Phân tích hình tượng Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu

Xuất bản: 31/08/2018 - Cập nhật: 20/03/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích nhân vật Tnú, lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và những bài văn hay tham khảo phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm những gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo những bài văn mẫu hay để tham khảo, mở rộng vốn từ ngữ.

Cùng tham khảo ngay...

Hướng dẫn phân tích nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu

1. Phân tích yêu cầu đề

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nhân vật Tnú (Rừng xà nu).

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: những câu văn, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm nhân vật Tnú

- Luận điểm 1: Tnú - người chiến sĩ gan lì, quả cảm, gắn bó và tuyệt đối trung thành với cách mạng

- Luận điểm 2: Tnú - người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con

- Luận điểm 3: Tnú - người con đầy nghĩa tình với dân làng Xô-man

3. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tnú

So do tu duy phan tich nhan vat Tnu trong tac pham Rung xa nu

Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật Tnú

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

+ Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên.

+ Rừng xà nu là một trong những tác phẩm thành công viết về mảnh đất này.

- Giới thiệu hình tượng nhân vật Tnú: Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm - người anh hùng kết tinh vẻ đẹp của cộng đồng.

2. Thân bài phân tích nhân vật Tnú

a) Luận điểm 1: Tnú - người chiến sĩ gan lì, quả cảm, gắn bó và tuyệt đối trung thành với cách mạng.

- Lúc còn bé đến khi trở thành chiến sĩ:

+ Cha mẹ mất sớm, Tnú được người dân làng Xô Man cưu mang, nuôi lớn.

+ Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm

+ Tnú từ nhỏ đã tỏ ra gan góc, táo bạo và nỗ lực hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao:

  • Hăng hái xung phong vào rừng bảo vệ cho bộ đội, bất chấp sự khủng bố dã man của địch.
  • Khi bị kẻ địch bắt, bị tra tấn dã man, bị tra hỏi, Tnú nuốt luôn lá thư vào bụng rồi chỉ tay lên bụng mình mà nói “cộng sản ở đây này”

- Tnú khi trưởng thành và bi kịch gia đình:

+ Sau thời gian 3 năm ở tù, Tnú đã vượt ngục để trở về lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.

+ Tnú bị bắt trói, bị đốt 10 đầu ngón tay, vợ con bị giặc giết chết trước mặt.

+ Nỗi đau trào dâng lên trong người nhưng Tnú không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục”,... nén nỗi đau lại để đứng lên đánh giặc.

- Sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, tính kỉ luật cao:

+ Còn nhỏ đã tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng “Cán bộ là Đảng, Đảng... này còn”.

+ Sau đêm kinh hoàng (vợ con bị giết), anh không bi quan mà gia nhập lực lượng giải phóng quân trả thù cho dân làng, gia đình.

+ Khi lập được chiến công, được nghỉ 1 ngày phép về thăm làng, anh đã chấp hành đúng quy định.

- Hình ảnh đôi bàn tay Tnú:

+ Bàn tay yêu thương: anh Quyết nắm lấy tay Tnú, Mai nắm lấy tay Tnú khi anh trở về,...

+ Bàn tay đau thương: chứng kiến cảnh vợ con chết, chịu sự tra tấn của kẻ thù.

+ Bàn tay căm thù: chứng tích của lòng hận thù.

+ Bàn tay báo thù: giết giặc trả thù cho Mai, cho con, cho dân làng Xô Man.

+ Là nhân chứng cho con đường của dân làng Xô Man: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

=> Lòng căm thù giặc và quyết tâm đánh bại kẻ thù trong Tnú đã trở thành động lực to lớn, thúc đẩy Tnú hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một người chiến sĩ.

b) Luận điểm 2: Tnú - người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con

- Tnú và Mai đã cùng nhau lớn lên trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, rồi trở thành vợ chồng và chào đón đứa con đầu lòng trong niềm hạnh phúc ngập tràn.

- Tuy nhiên, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị ấy đã bị kẻ thù tàn bạo phá vỡ:

+ Chúng đã bắt vợ và con anh rồi tra tấn, đánh đập dã man

+ Chúng tin rằng “bắt được con cọp cái và cọp con tất sẽ dụ được cọp đực trở về” nhưng rồi đến cuối cùng chúng đã giết chết mẹ con Mai.

- Tnú đã chứng kiến cái chết của vợ con mình, anh “đã bứt đứt cả hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) ở chỗ con mắt Tnú bây giờ là hai cục lửa lớn.”

=> Hành động của Tnú xét đến cùng là biểu hiện của người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.

c) Luận điểm 3: Tnú - người con đầy nghĩa tình với dân làng Xô Man.

- Khi tham gia lực lượng giải phóng quân, anh rất nhớ nhà, nhớ quê hương.

- Dù chỉ được về phép một đêm anh vẫn trở về.

- Trở về thăm quê sau ba năm đi chiến đấu, anh vẫn nhớ như in từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối.

d) Đặc sắc nghệ thuật

- Xây dựng nhân vật bằng bút pháp sử thi

- Sử dụng nhiều chi tiết có giá trị biểu tượng (đôi bàn tay Tnú)

- Ngôn ngữ kể chuyện mang đậm màu sắc Tây Nguyên

- Ngôn ngữ của nhân vật có tính cá thể hóa, thể hiện được khẩu khí của những người anh hùng

- Nghệ thuật trần thuật điểm nhìn từ nhân vật cụ Mết

- Kết cấu truyện lồng trong truyện.

3. Kết bài

- Khái quát lại vẻ đẹp của nhân vật Tnú.

- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về nhân vật.

Những bài văn mẫu hay phân tích nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu

Phân tích nhân vật Tnú bài văn mẫu số 1

Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng, với Nguyễn Trung Thành đó là Tây Nguyên. Ông đã có rất nhiều tác phẩm viết về mảng đề tài này, đặc biệt là hình ảnh của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng Tây Nguyên. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là truyện ngắn "Rừng xà nu", tác phẩm là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa nhà ưng.

Nhìn lại chặng đường đời của Tnú, chúng ta có thể dễ dàng thấy hiện lên hình ảnh một Tnú trước và sau khi đúng lên cầm vũ khí. Trước khi cầm vũ khí, ngay từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ ngụy ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết. Người đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú. Cậu bé này dám lấy đá đập vào đầu mình khi học cái chữ không sáng tạo bằng Mai. Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: "Cộng sản ở đây này". Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.

Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Khi thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi 3 ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.

Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời. Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không thể sống sót. Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh. Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay "Mỗi ngón chỉ còn hai đốt... không mọc lại được". Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo".

Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao. Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùng thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên. Khi đốt cháy hai bàn tay của Tnú, kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man. Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới lưỡi gươm và nòng súng tàn bạo của chúng. Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt. Họ đã biết vượt qua đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình. Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô Man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng. Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng.

Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi động: "Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng Xô Man mà là sự lớn dậy phi thường của cả một cộng đồng, dân tộc. Dường như trong đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên".

Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của anh. Đôi bàn tay bị đốt cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắc của dân làng Xô Man, nó còn soi sáng cuộc đời anh. Anh đã thay mặt người dân làng Xô Man lên đường theo kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác. Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: "Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày bằng súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi". Nhà văn đã cố tình tô đậm hình ảnh đôi bàn tay Tnú - đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.

Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chữ không sáng dạ bằng Mai. Và đôi bàn tay ấy dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc "Cộng sản ở đây này" khẳng định lòng trung thành với cách mạng. Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng đôi bàn tay ấy xé tấm đồ làm nịu cho đứa con thơ dại. Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại được... cho nên Tnú muốn dùng đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù. Bao uất hận căm hờn đã dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất, cho sức sống mãnh liệt của Tnú và người dân làng Xô Man. Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.

Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc họa được hình ảnh tiêu biểu của con người mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên. Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý.

Phân tích nhân vật Tnú bài văn mẫu số 2

Tây Nguyên miền đất đỏ ba dan với những văn hóa phi vật thể nổi tiếng, có bản anh hùng sử Đăm Săn. Nơi đây đã chịu bao mất mát bởi sự tàn phá dã man của kẻ thù, nhưng với phẩm chất gan dạ bất khuất họ đã đứng lên từ đau thương để chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp ta biết đến Núp với những đức tính kiên cường, không sợ nguy hiểm của kẻ thù để chiến đấu. Đến cuộc kháng chiến chống Mĩ thì Nguyễn Trung Thành đã cho ta thấy vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên thông qua hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng xà nu” năm 1965. Qua nhân vật này tác giả đã cho ta thấy phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, không chỉ vậy mà còn là nhân vật gửi gắm những lời phát ngôn mang tính tư tưởng sâu sắc.

Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy nhân vật Tnú là trung tâm là linh hồn của truyện ngắn này, nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút sắc sảo giàu tính sử thi, nghĩa là nhân vật có một đời tư nhưng không được tác giả quan sát miêu tả từ góc nhìn của đời tư mà xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Vì vậy vẻ đẹp của nhân vật là vẻ đẹp của cộng đồng, vẻ đẹp người dân bất khuất kiên cường anh hùng trong chiến đấu. Còn nỗi đau của đời anh chính là nỗi đau của người dân Tây Nguyên trong trận chiến đẫm máu của kẻ thù. Tất cả đều được thể hiện qua hai chặng đời của Tnú lúc còn nhỏ và lúc trưởng thành. Qua nhân vật này nhà văn muốn thể hiện tư tưởng "nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Vì vậy nhân vật Tnú còn gánh vai trò là nhân vật tư tưởng của tác giả.

Mặc dù mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng Tnú được sống trong sự đùm bọc chở che của dân làng. Và từ đây anh được giác ngộ lý tưởng cách mạng và ý thức được cách mạng, sống với một tuổi thơ phi thường đầy ắp những chiến công và kỳ tích. Tuổi thơ của một tiểu anh hùng nhỏ dũng cảm, gan góc và tuyệt đối trung thành với cách mạng.

Thật vậy phẩm chất anh hùng Tây Nguyên như ngấm vào máu của Tnú. Ngay từ khi còn nhỏ Tnú và Mai đã tham gia nuôi giấu cách mạng: "như cây xà nu vươn lên”. Đấy là con đường đầy máu lửa và hy sinh, địch khủng bố dã man những người nuôi giấu cán bộ. Anh Xút bị treo cổ ở cây vả đầu làng, lớp thanh niên bị lộ già làng đi thay bà Nhan cũng bị chặt đầu. Đó chính là hành động man rợ của kẻ thù hòng khuất phục tinh thần ý chí của dân làng Xô Man. Nhưng với tinh thần dũng cảm và ý chí đấu tranh thì Tnú cũng không sợ mà bước tiếp con đường mà dân làng đã đi. Khi anh Quyết hỏi Tnú: "Em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Sút bà Nhan đó”. Tnú đã khẳng khái trả lời: "Cụ Mết bảo cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”.

Mặc dù Tnú chỉ nhắc lại câu nói của cụ Mết nhưng qua đó ta thấy được sự lựa chọn của anh, giữa sinh mệnh của cá nhân và vận mệnh của dân tộc Tnú luôn sẵn sàng quên mình để bảo vệ cho cái chung đó. Như vậy Tnú không phải chỉ là một cậu bé gan góc, dũng cảm mà còn sớm có tinh thần yêu nước, yêu cách mạng. Người anh hùng nhỏ tuổi Tnú không chỉ sống một cuộc đời bình thường mà sống một cuộc sống phi thường. Ngay từ cách học của Tnú, Tnú cũng chọn cách học phi thường. Từ việc học chữ hay quên mà để trừng trị cái tính ấy của mình và thể hiện ý chí quyết tâm Tnú lấy đá đập vào đầu mình khiến cho máu chảy ròng ròng. Lúc giận mình tưởng như phải bỏ cuộc anh Quyết đã khuyên: "Không học chữ thì làm sao làm cách mạng được”. Vậy là tinh thần cách mạng đã thôi thúc quyết tâm học chữ của Tnú. Vẻ đẹp của Tnú đặc biệt được thể hiện ở việc làm tiếp tế cho cách mạng. Khác với những đứa trẻ khác, Tnú luôn xe rừng vượt thác mà đi.

Bằng sự thông minh và tài trí đã sớm dạy cho Tnú hiểu những chỗ đi dễ dàng rất dễ gặp phục kích. Và thế là Tnú "không đi chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên như thác băng băng như một con cá kình”. Câu văn giàu hình ảnh so sánh ấy đã cho ta thấy cá tính mạnh mẽ của chàng trai lớn lên từ núi rừng. Trong một lần không may bị giặc bắt: "Tnú nuốt vội lá thư” và khắc sâu lời cụ Mết dạy: "Đảng còn núi nước này còn”. Chúng bắt và tra hỏi anh cộng sản ở đâu? Anh đặt tay lên bụng đầy kiêu hãnh “cộng sản ở đây”. Và lập tức người vằn ngang vằn dọc vết chém của kẻ thù. Dù vậy chúng không thể khuất phục được anh, đó chính là tính cách của người anh hùng “uy vũ bất năng khuất”.

Cuộc đời của Tnú điển hình cho con đường đấu tranh của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ, cuộc đời anh ở giai đoạn này đã làm sáng tỏ chân lí: "chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Khi trưởng thành là lúc Tnú vượt ngục trở về với dân làng và lãnh đạo dân làng tiếp tục chiến đấu. Khi trở lại làng anh trở thành một chàng trai hoàn hảo. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn nồng căng sự sống với hai cánh tay khỏe khoắn, chắc như lim, chứa đầy trong bộ ngực rộng rãi của anh là sức mạnh mênh mông man dại của đại ngàn. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên truyền lại từ thời Đăm Săn. Tính cách của anh bướng bỉnh kiêu hãnh là tính cách của Tây Nguyên dữ dội, quyết liệt. Anh đã trở thành đội trưởng đội du kích làm cho bọn giặc phải khiếp sợ kinh hoàng: "con cọp đó mà không giết sớm nó làm loạn núi rừng này rồi”.

Bi kịch của Tnú cũng là bi kịch chung của dân làng Xô Man khi chưa dùng vũ khí. Sau khi trở về làng Tnú gặp lại Mai, họ đã có mối tình đẹp nên vợ nên chồng. Tnú được sống với người mà mình yêu thương và có đứa con đầu lòng. Tưởng như đó là cái kết tốt đẹp cho những gian khổ mà Tnú phải trải qua, nhưng ai đó đã từng nói: "Còn thằng Mĩ sẽ không ai có được hạnh phúc cả”. Cuộc đời của Tnú cũng vậy, nếu như ở đoạn đời trước của anh người đọc cảm phục với sự gan dạ dũng cảm kiên cường, thì đến đây câu chuyện cụ Mết kể cho lũ làng nghe về cuộc đời Tnú khiến chúng ta không khỏi bàng hoàng trước nỗi đau quá lớn mà anh phải chịu. Chuyện bắt đầu từ khi anh Quyết hy sinh Tnú trở thành đội trưởng đội du kích làng Xô Man, sức ảnh hưởng của anh đến phong trào cách mạng khiến bọn chúng phải khiếp sợ, chúng đưa quân về bao vây làng nhằm tiêu diệt phong trào nổi dậy. Để truy tìm Tnú chúng đã dùng đến hành vi hèn hạ dã man: "Bắt được con cọp cái và cọp con tất dụ được con cọp đực trở về”. Vì thế vợ con anh bị bắt và tra tấn bằng gậy sắt, làm cho người sản phụ mới sinh và đứa con chưa đầy tháng tuổi phải chết gục.

Đau đớn thay tất cả sự việc kia đều diễn ra ngay trước mặt Tnú, anh đứng gần đó và chứng kiến: "anh nấp sau gốc cây vả, tay dứt hàng chục quả vả mà không hay”. Chứng kiến cảnh vợ con bị đánh cho tới chết, nhưng anh không thể ra bởi nếu anh bị bắt sẽ ảnh hưởng đến cách mạng. Nhưng khi chứng kiến đứa con thét lên một tiếng và chết trong tay mẹ trong anh lúc này chỉ còn lòng hận thù và đau đớn. Nỗi đau ấy đã khiến mắt anh thành: "hai cục lửa lớn”, bởi nỗi đau và lòng căm thù. Anh thét lên dữ dội và lao vào lũ giặc để cứu vợ con.

Nhưng anh cứu làm sao nổi vì anh chỉ có hai bàn tay không. ”Ừ Tnú không cứu được mẹ con Mai” tác giả đã lặp đi lặp lại câu của cụ Mết về nỗi đau của anh như một điệp khúc đau thương đầy ám ảnh day dứt. Tnú không cứu được vợ con cũng không bảo vệ được chính bản thân mình anh đã bị giặc bắt, chúng dùng nhựa xà nu tẩm vào giẻ: "quấn vào 10 đầu ngón tay của Tnú”, “một ngón tay Tnú bốc cháy, 2 ngón, 3 ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã trở thành 10 ngọn đuốc”. Đây là một hình ảnh vô cùng sáng tạo không dễ sinh ra hai lần trong một cuộc đời viết văn. Hình ảnh bàn tay Tnú bốc cháy tố cáo tội ác dã man của quân giặc, chúng thâm hiểm độc ác đã đốt và mười đầu dây thần kinh nhạy bén của con người. Lửa cháy trên 10 đầu ngón tay của anh lại là nhựa xà nu - thứ nhựa ngọt ngào như đọng nắng quê hương đã trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã từng chăm sóc nó. Đồng thời hình ảnh này cũng cho bạn đọc thấy được lòng can trường dũng cảm của Tnú đối với cách mạng.

Lửa có thể cháy trên 10 đầu ngón tay, nhưng không thể thiêu cháy được ý chí căm thù giặc của Tnú. Anh đang bị cháy ở 10 đầu ngón tay, nhưng: "anh nghe như đang cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Mà đau đớn đến mức răng anh cắn nát môi anh. Với bản lĩnh kiên cường bất khuất của người cộng sản, anh không thèm kêu, anh nhớ lời của anh Quyết: "người cộng sản không thèm kêu van”. Anh ngã xuống rồi ngất đi, thét lên tiếng thét căm hờn của núi rừng “giết”.

Vậy là qua bi kịch của Tnú và cả gia đình, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn nêu cho chúng ta đâu là nguyên nhân của những bi kịch ấy: anh đã có tất cả tình yêu của gia đình, tình yêu đất nước, lòng căm thù quân giặc, tinh thần bất khuất kiên cường nhưng tại sao anh lại thất bại? Tác giả đã để cho lịch sử phán truyền qua lời cụ Mết: "Tnú không cứu được mẹ con Mai vì mày chỉ có hai bàn tay trắng” dù có thương Tnú đến đâu thì cụ Mết và dân làng Xô Man cũng không thể cứu anh: "tau không nhảy ra cứu mày vì tao cũng chỉ có hai bàn tay không”. Và từ đó nhà văn cho thấy hậu quả sẽ như thế nào khi kẻ thù đã cầm súng mà mình chưa cầm giáo?

Câu chuyện về cuộc đời Tnú chỉ có một mình tay không xông vào giữa kẻ thù thì ngay cả thứ nhựa xà nu thân thiết cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt. Cuộc đời Tnú là bằng chứng sống cho quy luật nghiệt ngã đó. Và từ đó cụ Mết cũng ghi tạc chân lí: "chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Sau tiếng thét của Tnú đầy căm hờn là tiếng nói của cụ Mết như sấm dậy vang truyền cả núi rừng: "Chém, chém hết… thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên”. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử "có áp bức phải có đấu tranh”. Bằng hình tượng nghệ thuật của mình nhà văn đã cho ta thấy khi chúng ta cầm giáo mác để đứng lên chống lại kẻ thù là súng đạn sẽ phải thay đổi. Lúc này ngọn lửa đã tắt trên 10 đầu ngón tay của Tnú. Những ngọn đuốc xà nu soi xác 10 thằng giặc nằm ngổn ngang và Tnú được cứu sống. Những thằng giặc gian ác cũng phải trả giá bằng tính mạng của mình.

Khi xây dựng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt thành công khi đưa chi tiết bàn tay Tnú để làm lên hình tượng nhân vật. Đây là một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa tư tưởng lớn lao. Từ hình ảnh này ta thấy hiện lên cuộc đời và tính cách của nhân vật. Bàn tay của Tnú khi còn lành lặn là bàn tay trung thực tình nghĩa, bàn tay cầm phấn viết chữ mà anh Quyết dạy cho, bàn tay cầm đá đập vào đầu để trừng phạt thói hay quên khi học, bàn tay đặt lên bụng và nói "cộng sản ở đây này”, nó còn là bàn tay lao động và gây dựng phong trào cách mạng.

Lúc Tnú thoát ngục Kon Tum trở về gặp Mai ở đầu rừng núi vào làng, Mai cầm hai bàn tay Tnú mà giàn giụa nước mắt. Đó là bàn tay của sự yêu thương của tình yêu với những kỉ niệm chân tình. Không chỉ vậy bàn tay ấy đã cầm súng đi bắn giặc, bàn tay chở che cho mẹ con Mai, bàn tay lên núi Ngọc Linh lấy đá. Vẫn hai bàn tay ấy nhưng bị quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt. Mười ngón tay trở thành mười ngọn đuốc, đã thiêu đốt gan ruột và hệ thần kinh của anh. Mười ngọn đuốc trên mười ngón tay ấy đã châm bùng ngọn lửa cách mạng, ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man.

Bàn tay của Tnú đã được dập lửa nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt, ngón tay anh không thể mọc lại. Bàn tay cụt đó như chứng tích đầy căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, ghi lại những tội ác tàn bạo dã man của kẻ thù. Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo cầm súng được và Tnú đã lên đường đi tìm thằng Dục để trả thù. Đến cuối chuyện bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện, dùng đôi bàn tay cụt đốt ấy anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó. Soi ánh đèn pin vào mặt nó để nó nhìn rõ đôi bàn tay trừng phạt của anh, đôi bàn tay quả báo. Mặc dù còn hai đốt nhưng đôi bàn tay ấy đã đem lại chiến thắng.

Tác phẩm "Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Trong tác phẩm sử dụng bút pháp sử thi một cách nhuần nhuyễn mang ý nghĩa biểu tượng cho cộng đồng, sức mạnh, vẻ đẹp và những đau thương mất mát của con người Tây Nguyên “sau này tau chết rồi phải kể cho con cháu về Tnú”. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật nói ít nhưng bộc lộ một cách trực tiếp thẳng thắn, những hành động trong chuyện thì quyết liệt mạnh mẽ và dứt khoát. Tnú hiện lên qua lời kể của cụ Mết bên cạnh bếp lửa cho ta thấy vẻ đẹp của anh hùng dũng sĩ thời xưa.

Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công nhân vật Tnú vừa mang vẻ đẹp trữ tình và những tư tưởng của tác giả muốn gửi gắm. Không những vậy vẻ đẹp của Tnú còn có tính sử thi và thời đại lúc bấy giờ. Qua nhân vật này tác giả đã thể hiện được thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng.

Phân tích nhân vật Tnú bài số 3:

Nguyễn Trung Thành là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, sinh ra ở Quảng Nam nhưng nhà văn lại có tình cảm sâu đậm với mảnh đất Tây Nguyên. Nếu kháng chiến chống Pháp ông đã từng có tiểu thuyết đất nước đứng lên viết về mảnh đất và con người Tây Nguyên anh hùng được trao giải nhất giải thưởng Văn học Việt Nam 1945 - 1955 thì thời kì kháng chiến chống Mỹ ông lại có truyện ngắn Rừng xà nu thể hiện một cách hào hùng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong tác phẩm nhà văn thành công trong việc xây dựng một số hình tượng nghệ thuật trong đó hình tượng nhân vật Tnú là một biểu tượng đẹp đẽ, là một thành công nghệ thuật góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Tnú là nhân vật chính của truyện ngắn. Vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú lớn lên nhờ sự đùm bọc nuôi dưỡng của dân làng Xô Man có lẽ vì thế mà hơn ai hết "Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng". Bản chất của Tnú: chân thật, tốt bụng. Đúng như lời cụ Mết nói "đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta".

Ngay từ khi còn nhỏ Tnú đã thể hiện là một cậu bé gan góc, bướng bỉnh, rắn rỏi, mạnh mẽ. Những ngày ấy làng Xô Man bị kẻ thù khủng bố điên cuồng "không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang rừng". Anh Xút bị giặc treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng vì đã vào rừng nuôi cán bộ nhưng những điều ấy không khiến cho Tnú sợ hãi. Tnú và Mai là hai đứa trẻ hăng hái nhất vẫn trốn ra rừng nuôi anh Quyết thậm chí đêm chúng còn ngủ lại rừng đề phòng giặc lùng còn có người dẫn cán bộ chạy.

Được anh Quyết dạy học chữ, Tnú học thua Mai, nó tức đập vỡ bảng bỏ ra suối ngồi lấy đá đập lên đầu cho máu ròng ròng. Làm liên lạc với anh Quyết, Tnú thường xé rừng mà đi, lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên trên mặt nước cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Khi rơi vào sự đột kích của giặc Tnú nuốt luôn lá thư vào bụng kiên quyết không khai dù bị bọn giặc trói, đánh, tra khảo. Mỗi lần chúng hỏi Tnú lại đặt bàn tay lên ngực dõng dạc trả lời "Cộng sản ở đây". Sau những lần như thế, tấm lưng nhỏ của Tnú lại vằn thêm những vết dao chém.

Ba năm ở tù, Tnú chịu đủ mọi đòn tra tấn nhưng không đau đớn bằng khi anh chứng kiến cảnh lũ ác ôn dùng gậy sắt đánh vợ và đứa con trai anh ngã ngửa cho đến chết. Lòng căm thù khiến cho hai mắt của Tnú như hai ngọn lửa lớn, anh hét lên lao thẳng vào lũ lính bóp cổ thằng Dục, rồi dang rộng cánh tay như hai cánh lim che chở cho mẹ con Mai nhưng Tnú đã không cứu được vợ con vì anh chỉ có hai bàn tay trắng. Bản thân anh cũng bị bắt bị trói, bị cuốn giẻ tẩm dầu xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay như mười ngọn đuốc, lửa cháy đến đâu cái đau cái nóng trên mười đầu ngón tay lan đến từng thớ thịt của cơ thể.

Cả về thể xác lẫn tinh thần, nỗi đau của Tnú lên đến đỉnh điểm. Vợ chết con chết bi thảm, mười đầu ngón tay của Tnú không ngón nào không mất một đốt, bao nhiêu đau thương, bao nhiêu uất hận nén thành lòng căm thù. Đôi bàn tay đầy thương tích của Tnú vẫn có thể cầm được súng, bóp được cò, giết được giặc, anh tham gia vào bộ đội giải phóng quyết trả thù cho vợ con, cho lũ làng, cho quê hương.

Căm thù mãnh liệt nhưng con người của Tnú không chỉ có thù hận anh còn là người giàu tình cảm, biết yêu thương sâu sắc, ba năm đi bộ đội Tnú luôn nhớ da diết cảnh vật, con người, buôn làng, quê hương. Đạt danh hiệu chiến sĩ diệt Mỹ, được thưởng cho thành tích anh chỉ xin cấp trên cho về thăm làng Xô Man một đêm để được ăn bữa cơm độn củ, được rửa mặt bằng nước suối mát lạnh của làng, được thưởng thức một đêm cùng với dân làng - những người mà anh coi còn hơn cả ruột thịt. Hình ảnh Tnú chẳng khác nào một cây xà nu trưởng thành của đất rừng Tây Nguyên từ đau thương mà mọc lên vững chãi, rắn rỏi, mạnh mẽ, cường tráng không bom đạn nào có thể tiêu diệt được.

Số phận và tính cách của nhân vật Tnú tiêu biểu cho người dân làng Xô Man với những phẩm chất đẹp đẽ của con người Tây Nguyên. Anh xứng đáng là một tấm gương cho cụ Mết giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Nhân vật Tnú là một hình tượng đẹp góp phần tô đẹp chủ đề và làm nên màu sắc sử thi cho truyện ngắn Rừng xà nu.

Một số bài văn hay phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong tác phẩm truyện ngắn Rừng xà nu sẽ cho chúng ta thấy được rõ hơn phẩm chất anh hùng của Tnú và con người Tây Nguyên.

Phân tích nhân vật Tnú bài số 4:

   “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm đã thể hiện sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí, kiên cường, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Ngay từ nhỏ Tnú đã là cậu bé thông minh, lanh lợi, gan dạ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy lớn khôn. Tnú đã chứng kiến bao cảnh đau thương của dân làng Xô Man: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” chỉ vì họ đã dám nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tnú đến với cách mạng như một lẽ sống tự nhiên. Mới 10 tuổi, Tnú đã thay người lớn vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú nhớ như in lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”.

Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn, “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích của giặc. Khi qua sông, Tnú không thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình”. Trong một lần đi liên lạc, không may Tnú bị giặc bắt giam cầm ba năm, bị tra tấn dã man song vẫn cương quyết không khai nửa lời.

Khi trốn thoát khỏi ngục trở về với dân làng, Tnú đã trở thành một cán bộ cách mạng, trưởng thành về mọi mặt. Anh trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô Man. Cùng với dân làng Tnú chuẩn bị giáo mác cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tnú cũng gặp lại Mai - cô bạn gái năm xưa cùng đi liên lạc, đi tiếp tế cho cán bộ nay trở thành bạn đời của anh.

Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua một bi kịch lớn về tình cảm. Bọn giặc kéo đến làng Xô Man lùng bắt Tnú nhưng không được. Chúng bắt Mai và đứa con vừa đầy tháng tuổi ra tra tấn. Bọn giặc dùng một cây sắt tra tấn mẹ con Mai: “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Tnú đã không kìm nén được lòng mình, anh chồm lên xông vào bọn giặc với một tiếng thét dữ dội. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai, không bảo vệ được tình yêu và giọt máu của mình bởi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Cả vợ và con đã bị giặc giết hại, Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn lao.

Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc đã quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt 10 ngón tay Tnú để dập tắt cái “mộng cầm giáo mác” của dân làng Xô Man. Trong cuộc đối đầu quyết liệt này, phẩm chất kiên cường của Tnú càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. “Mười ngón tay anh cháy như 10 ngọn đuốc. Lửa như cháy trong lồng ngực. Máu mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng “Người Cộng sản không thèm kêu van”. Tnú mở mắt nhìn vào kẻ thù trừng trừng đầy căm hận.

Hình ảnh 10 ngón tay Tnú rừng rực cháy như 10 ngọn đuốc đã trở thành biểu tượng cho nỗi đau thương, tinh thần bất khuất của con người và mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Mười ngọn đuốc từ tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy đẩu tranh của dân làng Xô Man. Tnú thét lên một tiếng, chỉ một tiếng thội nhưng đã vang dội thành nhiều tiếng thét rung chuyển cả núi rừng. Cả làng Xô Man đã đứng dậy. “Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Đau thương và căm thù đã chuyển hóa thành sức mạnh quật cường như một quy luật tất yếu “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

Tnú trở thành một anh bộ đội của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Lửa xà nu đã tắt trên 10 đầu ngón tay Tnú. Tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt như một chứng tích đầy căm hận mà anh mang theo suốt đời. Nhưng “tay còn hai đốt vẫn bắn súng được”. Tnú đi bộ đội lực lượng tham gia chiến đấu. Chính bàn tay có những ngón chỉ “còn hai đốt” ấy sau này đã bóp cổ thằng Dục (thằng ác ôn đã giết mẹ con Mai). Trong ánh đèn soi vào mặt thằng Dục, Tnú đã cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt. Đối với anh bây giờ “bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục” bởi mối thù riêng của anh đã hòa vào mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước. Đó cũng là sự trưởng thành về nhận thức mà Tnú đã rút ra được từ nhiều nỗi đau của gia đình, của quê hương trong cuộc chiến khốc liệt này.

Tnú còn là một người có tính kỉ luật rất cao và giàu tình yêu thương. Trong ba năm đi lực lượng vũ trang, xa làng Xô Man, nỗi nhớ về quê hương day dứt trong lòng anh. Nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng và chỉ được về đúng một đêm. Con người kiên nghị, gan góc, không biết run sợ, khuất phục trước bạo tàn cũng lại là con người rất giàu tình cảm. Bước chân về đến đầu làng anh xúc động mãnh liệt “cứ vấp mãi vào mấy cái gốc cây”. Tnú sung sướng tắm mình trong dòng nước mát của con suối. Vào tới nhà Ưng, lòng anh như náo nức những tiếng gọi thân thương với những cái tên quen thuộc, mộc mạc đã gắn bó với anh như ruột thịt. Tnú là đứa con yêu thương của tất cả dân làng Xô Man.

Câu chuyện về anh Tnú và sự trưởng thành của anh tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và con đường trưởng thành cách mạng của tất cả các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tnú mang trong mình dòng máu của Đăm Săn, Sinh Nhã… dòng máu anh hùng thần thoại của xứ sở Tây Nguyên. Anh cũng mang sức mạnh của rừng xà nu hào hùng ngay cả trong đau đớn, bất diệt ngay trong sự hủy diệt. Tnú hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng mang đậm chất sử thi hoành tráng.

Qua nhân vật này, tác giả muốn biểu dương vẻ đẹp một thế hệ cách mạng trẻ trung, kiên cường, bất khuất, khắc sâu vào tâm can đời sau một chân lý “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý mà chúng ta đã chọn cho con đường cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng.

Phân tích nhân vật Tnú bài số 5:

Là một trong những nhà văn nổi bật trong nền văn học Việt Nam qua thể loại truyện ngắn, Nguyễn Trung Thành đã mang tới độc giả những hình ảnh hùng vĩ, oai hùng nhất cả về khung cảnh và con người vùng đất Tây Nguyên qua tác phẩm Rừng xà nu. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình ảnh của những cây xà nu “luôn hướng về phía ánh sáng” tựa như con người của Tnú. Tnú được xem là hình ảnh người con tiêu biểu của nhân dân Tây Nguyên luôn kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong giai đoạn đất nước trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt, đã có biết bao người anh hùng, chiến sĩ cán bộ không quản ngại xả thân vì sự nghiệp nước nhà. Nhân dân khắp nơi trên đất nước đều hòa chung không khí chiến đấu, từ vùng đất “Việt Bắc“ đáng mến, cho tới Tây Nguyên bạt ngàn, người dân trên dải đất hình chữ S đều luôn mang cao tinh thần chiến đấu, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù của dân tộc.

Nhân vật Tnú là một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện, bên cạnh cụ Mết, Mai, Dít tới bé Hen. Tnú lớn lên cùng dân làng Xô Man. Dân làng đã nuôi dưỡng, đùm bọc và tiếp lửa tinh thần chiến đấu trong tâm trí của Tnú: “nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó”. Tuy anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhưng cuộc đời anh vẫn dành trọn tình thương của cả dân làng. Anh lớn lên trong những cánh rừng xà nu bạt ngạt, trong tiếng chày giã gạo của những cô gái, của những cụ già lão làng.

Được thấm nhuần tư tưởng của Đảng, Tnú lớn lên đã luôn ý thức được con đường đi của Cách mạng. Từ khi còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra là một người chiến sĩ nhí gan dạ. Tnú đã cùng Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết - một cán bộ cốt cán của nhà nước. Tuy nhỏ nhưng tiềm thức không hề bị khiếp sợ trước quân thù. Có lần vượt thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy anh, thế nhưng anh quyết giữ bí mật của bức thư mà anh Quyết đã trao. Có lần anh bị giặc bắt, quân thù tra tấn dã man để hỏi “Cộng sản ở đâu”. Tnú đã quả quyết, ngang nhiên trả lời rằng “Cộng sản ở đây này”. Chẳng hề một chút lung lay, run sợ, anh kiên cường trả lời với tư tưởng tự hào nhất vì được đứng trong hàng ngũ của những người làm cách mạng.

Tnú còn là một người rất ham học, để thể hiện quyết tâm học lấy con chữ, Tnú đã dứt khoát hành động tự đập đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi anh thua Mai trong việc học hành. Thật đáng quý biết bao khi đất nước ta có những người con như Tnú, luôn luôn biết phấn đấu để trau dồi hiểu biết, phục vụ con đường giải phóng đất nước. Những tính cách ấy đã góp phần tạo nên một người anh hùng Tnú. Tnú lớn lên cường tráng như một cây xà nu. Mang trong mình tinh thần cứng rắn, kiên cường như cây xà nu, dù trên thân mình đã phải chịu biết bao đòn roi, dọc ngang vết chém nhưng anh quyết không lùi bước.

Phía sau lưng anh còn có một gia đình ấm êm, khi anh lớn lên và kết hôn cùng Mai - người bạn thời niên thiếu. Nhưng tiếc thương thay, những kẻ thù bạo tàn ấy đã cướp đi hạnh phúc của Tnú khi chúng đã giết hại vợ con anh. Nỗi đau này biết kể sao cho xiết. “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay... bụng anh có lửa đốt”. Nỗi đau của riêng anh nhưng cũng là nỗi đau chung của biết bao nhân dân, khi đất nước loạn lạc, chiến tranh thì nỗi chia ly, tang tóc càng tăng lên. Tnú không cứu được vợ, phải chứng kiến cái chết của vợ con anh ngay trước mắt càng làm khắc sâu nỗi đau ấy. Hình ảnh mười đầu ngón tay bị đốt cháy bởi nhựa rừng xà nu như mười ngọn đuốc sáng, nhưng anh vẫn không lùi bước. Đó là ý chí sức mạnh của một người lính cách mạng đã được tôi luyện, rèn rũa bởi Đảng.

Không đắm chìm trong đau thương mất mát, nỗi đau thương ấy càng trở thành động lực đẩy cao tinh thần căm thù giặc của anh. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú càng trở nên lo lắng khi không có ai tiếp tục lãnh đạo dân làng khi Đảng có lệnh. Anh vùng lên chiến đấu, khi bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn sẵn sàng cầm giáo, cầm súng để chiến đấu. Thà chết chứ không chịu đầu hàng, đôi tay anh vẫn kiên cường chiến đấu, xiết chết cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả cầm thú. Anh đã trở thành điểm tựa cho cả dân làng Xô Man, không hề khuất phục trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Tnú từ khi còn là thiếu niên cho tới lúc trưởng thành, chưa bao giờ ngọn lửa cách mạng vụt tắt trong anh. Đôi tay anh đã chăm sóc, bảo ban biết bao thế hệ nhỏ. Đôi tay ấy đã kiên trì cầm phấn học con chữ, cầm đá ghè vào đầu vì trách bản thân mình kém cỏi, chỉ hiên ngang lên bụng để tuyên bố “Cộng sản ở đây”. Đôi tay ấy dù có mất đi mười ngón tay cũng vẫn không chịu từ bỏ, khi máu ngập tràn, mặn chát ở đầu lưỡi bởi nỗi đau, nhưng tay anh vẫn chiến đấu, vẫn vững vàng trên con đường đánh đuổi quân thù.

Nhật vật Tnú dưới tài năng bút pháp của Nguyễn Trung Thành đã trở thành một tượng đài trong lịch sử văn học và lòng độc giả. Anh là những kết tinh đẹp nhất của vẻ đẹp anh hùng, hào kiệt của người dân Tây Nguyên. Tinh thần “vì nước quên mình, thà chết chứ không chịu khuất phục” luôn sống mãi trong tinh thần của các anh chiến sĩ. Truyền thống tinh thần ấy mãi mãi là nét đẹp đáng quý, đáng phát huy trong muôn đời sau.

Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu bài số 6

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ với mảnh đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên” thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật trong tác phẩm này chính là nhân vật Tnú - là nhân vật trung tâm của tác phẩm mang biểu tượng là một người anh hùng kết tinh của vẻ đẹp dân tộc.

Nguyễn Trung Thành là một trong những cây bút xuất sắc nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sở trường của ông viết về vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, thơ mộng mà anh hùng, bất khuất. Bằng sự trải nghiệm của mình, tác giả hiểu biết về phong tục tập quán và con người Tây Nguyên - nơi ông từng yêu mến và gắn bó trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị và ghi lại những dấu ấn đối với độc giả bởi truyện của Nguyễn Trung Thành có lối viết trong sáng, chặt chẽ, ngôn ngữ đẹp, giàu chất hiện thực nhưng lại có tầm khái quát cao, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, tất cả đều tạo sức hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Một trong những tác phẩm không thể không kể đến đó là truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm được viết năm 1965 và in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” trong không khí khi cả nước ta sục sôi đánh Mỹ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ. Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, ta thấy được Tnú - một chiến sĩ có những phẩm chất tốt đẹp và đầy ý chí, là anh hùng cách mạng của dân tộc.

Tnú sớm mồ côi cha mẹ, anh lớn lên trong tình yêu thương của dân làng Xô man. “Nó là người Strá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Anh lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của người dân thế nên trong con người anh đầy đủ phẩm chất của một người biết suy nghĩ, chín chắn, có niềm tin yêu trong cuộc sống, tin vào chính mình, có tình yêu với quê hương, đất nước, với những gì thân thuộc xung quanh mình như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ… Tất cả những phẩm chất tốt đẹp trong anh đều bắt nguồn từ tình yêu thương và sự tri ân mà anh dành cho cội nguồn của mình.

Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Trong tiếng dân tộc, Tnú có nghĩa là anh hùng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ một con người có thật đó là anh Đề - người dân tộc Xơ-đăng, ở Tây Nguyên để chuyển thành hình tượng Tnú trong tác phẩm của mình. Câu chuyện cuộc đời và những năm tháng gắn bó với mảnh đất này là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết. Tác giả bằng tài năng nghệ thuật của mình kết hợp với âm hưởng sử thi đã chi phối với nhau trong khi xây dựng nhân vật này. Đọc tác phẩm, ta thấy Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lý tưởng của cách mạng, một người hội tụ các phẩm chất cao quý.

Đầu tiên ở nhân vật Tnú hiện lên là một con người gan góc, dũng cảm, mưu trí ngay từ nhỏ. Anh dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy, Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “qua chỗ nước êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Cuộc đời Tnú không có một con đường thẳng băng, êm ả để đi mà anh luôn đối mặt với những con đường đầy nguy hiểm. Nhưng trong anh luôn thể hiện một khí thế dũng cảm, được thể hiện trong cách anh đối diện với kẻ thù. Khi giặc vây ở các ngả đường thì Tnú leo lên một cái cây cao, tìm mọi cách để đấu trả lại với bọn giặc, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây. Không chỉ như vậy, khi bị giặc bắt và hành hạ một cách tàn ác thì Tnú rất gan góc, táo bạo và bằng mọi giá hoàn thành tất cả các nhiệm vụ được giao. Bất chấp những lời đe dọa và sự khủng bố tàn ác của địch, Tnú vẫn hăng hái tham gia vào rừng để bảo vệ cho bộ đội, bảo vệ cho quê hương của mình. Bất chấp với những lần Tnú bị bọn địch bắt lại và tra tấn Tnú, khi anh được hỏi rằng “Cộng sản ở đâu” nhưng ta nhìn thấy rõ thái độ của anh, dù chết cũng không bao giờ khai ra bất cứ cái gì liên quan đến cách mạng và công việc của mình. Anh không ngần ngại mà để tay lên bụng mình và nói “Ở đây này”. Qua đó ta thấy được thái độ cũng như cách hành động của anh mang đầy đủ phẩm chất của một người kiên trung, một người sẵn sàng hy sinh bản thân mình để bảo vệ quê hương, bảo vệ những chiến sĩ, anh hùng cách mạng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Dù biết sau câu trả lời ấy sẽ là đòn roi, là bạo lực nhưng Tnú không hề sợ hãi, không khuất phục.

Chứng kiến cảnh vợ và con oằn mình để chống lại kẻ thù bởi những đòn roi, những lần tra tấn đến chết, Tnú không thể kiềm chế bản thân mà bất chấp những cái bẫy của bọn địch để xông ra cứu vợ con. Nỗi đau mất người thân dường như là một cảm xúc đau tột độ. Đến đây, trong lòng Tnú hiện lên một lòng căm thù, quyết chiến với kẻ thù bằng mọi giá: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Đó là một thái độ quyết tâm sâu sắc đánh trả lại bọn địch, đó cũng là lúc khơi nguồn sức mạnh trong Tnú.

Khi từ nhà ngục Kon Tum trở về, Tnú đã trở thành một chàng trai hiểu biết, có căn cốt khỏe mạnh, cường tráng. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Một con người gợi lên một khí thế dũng mãnh. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này làm lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện trong hành động tự đập hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong những việc nhớ con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Miết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Ta có thể thấy rõ sự quyết tâm và trưởng thành, theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú bây giờ đã thay thế anh làm cán bộ và một lần nữa trong cuộc đời, Tnú đi ba ngày để đến núi Ngọc Linh, không phải lấy đá để làm phấn như ngày còn nhỏ mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Khi bị kẻ thù tra tấn dã man, đau về cả thể xác lẫn tinh thần. Hành động vô nhân đạo của bọn giặc, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu vào mười đầu ngón tay rồi đem đốt nhưng anh vẫn không cảm thấy đau nữa: “Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa… Nhưng trời ơi! Cháy, chết cả ruột gan đây rồi. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.. Tnú không thèm, không thèm kêu van”. Sử dụng câu cảm thán và điệp từ đã cho chúng ta thấy rõ được nỗi đau mà Tnú phải trải qua, chịu đựng. Nhưng tội ác của địch được tô đậm bao nhiêu thì sự kiên trung, gan góc, bất khuất của Tnú càng được thể hiện rõ bấy nhiêu.

Tnú còn là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khỏe mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khỏe chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Dù ở trong một hoàn cảnh tột cùng như thế nào thì trong con người Tnú vẫn hiện lên những phẩm chất đáng quý. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt và anh đã nhanh chóng nuốt luôn cả thư để tránh lộ bí mật của cách mạng, khi bị bắt giam thì cũng bằng sự thông minh, nhanh trí của mình anh đã tìm mọi cách để vượt ngục trở về buôn làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị để chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn đối với một cô gái luôn hiền dịu, là một người nhường nhìn của một gia đình hạnh phúc.

Tnú luôn thể hiện tình yêu thương đối với cách mạng. Anh còn là một người yêu thương vợ con hết lòng tha thiết, anh đã có một tình yêu đẹp và trong sáng, thủy chung với Mai. Từ khi còn nhỏ, hai người đã có những kỉ niệm đẹp bên nhau, thân thiết và gần gũi với nhau, giúp đỡ nhau trong mọi việc. Khi Tnú vượt ngục trở về làng, Mai đã xúc động nắm tay anh. Mối tình thủy chung từ đó nảy nở và sau đó đã xây dựng lên một mái ấm gia đình. Họ đã trở thành vợ chồng và có một đứa con. Tôi vẫn còn nhớ như in hành động của Tnú dành cho vợ con của mình: “Không đi Kom Tum mua vải được, Tnú xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con”. Hành động đó đã thể hiện những tình cảm mà Tnú dành cho mẹ con Mai. Đó là một gia đình nhỏ nhưng hạnh phúc to, dường như lan tỏa ấm áp cả núi rừng Thái Nguyên.

Trong con người Tnú luôn khao khát đấu tranh chống giặc, sử dụng đôi bàn tay tật quyền để chiến đấu với bọn kẻ thù xâm lược. Đối với dân làng, Tnú như một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Khi về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ những người thân, nhớ những người xung quanh mình thế nhưng Tnú vẫn chấp hành mọi nội quy quân đội. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người nên anh lại thôi. Sau ngày tháng phục vụ chiến đấu trong công cuộc bảo vệ quê hương đất nước, dù đi xa sau khoảng thời gian ba năm liền, anh vẫn nhớ như in hình ảnh của từng con đường đi, từng hàng cây, từng dòng suối và cảm giác vẫn thân thuộc, vẫn gần gũi trong những năm tháng mà anh đã gắn bó “khi nghe tiếng chày chuyên cần, vội vã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy rồi”.

Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả tính cách của nhân vật. Một tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác, dùng vũ khí để chống bạo lực cách mạng để hiện một tình yêu chân thành, tha thiết. Khi gặp nhiều những biến cố, những đau khổ cũng là lúc trong con người Tnú hiện lên những nỗi căm thù, tạo động lực để anh chinh chiến với kẻ thù bất cứ lúc nào. Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đoạn đời bi tráng nhất của nhân vật. Khi bị giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú. Đó là dấu tích của tội ác kẻ thù đã mang lại cho anh và chính đôi bàn tay hành động đó để nhắc nhở anh về sự căm thù. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man đã không kiềm chế được, bột phát mạnh mẽ để tiêu diệt lũ giặc, mở ra trang sử đấu tranh mới của dân làng. Tnú là điển hình cho quá trình đấu tranh của người dân Tây Nguyên từ tự phát đến tự giác, từ tình yêu đến hành động. Đó là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần cách mạng kiên trung, tượng trưng cho ý chí sắt đá của những con người ở đất đỏ badan với đất nước, cách mạng.

Bấy nhiêu hy sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là biết bao những kiên trì, quyết tâm cho một ngày mai “rũ bàn đứng dậy sáng lòa”. Những con người của núi rừng Tây Nguyên như Tnú là kết tinh của bao gian lao và tinh thần anh dũng, kiên cường của tình yêu nước nồng nàn. Anh là nhân vật đại diện cho cả cộng đồng, gắn bó mật thiết, chặt chẽ với số phận lịch sử. Tnú xứng đáng là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất trong số những nhân vật thuộc thời kỳ văn học kháng chiến chống Mỹ. Đây được coi là một trong những thành công to lớn trong sự nghiệp cầm bút của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành.

(Nguồn: Học văn chị Hiên)

-/-

Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu, ta thấy ngoài hình tượng nhân vật Tnú truyện còn khắc họa được những nhân vật như cụ Mết, hình tượng cây xà nu, Mai, Dít tới bé Hen. Qua đó giúp người đọc hình dung một thời kì lịch sử rất đau thương mà anh dũng bất khuất của dân tộc.

Tham khảo thêm các bài văn mẫu hay về tác phẩm Rừng xà nu và các tác phẩm khác trong chương trình Ngữ Văn 12 tại mục tài liệu Văn mẫu lớp 12 do Đọc Tài Liệu tuyển chọn.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM