nhân dân khi họ tuần tự đến viếng lăng Bác khiến cho Viễn Phương liên tưởng giống như đang dâng hương hoa tươi thắm, tình yêu và tưởng nhớ của họ lên Bác. Viễn Phương đã sử dụng cấu trúc câu và từ ngữ tương tự như câu thơ trước để tạo nên điều kiện thời gian đang trôi qua, nhưng dòng người đến viếng lăng Bác vẫn không ngừng. Hình ảnh này đã tuyệt vời thể hiện lòng tôn kính và biết ơn của nhân dân đối với Bác. Cuối cùng, Viễn Phương đã dùng những hình ảnh ẩn dụ như "bảy mươi chín mùa xuân" để miêu tả cả cuộc đời của Bác là một sự sống đầy hạnh phúc và niềm vui, và để bày tỏ lòng tri ân của mình và của mọi người đối với Bác.

Dòng người không ngừng kéo đến lăng Bác, như những tràng hoa vô tận dâng lên Người. Những tràng hoa rực rỡ ấy dưới ánh mặt trời chói chang của Bác đã trở thành những tràng hoa đẹp nhất dâng lên "bảy mươi chín mùa xuân" là 79 năm cuộc đời của Người với sự tôn kính và yêu mến vô hạn. Tóm lại, bằng cảm xúc dâng trào, cách diễn đạt chân thật, sâu sắc cùng với các hình ảnh ẩn dụ đẹp, bài thơ "Viếng lăng Bác" thể hiện tình cảm yêu thương, tôn kính của nhà thơ và đồng bào cả nước dành cho Bác. Hình ảnh thơ được sáng tạo một cách phong phú, kết hợp giữa hình ảnh thực và ẩn dụ và biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng quen thuộc, gần gũi với hình ảnh thực, sâu sắc và mang ý nghĩa giá trị biểu cảm, tạo ra sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.

Trong thời đại hiện nay, toàn Đảng và toàn dân ta đâng ra sức nỗ lực bồi đắp, xây dựng và phát triển đất nước để tỏ lòng yêu kính, nhớ ơn Bác. Chúng ta là những học sinh phải luôn ghi nhớ lời dặn dò của Bác rằng "Non sông Việt Nam có tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không chính nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu". Hãy cố gắng học hành chăm chỉ, rèn luyện tốt nhân cách và đạo đức, để sau này có thể đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phần nào đền đáp công lao vĩ đại của Bác đối với đất nước.

Nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác mẫu số 2

Mặt trời dần lên cao và nó gợi lên cho tác giả những ý nghĩ mới:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Mặt trời tự nhiên di chuyển theo quỹ đạo của nó trong vũ trụ, trôi qua mỗi ngày tác giả lại thấy một cảm giác mới về mặt trời. Trong lăng, tác giả thấy mặt trời khác lạ, rực rỡ một màu đỏ. Mặt trời trong lăng đó là tượng trưng cho Bác Hồ. Mặt trời tự nhiên mang lại ánh sáng và sự sống trong ban ngày, còn mặt trời của Bác thì là tia sáng dẫn đường, mang lại hạnh phúc và ấm no cho đời. Chi tiết mặt trời "rất đỏ" kích thích trái tim yêu nước, yêu nhân dân, là trái tim yêu thương vô tận của Bác. Mặt trời Bác sẽ luôn tỏa sáng, ấm áp và tô thắm cho đời. Màu đỏ ấy còn mang lại sự ấm áp cho cảnh quan nhiều đau thương. Nhiều người đã so sánh Bác với mặt trời (như Tố Hữu đã viết: "Người rực rỡ một mặt trời cách mạng"), đặt mặt trời Bác song song và cùng tồn tại với mặt trời tự nhiên là sự sáng tạo của Viễn Phương. Câu nói đó vừa tôn vinh sự vĩ đại và bất tử của Bác, vừa thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ và biết ơn đối với Bác.

Hình ảnh dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác cũng gợi bao xúc động trong lòng nhà thơ:

Ngày ngày dòng người đỉ trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi đến ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn, vừa gợi lên tấm lòng nhân dân không ngừng nhớ đến Bác. Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” vừa hiện hữu vừa mơ hồ. Nỗi nhớ thương chỉ tồn tại trong tâm trí con người, nhưng ở đây, nó trải rộng khắp thời gian và không gian. Và mỗi người với nỗi nhớ thương là một đóa hoa cùng tạo nên “tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”, cuộc đời Bác là một cuộc đời đã dâng cho đời bao hoa trái. Dòng người được tác giả ví như “tràng hoa” là một ẩn dụ độc đáo và phù hợp. Dòng người vào viếng Bác như một vòng tròn, dễ gợi nhớ đến tràng hoa. Nếu nói về “vòng hoa”, đó là để viếng người đã khuất. Ở đây, đó là “tràng hoa” dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”. Bác không thể mất đi trong suy nghĩ, trong tình cảm của nhà thơ cũng như của mỗi chúng ta. Tình cảm nhớ thương và những gì đẹp nhất trong từng người được dâng lên Bác, quả thật là hoa của đời. Tràng hoa của con người ở đây cao hơn mọi tràng hoa của tự nhiên, nó được tạo nên từ lòng thành kính và nhớ thương Bác. Nhịp thơ của đoạn này chậm rãi, kéo dài 8, 9 tiếng mỗi câu thơ, lặp lại từ ngữ và cấu trúc câu vừa để diễn tả không khí trong lăng tượng trưng cho sự thành kính, vừa để gợi lên bước đi chầm chậm của dòng người vào viếng Bác cùng với tình cảm thành kính, thiết tha của nhân dân dành cho Bác.

Nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác mẫu số 3

Bác Hồ là một nhà lãnh đạo vĩ đại, là người cha già đáng kính của toàn dân tộc Việt Nam. Vì vậy, việc ông ra đi là một tổn thất to lớn đối với cả dân tộc. Nhiều bài thơ đã được viết để thể hiện lòng nhớ thương của những người con Việt Nam dành cho Bác. Mặc dù "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương ra đời khá muộn, nhưng nó vẫn gây được những cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc, bởi đó là tình cảm của một người con miền Nam khi lần đầu tiên được gặp gỡ Bác. Cả bài thơ đều là lời tâm sự chân thành, là sự thành kính và yêu mến đặc biệt của một người con miền Nam dành cho Bác Hồ.

Bài thơ được mở đầu như một lời thông báo nhưng dạt dào tình cảm:

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"

Viễn Phương cùng với các chiến sĩ từ miền Nam xa xôi đã thực hiện một cuộc hành trình xa xôi đến thủ đô Hà Nội để thăm lăng Bác. Khi đến đó, nhà thơ cảm thấy bồi hồi và xúc động. Cách xưng hô "Con - Bác" thể hiện tình cảm thiết tha của một người con miền Nam và mang đậm chất Nam Bộ. Từ xa nhìn lên lăng Bác, hình ảnh hàng tre bát ngát hiện ra trong sương mù huyền ảo của bầu trời Hà Nội. Lũy tre xanh đã từ lâu trở thành một nét đẹp của làng quê Việt Nam, mang ý nghĩa giữ gìn cho đất nước và người dân. Trong bài thơ, hình ảnh hàng tre được so sánh với con người và đất nước Việt Nam. Hàng tre luôn đoàn kết, gắn bó với nhau để tạo thành một lũy thành kiên cường, chống chọi với gió mưa, giông bão.

Hình ảnh hàng tre đã trở thành biểu tượng tình đoàn kết, tinh thần kiên cường, can đảm và dũng cảm trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của người Việt Nam. Tre luôn đứng thẳng, như con người Việt Nam, chọn chết đứng còn hơn sống quỳ. Với sự chọn lọc tinh tế đó, nhà thơ miêu tả hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác như một biểu tượng đẹp đẽ cho sự đoàn kết của cả dân tộc Việt Nam. Hàng tre ấy, liệu có phải là hình ảnh của những người con Việt Nam ở bên vị cha già đáng kính đang đi vào giấc ngủ an lành? Biểu tượng này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc! Tiến gần hơn đến lăng Bác, nhà thơ đã thấy hình ảnh mặt trời đỏ rực trên lăng:

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng 
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"

Mặt trời là nguồn gốc của sự sống và cung cấp ánh sáng cho trái đất. Trong câu thơ đầu tiên, mặt trời được miêu tả là một hình ảnh thực tế và là một vật thể không thể thiếu trong vũ trụ. Tuy nhiên, ở câu thơ thứ hai, nhà thơ sử dụng hình ảnh mặt trời là một ẩn dụ sáng tạo. Bác được so sánh với mặt trời rực rỡ, chiếu sáng cho tâm hồn của những người đang chìm trong bóng tối và nô lệ. Bác đã dẫn dắt con đường cách mạng cho toàn dân tộc, dành cuộc đời của mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Vì vậy, Bác trở thành một mặt trời luôn tỏa sáng, sưởi ấm cho tinh thần của người dân Việt Nam.

"Bác sống như trời đất của ta 
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già"

(Tố Hữu)

Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ 
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Ta thấy rằng cụm từ "ngày ngày" đã được lặp lại một lần nữa. "Ngày ngày" có ý nghĩa là sự lặp đi lặp lại, không đổi khác. Việc lặp lại cụm từ này có lẽ là để nhấn mạnh một sự thật hiển nhiên, chân lý. Nếu mỗi ngày mặt trời đi qua lăng, tỏa ánh sáng để sưởi ấm mọi vật là một sự thật không thay đổi trong thời gian, thì công ơn của Bác trong tâm hồn của người dân Việt Nam cũng không phai nhạt theo năm tháng. Và hình ảnh hàng triệu người đến viếng lăng Bác cũng đã trở thành một điệp khúc của lòng tôn kính Bác. "Tràng hoa" cũng là một hình ảnh ẩn dụ sáng tạo của nhà thơ. Mỗi người con Việt Nam là một đóa hoa tươi sáng, hàng triệu người Việt Nam sẽ trở thành một tràng hoa rực rỡ sắc màu dâng lên Bác. Hình ảnh ẩn dụ "bảy mươi chín mùa xuân" tượng trưng cho bảy mươi chín năm Bác đã dành để cống hiến cho đất nước và cách mạng.

Mỗi năm tháng của cuộc đời Bác là một mùa xuân tươi đẹp hiến dâng cho Tổ quốc. Giờ đây, Bác đã trở thành mùa xuân, còn dòng người trở thành những đóa hoa tươi rực rỡ. Hình ảnh hoa nở giữa mùa xuân là biểu tượng tuyệt đẹp, với ý nghĩa sâu sắc.

-/-

Vừa rồi là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn nghị luận về khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác - Văn mẫu lớp 9 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn nghị luận hay và sâu sắc. Chúc các em học tốt!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM