Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động

Xuất bản: 08/03/2019 - Tác giả:

Phân tích làm rõ ý kiến: Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động - Lập dàn ý và bài văn mẫu tham khảo.

Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Em hãy phân tích đoạn thơ để làm rõ ý kiến trên.

***

Dàn ý chi tiết:

I. Mở bài:

– Đây là đoạn kế tiếp đoạn kể về chuyện Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà. Tú Bà ép Kiều tiếp khách làng chơi. Kiều không chấp nhận nên bị Tú Bà đánh đập. Tủi nhục, Kiều tự sát. Tú Bà sợ mất món lợi lớn đành cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để đợi gả chồng.

– Đoạn trích này phản ánh tâm trạng thương nhớ gia đình, thương nhớ người yêu và xót xa buồn tủi cho thân phận mình của Thúy Kiều.

II. Thân bài:

* Đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động:

- Bức tranh phong cảnh được nhìn qua con mắt đầy tâm trạng

- Đường nét vừa thực, vừa ảo: bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Không gian mênh mông, lạnh lẽo, bao phủ bởi một nỗi buồn thấm thía.

+ Con người: chỉ có một – đó là Thúy Kiều lẻ loi, cô độc giữa không gian hoang vắng.

- Bức tranh tâm tình đầy xúc động:

+ Phong cảnh thiên nhiên được nhìn qua con mắt u sầu của Kiều nên cũng rất buồn:

Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

+ Sự vật nào cũng gợi cảm giác chông chênh, bất định và chứa đựng một dự báo chẳng lành:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,

Buồn trồng ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…

- Tâm trạng Kiều trước cảnh ngộ bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích:

+ Đó là tâm trạng tủi hổ vì số phận trớ trệu, éo le của mình.

+ Cô độc và buồn bã, nặng trĩu nhớ thương (nhớ người yêu, đau khổ vì mối tình tan vỡ; xót thương cha già mẹ yếu mòn mỏi đợi trông con, băn khoăn không biết lấy ai thay mình phụng dưỡng mẹ cha; nhớ tổ ấm gia đình). Những cảm xúc ấy càng trỗi dậy da diết, mãnh liệt trong tình cảnh Thúy Kiểu bị vây bủa giữa những thế lực hắc ám, giữa tâm trạng Kiều trước cảnh ngộ bị giam hãm ở lầu Ngưng Bích.

+ Tình cảm cao đẹp của Thúy Kiều cùng với cảnh ngộ éo le của nàng khiến người đọc thương xót sâu xa. Càng thương Kiều, chúng ta càng căm giận cái xã hội độc ác, vô nhân đạo đã đẩy nàng vào cảnh ngộ đó.

+ Thái độ của nhà thơ: xót xa, chia sẻ nỗi đau với Thúy Kiều.

III. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của đoạn thơ; là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

– Tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du được chứng minh qua nghệ thuật tả cảnh, tả tình, tạo nên sự đồng cảm thật sự giữa người đọc và nhân vật.

Những bài văn hay phân tích bức tranh tâm tình đầy xúc động Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bài mẫu số 1:

Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất tài hoa trong việc tả cảnh, tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy.

Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng rơi vào nanh vuốt của mụ Tú Bà bán thịt buôn người. Hiểu ra tình cảnh nhục nhã, éo le của mình. Kiều đã liều tự sát. Sợ bị mất món lời to, Tú Bà hoảng hốt vội cứu sống Kiều và tạm cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích, với lời hứa sẽ gả chồng tử tế cho nàng. Trong những ngày này, Kiều sống trong tâm trạng khôn xiết buồn bã, đau đớn. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích thành một bức tranh tâm tình đầy xúc động:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

…………………………………..

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đoạn trích trên nói lên tâm trạng nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích: buồn tủi, thương nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, xót thựơng thân phận cay đắng của mình.

Đoạn thơ là một minh chứng tỏ quan điểm: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Cảnh vật thiên nhiên ở đây bị bao phủ một nỗi buồn trĩu nặng bởi Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn tơ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh là Kiều.

Đang sống trong không khí ấm êm, đùm bọc của gia đình; đang say sưa hạnh phúc với mối tình đầu ngọt ngào, trong sáng, Kiều bỗng dưng bị rơi vào cạm bẫy của cuộc đời. Nàng bị lừa gạt trắng trợn, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm đến phẩm hạnh. Bao tai biến dồn dập đến với nàng trong một thời gian quá ngắn. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chốn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thúy Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.

Sáu câu đầu là cảnh lầu Ngưng Bích. Cảnh được tác giả vẽ lên bằng những nét chấm phá: vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp, nhưng thật buồn, mênh mông hoang vắng, lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng nàng Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa son,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Cha mẹ, các em, người yêu,... tất cả đã xa xôi, cách biệt với Kiều. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Kiều chẳng khác gì một chú cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nổi lòng nàng trong tình huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nỗi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi cạn.

Dõi tầm mắt ra bốn phương, tám hướng, không hướng nào lóe lên được một chút vui:

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Không một bóng người, chỉ có không gian mênh mông, hoang vắng và buồn tẻ. Ướm vào thân phận nàng, nàng nào có khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi kia? Giữa người với cảnh vừa có nét tương phản, vừa có nét tương đồng. Nỗi buồn của Kiều dường như cũng mở ra đến vô cùng như không gian bát ngát trước mắt nàng. Càng cảm thương cho thân phận, cõi lòng nàng càng tan nát:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Cảnh buồn hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp nay đã thành quá khứ. Nàng nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Hình ảnh hai người cùng uống chén rượu thề trăm năm gắn bó đêm nào dưới vầng trăng vằng vặc giữa trời giờ vẫn còn đậm nét, tươi nguyên trong kí ức nàng. Nàng thương chàng Kim giờ này đang sốt ruột chờ trông tin tức người yêu. Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều xót xa, đau đớn:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai biết mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nàng đã đi xa biền biệt, lấy ai chăm sóc mẹ cha? Tuy đã cố dứt chữ tình để đền chữ hiếu nhưng nàng vẫn không khỏi băn khoăn, thổn thức khi nghĩ đến cảnh cha già mẹ yếu tựa cửa hôm mai, mòn mỏi đợi mong con trong vô vọng. Điều đó càng khẳng định rõ nàng là người con hiếu thảo.

Mang một tâm trạng như thế nên Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy buồn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bốn lần, từ "buồn trông” được nhắc lại; mỗi lần mở đầu cho một cảnh. Kiểu kết cấu lặp này gây ấn tượng mạnh về nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh phong cảnh nhỏ trong một bức tranh phong cảnh - tâm tình rộng lớn. Bức thứ nhất: “cửa bể chiều hôm” mênh mông màu xám bạc. Trên cái nền ấy nổi lên một cánh buồm đơn độc, thấp thoáng ẩn hiện, không biết về phương trời nào. Bức thứ hai: “ngọn nước mới sa” (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Bức thứ ba: “nội cỏ rầu rầu”, héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tư: “gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng...”

Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc của Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.

Trong  đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất tài hoa trong việc tả cảnh, tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy. Cảnh và tình cứ đan xen, hòa quyện, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm nổi bật chủ đề của đoạn trích. Có thể nói, đây là một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều.

Bài mẫu số 2:

Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã từng viết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”. Thật vậy, Nguyễn Du tả cảnh bao giờ cũng lồng tả tình, tả cảnh không chỉ bộc lộ cảm xúc trước cái đẹp của thiên nhiên mà đó còn là phương tiện để biểu hiện tâm trạng nhân vậy. Trong Truyện Kiều có nhiều bức tranh cảnh – tình độc đáo có tác dụng sâu xa đến cảm xúc thẩm mĩ của người đọc. đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những bức tranh như thế. Cho nên, có ý kiến cho rằng đoạn thơ ấy là một bức tranh tâm tình xúc động.

Kiều ở lầu Ngưng Bích” được sách tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đoạn trích nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

Bị Mã Giám Sinh đẩy vào lầu xanh rồi lại bị Tú Bà đánh đập để ra oai, Kiều tự tử nhưng Tú Bà cứu kịp. Sợ vốn liếng “đi đời nhà ma”, mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác. Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong cảnh ngộ ấy để cho nàng tự bộc lộ tâm trạng của mình. Và thế là, theo những dòng thơ, tâm trạng Kiều cứ theo cảnh mà hiện ra:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”

Một khung cảnh thiên nhiên mông mênh vắng lặng, heo hút không một bóng người. Trong đó, chỉ có “vẻ non xa, tấm trăng gần” nàng như đang ở chung với Kiều và nỗi buồn của nàng như đang lan tỏa ra cảnh vật. Cảnh có nét đậm (tấm trăng), nét nhạt (vẻ non), vừa xa vừa gần, vừa mờ và tỏ, mênh mông bát ngát càng tô đậm cô đơn, lẻ loi, trơ trọi. Quay nhìn bốn phía cũng chỉ thấy: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những cồn cát vàng nhấp nhô, những đám bụi hồng trải khắp dặm xa,…Những vế câu đối xứng nhau và những từ “xa – gần”, “nọ – kia” tầng tầng, lớp lớp gợi nỗi lòng ngổn ngang, bề bộn trong tâm trạng Thúy Kiều.

Ngắm cảnh nghĩ đến mình, Kiều càng thấm thía nỗi buồn:

“Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Nơi đất khách quê người thân bị giam lỏng, cô bé bé bỏng tội nghiệp ấy chỉ biết sớm làm bạn mới mây, khuya làm bạn với đèn, thao thức, thui thủi một mình. Thật là bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi, vô vọng. Cảnh buồn, tình cô đơn như chia sẻ lòng Kiều càng thêm tan nát, đớn đau…

Trong tình cảnh ấy nàng đau đớn nhớ đến Kim Trọng, người đã cùng nàng thề nguyền gắn bó:

“Tưởng người dưới guyệt chén đồng

Tim sương luống những rày trông mai chờ”

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Mới hôm nào đây, chén rượu thề nguyền chưa ráo, vầng trăng hẹn ước còn kia, thế mà đã hai phương trời cách biệt! Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” không chỉ diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắc mà còn chứa đựng niềm xót đau vì đã bội ước với lời thề. Nàng yêu và hiểu Kim Trọng, chắc lúc này, chàng đang khắc khoải: “rày trông mai chờ” tin tức nàng. Nàng lại thương thân mình “bơ vơ” nơi “góc bể chân trời” và tấm lòng son sắt thủy chung không gì làm cho phai được. Kiều thật là người tình thủy chung. Tuy đã bán mình chuộc cha, chữ hiếu phần nào đã đền đáp, nhưng nàng luôn xót xa nhớ thương cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai,

...

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nguyễn Du đã dùng từ “xót” thật cảm động để nói đến tình cảm của Kiều đối với cha mẹ. Nàng xót xa khi tưởng tượng thấy cha mẹ đang “tựa cửa hôm mai” trông ngóng con, “xót” vì thời gian trôi đi, cha mẹ sẽ ngày càng già yếu mà nàng thì xa xôi cách trở. Những điển tích, điển cố “Sân Lai”, “gốc từ” càng khắc sâu thêm nỗi lòng của người con hiếu thảo.

Nỗi buồn xâm chiếm hết nỗi lòng Kiều xuyên thấu vào cảnh vật:

“Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Tám câu thơ vừa là nhạc vừa là họa. Đó là khúc nhạc buồn thấm thía. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, dồi dào âm hưởng. Hàng loạt từ láy vừa gợi âm thanh, vừa gợi hình ảnh: “thấp thoáng, xa xa , man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm”. những từ ấy cộng hưởng với từ “buồn trông” trỗi lên ở đầu các câu lục bát tạo nên một hợp âm dồi dào các thanh bằng có sức ngân lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm thấm thía. Sóng âm thanh huyền diệu đó chuyển tải các hình ảnh thơ đến thẳng lòng người. Không nhìn bằng mặt, ta vẫn cảm nhận được những bức tranh tâm tình từ tiếng lòng Kiều vẽ ra.

Trước hết là cảnh chiều hôm trên cửa biển cới “Thuyền ai thấp thoáng cách buồm xa xa”. Mấy chữ thôi mà mở ra một tâm trạng thấm buồn (cửa bể), một thời gian đượm buồn (chiềm hôm) của người đang lẻ loi ngóng đợi.Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng xa xa của ai đó sẽ đi về đâu? Phải chăng về nơi quê nhà thân yêu? Thơ cổ vẫn dùng hình ảnh ấy để biểu hiện nỗi nhớ nhà của khách tha hương. Cảnh hai là cánh hoa trôi trên ngọn nước:

“Buồn trông ngọn nước mới sa.

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Hình ảnh nước từ cao đổ xuống vỡ tung tóe phải chăng như thân phận bị vùi dập của Kiều? Trên dòng nước ấy, một cánh hoa lẻ loi bị đưa đẩy trôi đi lặng lẽ đến một phương trời vô định. Đây là hình ảnh thật hay chỉ là hình ảnh tưởng tượng trong tâm hồn cô gái đáng thương?Từ cảm nhận cái hữu hình, Kiều như nhìn thấy được cái vô hình: số kiếp hoa trôi bèo nổi của mình…

Cảnh tiếp theo là cánh đồng cỏ trải dài vô tận, mặt đất chân mây chỉ một màu xanh xanh:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Không phải một màu xanh xanh đầy sức sống mà chỉ là một màu “rầu rầu” héo úa và chỉ một màu thôi, mênh mông bát ngát. Cảnh ấy như gợi nỗi buồn thương vô vọng kéo dài như gợi nỗi buồn chán cuộc sống vô vị tẻ nhạt, thiếu sinh khí ở nơi cô quạnh này.

Cảnh vật trong những câu thơ trên buồn và vắng lặng. Ở hai câu cuối, cảnh cũng buồn nhưng không còn bình lặng nữa mà vang dội dữ dội:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Cơn gió mạnh cuốn trên mặt “duềnh”, ầm vang tiếng sóng, bủa vây xung quanh đến choáng ngợp. Đó là cảnh thực hay chỉ là hư ảo? Hay chỉ là nỗi ám ảnh lo sợ trước những tai biến sắp ập đến cho cái số kiếp mỏng manh của Kiều? có điều chắc chắn đó là tiếng sóng dội ra từ mảnh hồn cô đơn tội nghiệp làm nên vần nên điệu.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn thơ đúng là “bức tranh tâm tình đầy xúc động”. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp các yếu tố thơ – nhạc – họa để vẽ nên bức tranh độc đáo ấy để ta cảm nhận được tâm sự đáng thương của Thúy Kiều. Điều đáng quý không chỉ ở tài thơ mà còn ở cái tình lớn mà nhà thơ dành cho nhân vật, cho con người và cho cuộc đời. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thực sự để lại ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Bài mẫu số 3:

Đọc Truyền Kiều của Nguyễn Du, mấy ai mà không xúc động khi đọc đến đoạn trích "Kiểu ở lầu Ngưng Bích". Biết bao sự kiện đau lòng dồn dập đã xẩy đến với Kiều? Vì chữ hiếu phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình chuộc cha bị lừa gạt, phải tự vẫn, rồi được đưa ra ỷ lầu Ngưng Bích để làm gái mại dâm "gà chõng" - Đoạn truyện là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

Mặc dầu Kiều chưa dự kiến hết đoạn đời niềm vui lâu năm lưu lạc đầy chông gai mà nàng sẽ đi, tâm trạng của nàng khi ở lầu Ngưng Bích đã là dự đón về những đắng cay mà nàng sắp phải chịu. Tâm trạng ấy đã trở nên bất tử qua ngọn bút miêu tả của Nguyễn Du.

Toàn bộ đoạn trích là cả một nỗi buồn, một nỗi buồn mênh mang vô tận. Buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người. Một nỗi buồn không ai chia sẻ. Cảnh vật ở đây như một bức tranh có không gian "trước lầu Ngưng Bích", có thời gian "mây sớm đèn khụya". Trong cảnh vật ấy lại có con người "nàng Kiều".

Ta có thể hình dung Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích. Lầu thì vắng mà Kiều thì chỉ có một mình, Kiềụ cảm thấy rất cô đơn, cảnh vật với con người như gắn chặt với nhau - cảnh vật hiện ra được vẽ lại qua con mắt của nàng Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Bức tranh hiện lên mênh mông hoang vắng, không một nét thân mật để an ủi nàng, làm ấm lòng nàng. Nàng chỉ thấy non xa với trăng gần; chỉ thấy cát vàng bát ngát, bụi hồng xa xôi. Cảnh thiên nhiên như trùm phủ lấy tâm hồn Kiều, vừa đối lập vừa hòa hợp với nàng. Đối lập vì vẻ bao la của nó càng làm rõ cái bé nhỏ, cô độc của số phận nàng; hòa hợp vì cái xa xăm mênh mông của nó càng mở ra với tâm sự xa xôi của Kiều. Cho nên cảnh ở đây gắn chặt với tình người. Đó chính là một bức tranh tâm tình, bức tranh ấy, trước hết được vẽ bằng tâm trạng, tình cảm của Kiều - con người buồn - cảnh vật buồn.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

"Nửa tình nửa cảnh", một nửa là tâm sự của Thúy Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối ấy phụ họa với nhau mà tác động tới Kiều - chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan tác hơn, đau đớn hơn.

Ở đây ta cảm nhận được tâm sự của Kiều - Đó là nỗi nhớ da diết, khôn nguôi - chính "tấm trăng gần" gợi nhớ. Ánh trăng thề ngày nào như hiện ra đâu đây - nàng và Kim Trọng như mới chia tay nhau với bao lưu luyến hẹn hò mà có lẽ giờ đây chàng đang trông chờ khắc khoải:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Kiều ..yêu Kim Trọng và hiểu tấm lòng của chàng. Càng nhớ, nàng càng thương cho nỗi chờ đợi của chàng, bởi chàng còn chờ gì được nữa. Nàng đã ở nơi xa xôi góc bể chân trời, nàng sẽ khác.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Đối với người yêu thì như thế, còn đối với cha mẹ Kiều cũng thể hiện chữ đạo hiếu thật đáng quý. Chính vì thương cha mẹ, Kiều đã hy sinh mối tình cao đẹp của mình để cùng gia đình thoát khỏi cảnh nguy nan. Giờ gia đình được sum họp, chỉ riêng Kiều phải lưu lạc đất khách quê người. Thế mà nàng đâu có nghĩ đến thân mình, nỗi đau của riêng mình. Nguyễn Du đã dùng từ "xót" thật cảm động để nói đến tình cảm của Kiều đối với cha mẹ, trong khi dùng từ "tưởng" để đối với Kim Trọng ở đoạn trên.

"Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm ?"

Nàng xót xa khi nghĩ đến cha mẹ, sớm hôm "tựa cửa" trông mong tin tức của mình - Và nàng đang lo lắng không biết có ai thay mình sớm hôm chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ già yếu ai sẽ lo "ấp lạnh", "quạt nồng". Kiều thật là một người con hiếu thảo.

Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngư­ng Bích”quả thật là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Với cách lựa chọn thiên nhiên hết sức chính xác, kết hợp với ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các điển tích, cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, nhà thơ đã diễn tả chân thực, cụ thể, tinh tế, diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi phải sống ở lầu Ngư­ng Bích. Đó là lỗi cô đơn, buồn tủi, thư­ơng nhớ ng­ười thân tha thiết, nỗi buồn lo, hãi hùng. Nhà thơ đã thấu hiểu tâm trạng của Kiều cũng có nghĩa là nhà thơ đồng cảm với nhân vật, cảm thông chia sẻ với nỗi đau của Kiều. Đó chính là biểu hiện của giá trị nhân văn. Vì thế đọc đoạn trích này ta thấy, Nguyễn Du không chỉ là nhà nghệ sĩ thiên tài trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng mà còn là nhà thơ của trái tim nhân đạo.

--------------------------------------------------------------------

Với đề tài nhận định về một ý kiến trong văn học, các em có thể trình bày những ý kiến riêng của mình theo các cách khác nhau, có thể đưa ra nhiều quan điểm nhưng vẫn phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu cơ bản như: dẫn dắt vấn đề, giải thích ý kiến, phân tích lí giải, ý nghĩa, khẳng định lại vấn đề và rút ra bài học. Để làm tốt văn mẫu lớp 9 bài phân tích nhận định ý kiến "Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động", các em có thể tham khảo phần hướng dẫn dàn ý và một số bài văn mẫu trên đây, xem lại bài văn mẫu Phân tích diễn biến tâm trạng Kiều ở lầu Ngưng Bích để có thêm nhiều ý văn hay cho bài làm của mình.

Chúc các em học tốt và đạt điểm cao !

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM