Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Xuất bản: 29/05/2023 - Tác giả:

Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ, hướng dẫn lập dàn ý chi tiết và tham khảo top 3 bài văn phân tích hay nhất

Nhằm mục đích giúp các em có một bài văn phân tích hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ hay và sâu sắc, Đọc Tài Liệu đã tổng hợp gửi tới các em một số bài văn mẫu và kèm theo gợi ý cách triển khai bài văn. Cùng tham khảo ngay nhé!

Dàn ý phân tích hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Kim Lân và Tô Hoài cùng hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ.

- Khái quát chung về hình tượng người phụ nữ xưa và nay thông qua các nhân vật Mị, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

2. Thân bài

a. Số phận của người phụ nữ Việt Nam qua tác phẩm Vợ nhặt (hình ảnh của người vợ nhặt và bà cụ Tứ)

* Nhân vật người vợ nhặt (cô thị)

- Hoàn cảnh, ngoại hình:

+ Một người đàn bà không tên, không tuổi, chỉ có một cái danh xưng "thị" để gọi chung.

+ Không quê quán, gốc gác, không gia đình, họ hàng thân thích gì cả

+ Đói khổ, nhan sắc không xinh đẹp mà có phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy sọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.

+ Việc chị nhận lời làm vợ anh Tràng giống như một trò đùa: trở thành "vợ nhặt" của một anh chàng chỉ mới gặp mặt hai lần với lễ vật là bốn bát bánh đúc. -> Cái giá quá rẻ mạt cho một người phụ nữ.

- Tính cách thị khi mới gặp Tràng:

+ Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.

+ Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.

+ Cúi đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà” -> Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.

-> Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa. Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.

=> Hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người bị coi rẻ thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.

- Tính cách thị sau khi trở thành vợ Tràng:

+ Trên đường trở về nhà với Tràng, Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng.

+ Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.

+ Khi đến nhà Tràng, khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm khiến thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.

+ Thị đã rất phải phép chào bà cụ Tứ với dáng điệu khép nép, ngại ngùng, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.

+ Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát: thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...

+ Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng” -> Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.

+ Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật -> Những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, luôn hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

* Nhân vật bà cụ Tứ

- Bà là người mẹ già, góa bụa, sống với con trai trong căn nhà lụp xụp ở xóm ngụ cư, cuộc sống rất đáng thương.

- Bà là người mẹ vô cùng yêu thương con cái và là người phụ nữ có tấm lòng nhân hậu.

- Luôn lạc quan, hi vọng vào tương lai dù tương lai ấy có mù mịt: "Rồi may ra ...cho khá" và món "chè khoán" bằng cám đãi con dâu mới.

=> Hình ảnh của bà cụ Tứ đại diện cho lớp người phụ nữ đi trước, bổ sung hoàn chỉnh cho hình ảnh của thị, hoàn chỉnh bức tranh về người phụ nữ trong những năm tháng của nạn đói với số phận vô cùng khốn khổ, đau thương, đáng thương nhưng cũng đáng quý vô cùng.

b. Số phận của Mị trong Vợ chồng A Phủ

- Bối cảnh: Trên một bản vùng cao ở Tây Bắc, nơi bị thống trị bởi bọn chúa đất và thực dân Pháp. Cuộc sống của con người nơi đây xoay quanh cuộc sống nô lệ cho nhà thống lý và Mị - người phụ nữ của tác phẩm của những biến cố đầy sóng gió.

- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra

+ Là một cô gái xinh đẹp và tài hoa: có tài thổi sáo làm biết bao chàng trai phải si mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị.

+ Có một tình yêu trong sáng.

+ Là cô gái chăm chỉ, cần cù, hiếu hạnh, khát khao được sống tự do, không tham cuộc sống sang giàu, rất ý thức về nhân cách của mình.

- Mị khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí

+ Phải chịu hành hạ về thể xác: làm quần quật quanh năm, bị đối xử như con trâu, con ngựa.

+ Bị áp bức về tinh thần: Không năm nào được đi chơi tết; khi muốn đi chơi thì bị A Sử trói vào cột cả đêm, bị bỏ mặc trong những đau đớn về thể xác lẫn tinh thần.

+ Mị đã cứu sống A Phủ và cùng A Phủ trốn tới Phiềng Sa, bắt đầu một cuộc sống mới.

-> Cuộc sống của nàng dâu "gạt nợ" đã cướp đi của Mị tất cả tự do, hạnh phúc, cướp đi tương lai và linh hồn của cô. Mị thờ ơ với cuộc sống, cảm tưởng rằng mình sẽ vĩnh viễn đau khổ tủi nhục như thế cho đến khi chết đi.

c) Đánh giá chung về hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

- Số phận người phụ nữ xưa trong hai tác phẩm trên đều bị coi thường, bị rẻ rúng, làm vợ làm dâu mà giống như kẻ ở, nô lệ, không được hưởng những quyền lợi cơ bản của con người như quyền tự do, quyền hạnh phúc.

- Liên hệ với người phụ nữ ngày nay:

+ Ngày nay phụ nữ được hưởng nhiều quyền lợi hơn, được bình đẳng hơn với đàn ông.

+ Tuy rằng vẫn còn một số người có tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhưng đa số người phụ nữ đã có quyền chứng minh tài năng của mình với các chức vị quan trọng trong chính trị, kinh tế, ngoại giao.

+ Người phụ nữ đã có thể làm chủ cuộc đời mình, phấn đấu vì sự phát triển của bản thân.

+ Những người phụ nữ tài bà đã được thế giới công nhận như nữ thủ tướng Đức Angela Merkel, các nhà ngoại giao xuất sắc như bà Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Hồi,...

3. Kết bài

- Đánh giá lại vấn đề.

Top 3 bài văn hay phân tích hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ

Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ mẫu số 1:

Có thể nói "Vợ nhặt" của Kim Lân và "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài là những bức tranh thu nhỏ phản ánh chân thực về xã hội Việt Nam trong giai đoạn chế độ thực dân và phong kiến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng như trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bức tranh này mang đến những hình ảnh nhỏ bé về cuộc sống đầy khó khăn và đau khổ của tầng lớp người nghèo ở cả miền Nam và miền Bắc. Kim Lân và Tô Hoài tập trung tạo dựng số phận bi thảm của đa số phụ nữ - những nạn nhân đáng thương - thông qua hình ảnh của bà cụ Tứ, người "nhặt vợ", và Mị - cô "con dâu trả nợ" trong gia đình thống lí Pá Tra. Cả hai tác giả đều đã sử dụng gam màu xám lạnh để bao phủ lên những bức tranh này, tạo ra một cảm giác buồn bã, tuyệt vọng từ cuộc sống khốn khổ của người dân nghèo ở cả miền xuôi và miền ngược.

Tác phẩm "Vợ nhặt" mang nội dung kể về cuộc sống khốn khổ, áp bức của nhân dân Việt Nam vào năm 1945, khi nạn đói kinh hoàng đã cướp đi hơn hai triệu mạng người. Điều đó là hậu quả của chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật tại Việt Nam. Tương tự như nhiều tác phẩm khác viết về đề tài nạn đói, Kim Lân truyền đạt sự đau đớn, cảm thông trước số phận bất hạnh của những người nghèo khổ trong xã hội đương thời, đặc biệt là đối với người phụ nữ. Chính sự thương cảm chân thành ấy đã giúp tác giả miêu tả các nhân vật bà cụ Tứ và chị "vợ nhặt" tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong lòng của người đọc.

Thật đáng thương thay cho người con gái mà anh Tràng "nhặt" về làm "vợ". Mỗi người sinh ra đều có một cái tên, dẫu là đẹp hay xấu, nhưng chị ta thì không có lấy một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, không cha mẹ, không anh em họ hàng thân thích. Nguồn gốc quê hương và nơi chị ta trú ngụ cũng không một ai biết cả. Bề ngoài, chị ta giống như những kẻ bần cùng khác: ...áo quần rách nát như tổ ong... trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt... Chị ta là hiện thân của hàng triệu nông dân nghèo khổ, xa xứ tìm kiếm miếng cơm sống qua ngày, rồi cuối cùng gục ngã bất kể lúc nào nơi đầu đường xó chợ.

Việc chị đồng ý trở thành vợ của anh Tràng giống như một trò đùa, hoặc như tác giả nói như một chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận giữa chị và anh Tràng, người đàn ông nghèo kéo xe thuê. Khi gặp lại Tràng, chị đang đói khát, nên rất sỗ sàng vòi anh đãi ăn bánh đúc. Chị ăn nhanh hết một tô bánh đúc đến nỗi không kịp thở, ăn mà không dừng, không nói một câu. Điều này chứng tỏ chị đã đói lâu rồi nên quên cả lịch sự, ngại ngùng. Chứng kiến cảnh ấy, Tràng cảm thấy thương xót và nói: "Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về". Anh đơn giản nghĩ đó chỉ là một lời nói đùa nhưng ai ngờ chị đi theo anh về thật làm anh kinh ngạc rồi nghĩ: "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng".

Đó chỉ là một người đàn ông mới quen biết một chút, gặp nhau vài lần, nay anh đãi một bữa ăn no, còn lại thì chị không biết gì về anh ta nữa, chỉ biết rằng anh ta chưa có vợ, chẳng biết sự thật là thế nào, nhưng chị dám theo anh mà không có sự do dự hay sợ hãi. Có chăng đó là một sự liều lĩnh, nhẹ dạ quá không? Chị không quan tâm, trước mắt, chỉ cần đi theo anh để được no một bữa, mọi chuyện tính sau. Hôn nhân là chuyện lâu dài, trong tình thế sống nay chết mai, không thể nói trước được điều gì. Chị có lẽ chỉ nghĩ đơn giản như vậy. Vậy là Tràng đã "nhặt" được "vợ", giống như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường. Đáng thương cho người "vợ nhặt" ấy vì xã hội phong kiến khinh thường và không chấp nhận một loại "vợ" theo không như vậy.

Chị ta thực sự đi theo Tràng về nhà, về cái xóm ngụ cư nơi ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Những cơn gió từ cánh đồng thổi vào, làm rối tung cả hai bên phố, âm u, tối tăm, không một ngôi nhà nào có ánh đèn hay ngọn lửa. Dưới bóng của các cây đa, cây gạo tàn tạ, những hình hài của những người đói khát đi qua im lìm như những hồn ma. Tiếng quạ kêu từ những cây gạo ở ngoại ô chợ vang lên một cách thê thiết. Thật là một cảnh tượng tràn đầy bầu không khí chết chóc! Con người đang mấp mé bên bờ vực của cái chết.

Khi chị "vợ nhặt" về đến nhà Tràng, chị ngồi mớm bên mép giường, hai tay ôm chặt cái thúng, khuôn mặt bần thần. Tràng mời chị ngồi nhưng không hiểu sao chị lại không dám ngồi thẳng, ngay ngắn? Thì ra cái thế ngồi rụt rè, chông chênh ấy là cái thế của lòng chị, đời chị. Chị đang băn khoăn không biết đây có phải nơi của chị không, mái nhà xa lạ này có phải là nơi mà chị sẽ dung thân? Căn nhà xơ xác, dúm dó của mẹ con Tràng chắc cũng không khỏi làm cho chị thất vọng. Thật là tình cảnh "đồ nát đụng nhau", không biết được bao lâu? Khuôn mặt chị bần thần vì mải nghĩ đến chuyện thành vợ bỗng dưng của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực. Làm vợ, làm dâu mà thảm hại đến thế này ư?! Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái, chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Nỗi buồn tủi không thể nói thành lời. Trăm mối ngổn ngang trong lòng. Nỗi đau không trào ra theo nước mắt mà chảy ngược vào tim nên càng đau, càng tủi. Nhà văn Kim Lân viết về người "vợ nhặt" với ngòi bút chan chứa xót thương. Trong chế độ phong kiến thực dân thời ấy, có bao nhiêu người phụ nữ phải chịu thân phận bất hạnh như thế ? Ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội, ý nghĩa nhân đạo sâu xa của tác phẩm ẩn chửa trong sổ phận của nhân vật đáng thường này.

Hình ảnh bà cụ Tứ bổ sung cho hình ảnh chị "vợ nhặt" để hoàn chỉnh số phận tăm tối của phụ nữ nói chung trong xã hội đương thời. Nhân vật này dù chỉ là nhân vật phụ nhưng lại thu hút cảm tình của độc giả bởi sự chân thành, chân phương của một bà mẹ nghèo đầy lòng thương yêu con cái và lòng nhân hậu đáng trân trọng. Khi bà cụ Tứ nhìn thấy một người phụ nữ lạ ngồi trên giường con trai, bà ngạc nhiên lắm, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nhưng khi nghe Tràng nói "Kìa nhà tôi nó chào u..." thì bà hiểu ngay, bà lão cúi đầu im lặng. Bà lão đã hiểu rồi, trái tim của người mẹ nghèo khó ấy đã hiểu được bao nhiêu điều đắng cay, vừa ai đoán vừa thương xót cho số phận của đứa con của mình... Hóa ra, đứa con trai của bà cũng đã tìm được một người vợ, dù có vẻ ngoại hình không được tốt đẹp. Bà cảm thấy buồn tủi làm sao khi không thể tìm được một người vợ cho con. Mọi chuyện đều bắt nguồn từ sự nghèo khó này: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cải mở mặt sau này. Còn mình thì...". Trong những giọt nước mắt chảy từ kẽ mắt bà, bà cùng lúc vui mừng và lo lắng: không biết rằng liệu chúng có thể cùng nhau vượt qua cơn đói khát này không? Nhưng khi suy nghĩ về tình cảnh nghèo khó của mình, bà tự an ủi: Người ta chỉ đến với con khi gặp khó khăn và nghèo khó. Và con mình mới có thể có được người vợ...

Nghĩ thế nên bà vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới. Bà cư xử với chị dịu dàng, gọi chị là con, xưng là u và nhìn cô con dâu mới bằng ánh mắt xót thương, thông cảm.

Bữa ăn đầu tiên mẹ chồng đãi nàng dâu chỉ có món cháo loãng với muối hột và chè cám, dù vậy bà cụ Tứ vẫn cố gắng tỏ ra hân hoan, tươi cười và chỉ nói về những chuyện vui vẻ. Bà khen ngợi cháo cám ngon đáo để, nhà khác không có mà ăn. Ôi chao! Đói đến mức nào mới có thể thấy chè cám ngon? Bà nhẫn nại nói với con trai và con dâu: "Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mậy liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khả... Biết thể nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau...". Bà xúc động bày tỏ ý muốn và nỗi khổ tâm của mình "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đẩy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...". Hình ảnh bà mẹ già yếu đuối, cố bấu víu, hi vọng vào tương lai thật đáng thương và đáng quý không thể diễn tả bằng lời.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với nội dung mô tả cuộc đời đầy biến cố của cặp vợ chồng trẻ người Mông sinh sống tại vùng cao Tây Bắc dưới ách thống trị tàn bạo của bọn lang đạo chúa đất và thực dân Pháp. Mị là nhân vật chính trong truyện. Vì hoàn cảnh nghèo khó, bố mẹ Mị đã phải vay tiền từ thống lí Pá Tra để tổ chức đám cưới. Tuy nhiên, sau khi mẹ Mị qua đời vì bệnh tật và Mị trưởng thành, bố Mị vẫn không thể trả nợ. Mị là một cô gái xinh đẹp và tốt bụng, được nhiều chàng trai trong vùng yêu mến. Mị đáng ra phải có cuộc sống đầy tình yêu và hạnh phúc, nhưng do nợ nần gia đình không thể trả, Mị bị bố con tên thống lí Pá Tra, những kẻ tham lam và tàn bạo, ép buộc trở thành "con dâu trừ nợ". Qua cuộc sống đau thương này của người con gái xinh đẹp, tác giả Tô Hoài đã tái hiện một cách trung thực và sống động những khổ đau, sự tủi nhục của phụ nữ vùng cao trong quá khứ.

Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, sống trong nhà thống lí Pá Tra, Mị đã rơi vào cảnh đoạ đày của địa ngục trần gian. Cô đau đớn đến tuyệt vọng: Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, đoán biết lòng con gái: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!".

Mọi ước muốn chính đáng, cho dù nhỏ nhặt của Mị đều bị người chồng tàn bạo ngăn cản và đàn áp một cách thô bạo. Vào một đêm xuân, Mị uống rượu, trong lòng tràn đầy nhớ về những đêm xuân thời còn con gái. Mị tha hồ hồi tưởng về những âm vang của tiếng sáo mời gọi người yêu bay lượn đầy lơ đãng trên con đường, khiến Mị thèm muốn đi chơi. Mị quyết định thay váy áo đẹp để ra ngoài. Tuy nhiên, khi A Sử quay trở lại và nhìn thấy điều đó, hắn tiến lại gần, nắm lấy Mị và dùng dây thắt lưng buộc hai tay Mị. Hắn mang cả một thúng sợi đay ra và trói Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc Mị vào cột khiến Mị không thể cúi đầu hay gật đầu được nữa. Sau khi trói vợ, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, tắt đèn và đóng cửa phòng. Hắn để mặc Mị đau đớn, cô đơn giữa bóng đêm tối tăm.

Tất cả những cảm xúc và ý chí chống cự của Mị dường như đã bị tê liệt sau ngần ấy năm bị giam cầm trong nhà thống lí. Cuộc sống của Mị đã không còn ý nghĩa bởi Mị cảm thấy như đang sống trong cái chết. Tội ác của bọn lang đạo và chế độ phong kiến thực dân nằm ở việc tàn ác cướp đi cuộc sống chính đáng của con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Cuộc đời Mị lẽ ra đã trôi vào tuyệt vọng nếu không có một sự việc bất ngờ xảy ra: cô đã cắt dây trói và cứu A Phủ, sau đó cùng anh chạy trốn khỏi nhà thống lí, đến vùng đất Phiềng Sa. Cuối cùng, nhờ gặp được một cán bộ cách mạng và nhận được sự giúp đỡ, Mị và A Phủ trở thành những người mang tính chất tích cực tại khu du kích Phiềng Sa. Cô thật sự được sống, được trở thành một con người thực thụ.

Trên thực tế, trong xã hội phong kiến thực dân xưa, vai trò của phụ nữ bị coi thường, rẻ rúng và họ bị tước đoạt quyền sống, quyền tự do. Những ràng buộc bất công và phi lý đã hạn chế kìm hãm phụ nữ ở mọi mặt, họ gần như hoàn toàn bị lệ thuộc vào đàn ông. Phạm vi hoạt động của phụ nữ ngày xưa chỉ giới hạn trong gia đình, chịu trách nhiệm với công việc nội trợ và chăm sóc chồng con. Do đó, họ không thể phát huy tiềm năng của mình để góp phần đóng góp cho xã hội...

Hiện nay, mặc dù quan niệm phân biệt đối xử trọng nam khinh nữ vẫn chưa hoàn toàn thay đổi, nhưng phụ nữ đã được công nhận, tôn trọng cùng với quyền lợi tương đương với nam giới. Phụ nữ được cơ hội học tập, làm việc và đóng góp trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả lĩnh vực chính trị và nghiên cứu khoa học, mà trước đây thường được xem là thuộc về nam giới. Trên khắp thế giới, phụ nữ đã đạt được các vị trí cao như Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng,... và ở nước ta cũng đã có Phó Chủ tịch nước và nhiều phụ nữ xuất sắc là giáo sư, bác sĩ, doanh nhân,... góp phần vào sự phát triển của đất nước và mang lại niềm tự hào cho cả quốc gia.

Được coi trọng và có quyền bình đẳng với nam giới không có nghĩa là phụ nữ coi thường thiên chức làm vợ và làm mẹ. Khi ở bên ngoài xã hội, phụ nữ là những người tài giỏi, nhưng trong gia đình, họ vẫn là những người vợ hiền, mẹ chu đáo, dành tình yêu thương cho con cái.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng cho phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Trong thời đại mới hiện nay, những người phụ nữ xứng đáng nhận được lời khen: Giỏi việc nước, đảm việc nhà. Nhờ vào cuộc cách mạng giải phóng, dân tộc đã đoạt lại chủ quyền độc lập và tự do, số phận của phụ nữ đã có sự thay đổi đáng kể. Điều quan trọng đặc biệt là nhận thức về vai trò của phụ nữ ngày càng chính xác và tiến bộ. Do đó, đóng góp của phụ nữ cho xã hội ngày càng trở nên quan trọng hơn và to lớn hơn.

Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ mẫu số 2:

Trước Cách mạng tháng Tám, đã có nhiều tác phẩm xuất sắc về đề tài con người, ghi lại cuộc sống và số phận của những người dân. Trong số đó, tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân và "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài đã đạt được thành công vượt trội. Cả hai tác phẩm này đều đã tái hiện hình ảnh con người trong thời kỳ thực dân Pháp áp bức trước sự chuyển biến mạnh mẽ của Cách mạng. Dù viết về những người dân ở miền xuôi và người dân trên vùng cao Tây Bắc, cả hai tác giả đều khắc họa số phận bi thương của những người phụ nữ trong xã hội đó. Mị - cô dâu gạt nợ và thị - cô vợ nhặt, cùng với bà cụ Tứ, trở thành những hình ảnh sắc nét, gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ về những người phụ nữ dễ bị tổn thương nhất trong xã hội đó. So sánh số phận của họ với phụ nữ ngày nay, chúng ta thấy sự thay đổi đáng kể.

Trong xã hội từ xưa đến nay, phụ nữ vẫn là người gánh chịu nhiều bất công và thiệt thòi nhất, vì vậy nhiều nhà văn và nhà thơ đã đưa hình ảnh của phụ nữ vào tác phẩm của họ để bày tỏ lòng cảm thương cho số phận của những người phụ nữ. Hai tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" càng làm nổi bật hình ảnh của phụ nữ thông qua tài năng và sự yêu mến mà các tác giả dành cho họ. Trên tác phẩm "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân đặt cảnh trong một vùng quê đang trải qua nạn đói năm 1945. Nạn đói khủng khiếp đã cướp đi hàng triệu người dân, để lại quá khứ đau đớn và kinh hoàng khi mỗi ngày người ta thấy "người chết như ngả rạ" trên đường phố. Đây là hậu quả của sự cai trị bạo lực từ bọn phát xít Nhật.

Chính vào thời điểm đó, tình cảnh của phụ nữ trở nên cực kỳ đáng thương và một ví dụ điển hình đó là thị. Thị - cái tên này không phải là tên riêng của thị mà chỉ là một danh xưng, vì thực ra không ai biết tên tuổi hay người thân của thị. Trong tác phẩm, thị hiện lên như một con người vô danh của xã hội, giữa thời kỳ nạn đói khốn khổ. Nếu không có nạn đói kia, có lẽ chẳng ai quan tâm đến người như thị trong cuộc đời. Đáng tiếc, thị không được cuộc đời ưu ái về nhan sắc và phải sống trong cảnh đói khát, biến thị thành một kẻ thảm thương mặc cho số phận định đoạt: "Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ còn thấy hai con mắt". Nếu không có nạn đói, thị chẳng bao giờ phải chịu đựng sự cùng cực như vậy! Thị là biểu tượng của những người nông dân, những con người đang gặp khó khăn, đấu tranh để kiếm sống và đứng trước ranh giới của cái chết.

Nếu không có nạn đói đó, có lẽ thị vẫn có thể tự lập, như lúc thị ngồi nhặt nhạnh những hạt thóc rơi vãi mà nuôi sống bản thân. Nhưng khi nạn đói khủng khiếp đến, nó đã biến thị trở thành một người rẻ rúng, trở thành một người phụ nữ khốn khổ. Thị đã đồng ý trở thành vợ của một người đàn ông xa lạ mới chỉ gặp mặt hai lần và lần thứ hai ấy cũng là lúc thị tuyệt vọng sỗ sàng đòi hỏi người ta đãi mình bánh đúc - một món ăn xa xỉ với thị lúc đó. "Bốn bát bánh đúc" là cái giá mà thị dùng để đánh đổi bản thân lấy một người đàn ông xấu xí, thô kệch và nghèo khó, sống ở xóm ngụ cư. Cái giá đó có thể nói là quá rẻ rúng đối với thân phận của một người phụ nữ!

Khi trở về nhà, thị nhìn căn nhà bé tẹo, vắng teo, rúm ró rồi "nén một tiếng thở dài". Trong cuộc đời, người phụ nữ luôn mong ước có một người chồng để hạnh phúc và yên bình suốt đời, nhưng với ngôi nhà này và người đàn ông này, liệu thị có thể tìm thấy hạnh phúc không? Có lẽ thị đã tự đặt câu hỏi đó trong lòng khi bước vào ngôi nhà và ngồi trên chiếc ghế tre ọp ẹp. Thị đi làm dâu, làm vợ mà sao chỉ thấy lo lắng, chỉ thấy những nỗi buồn thảm hại thế này? Lấy chồng là chuyện hạnh phúc, ấy vậy mà thị có thể được hạnh phúc hay không khi mà đến cả lễ vật để thị theo chồng cũng không có. Chắc hẳn thị tủi buồn lắm nhưng ngày vui của mình có ai lại khóc cơ chứ? Và tiếng khóc ấy đã được nén lại trong cái thở dài não nề của thị!

Số phận của phụ nữ trong tình huống này thực sự quá rẻ rúng, quá đỗi tầm thường và hạnh phúc của họ dường như chỉ là một điều xa xôi, không thể đạt được! Nếu trước kia, lễ vật cho việc cưới vợ của đàn ông là ba bò và chín trâu thì ngày nay chỉ còn lại một bữa ăn no cho người phụ nữ. Số phận đó thật đau đớn biết bao nhiêu, người phụ nữ thậm chí không có quyền lựa chọn, vì ranh giới giữa cái chết và sự sống chỉ mong manh như sợi chỉ. Kim Lân đã viết về số phận phụ nữ với tình cảm xót xa vô cùng. Và ở đây, Kim Lân không đặt cho thị một cái tên, liệu ông có ý muốn thị đại diện cho hàng trăm, hàng nghìn phụ nữ Việt Nam trong hoàn cảnh tối tăm ấy khi họ phải đau lòng biến mình thành một thứ đồ rẻ rúng để có thể tồn tại?

Hình ảnh người phụ nữ thứ hai trong tác phẩm Vợ nhặt, đó là hình ảnh của bà cụ Tứ. Bà là mảnh ghép bổ sung hoàn chỉnh cho bức tranh về số phận người phụ nữ trước Cách mạng. Bà là người phụ nữ nông dân điển hình của nông thôn Việt Nam thời Pháp thuộc, hiền lành, chất phác và rất thương người.

Bà cụ Tứ hiện lên là hình ảnh của người mẹ già, góa bụa, sống với đứa con trai trong căn nhà rách nát. Có thể với nhiều người ngày nay, ở cái tuổi ấy, bà nên được sống vui vầy cùng cháu con, an hưởng tuổi già, nhưng với hoàn cảnh khi ấy, bà chẳng thể có lựa chọn nào khi phải đối mặt với cái đói, cái chết bủa vây từng giờ. Cái số phận của bà có lẽ nghiệt ngã từ khi bà mất đi người chồng, chịu cảnh góa bụa mà nuôi đứa con trai trưởng thành. Số phận ấy thật vất vả, khó nhọc, như thân cò lặn lội bờ sông:

"Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"

Thế nhưng, số phận có cay đắng là thế, bà vẫn là một người mẹ yêu thương con vô cùng, là một người phụ nữ hồn hậu và chất phác. Khi bắt gặp thị ở nhà mình và được con trai giới thiệu "nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!", bà đã chợt "nín lặng". Bà buồn bởi không thể lo nổi cho con trai một đám cưới, lo cho con dâu được một lễ cưới đàng hoàng. Thế nên, khi đối xử với thị, bà đối xử bằng sự chân tình, thân thiết, bằng sự yêu thương và cảm thông. Trong cái nạn đói ấy, tất cả mọi số phận đều như nhau, thế nhưng, bà cụ Tứ lại cho rằng, con trai bà không hề xứng với thị chứ không phải điều ngược lại, bà nghĩ rằng: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Mấy ai trong hoàn cảnh cái chết cận kề lại có thể nhân hậu, giàu yêu thương được nhường ấy?

Đó là số phận những người phụ nữ trong tác phẩm Vợ nhặt, họ là nạn nhân của cái đói, cái nghèo, đôi khi còn là sự rẻ rúng, tầm thường của một số phận khi cái chết cứ rình rập, bủa vây lấy họ. Còn ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với Mị, số phận của cô lại ở một khía cạnh khác.

Lấy bối cảnh là ở một vùng cao của Tây Bắc, nơi có bản làng của người Mông, Tô Hoài dựng lên bức tranh về cuộc sống của những con người nơi đây dưới ách thống trị của bọn chúa đất, của bè lũ thực dân. Đặc biệt, nó khắc họa cuộc sống của Mị, một cuộc sống đầy những biến cố thăng trầm.

Mị là người con gái xinh đẹp nhất bản làng người Mông. Cô sống với cha mẹ và có một tình yêu đẹp với một thanh niên trong bản. Thế nhưng, đuổi theo cuộc sống của cô là cái khổ, cái nghèo. Bố mẹ cô lấy nhau không có tiền phải đi vay thống lý Pá Tra, rồi đến khi mẹ cô mất, cô thay mẹ cùng cha làm rẫy, làm nương, chăm chỉ cũng không trả nổi món nợ ấy. Thế rồi, biến cố ập đến, biến đổi hoàn toàn cuộc đời của Mị, mà tất cả đều do cái hủ tục bắt vợ của người Mông.

Cuộc sống của những người phụ nữ vùng cao còn khó khăn, còn gian nan hơn nhiều những người phụ nữ dưới xuôi. Ở đây, người phụ nữ phải tuân theo những luật lệ của bản làng, những hủ tục lạc hậu, đôi khi cướp đi của họ cả một tương lai, cả một cuộc đời. Và Mị chính là nạn nhân của hủ tục ấy, bởi vào đêm chơi tết năm ấy, trong tiếng sáo vi vu, Mị bị bắt về nhà thống lý Pá Tra, trở thành vợ của A Sử, trở thành một "cô dâu trừ nợ", và cũng từ đó, trở thành một con người vô hồn. Cuộc hôn nhân với con trai kẻ giàu nhất bản, nhưng lại chẳng hề có tình yêu, Mị vật vờ sống qua ngày, không tương lai, không hạnh phúc "đêm nào Mị cũng khóc".

Ở trong cái cuộc sống ấy, Mị muốn chết đi, để được giải thoát, để được làm lại cuộc đời ở bên kia thế giới, ở một cuộc đời khác. Thế nhưng, với Mị, cái chết cũng nào đâu dễ dàng khi cha Mị còn đó, món nợ còn đó "mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt trả nợ. mày chết rồi, không có ai làm nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu quá rồi". Lời nói động đến tâm can của Mị, không đành lòng, Mị lại lần lần trở về nhà thống lý sống cuộc sống của một bóng ma vật vờ.

Về ở nhà thống lý, danh là con dâu, nhưng thực chất Mị chỉ là kiếp nô lệ, là kẻ đầy tớ hết đời cho cái nhà đó. Suốt năm suốt tháng, Mị quần quật làm lụng, "Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế". Tô Hoài đã làm nổi bật nên cái nỗi cực nhọc của Mị chỉ với một câu so sánh "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Rõ ràng ở đây, người ta nhận thấy số phận của Mị hay của những cô gái ở gia đình thống lý đều bị khinh thường, đều trở thành những kẻ mạt hạng, không bằng những con vật nuôi trong nhà. Đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ, cái tư tưởng đã ăn sâu, làm khổ bao nhiêu người phụ nữ từ xưa đến nay.

Không chỉ bị đày đọa về thể xác, tinh thần Mị cũng chịu những khổ ải vô cùng. Đáng ra một người con gái xinh đẹp, nết na, hiền dịu như cô phải nên có một cuộc sống hạnh phúc với người mình thương yêu, thế nhưng không, cuộc đời của cô là chuỗi những ngày tháng "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị không hề còn biết đến tình yêu, không hề được nếm mùi hạnh phúc. Ai đọc tác phẩm mà không ấn tượng với hình ảnh "ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra, thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Cái hình ảnh ấy khắc vào tâm can người đọc, khiến người ta cũng phải đau đáu cái nỗi buồn sâu kín trong tâm hồn Mị.

Ở nhà giàu mà Mị tưởng mình là con trâu, cái ngựa, làm suốt năm suốt tháng, cái buồng nằm thì "kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Bao giờ chết thì thôi". Cô muốn chết nhưng lại chẳng thể chết, Mị bị tước đoạt tự do bằng hủ tục, cái sự mê tín rằng "ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi". Chính Mị còn cảm thấy thân đàn bà của mình chẳng có ý nghĩa nữa, thì liệu còn ai trong cái nhà ấy coi trọng Mị?

Không chỉ thế, đến ngày Tết, khi mà mọi người trong bản làng ùa nhau ra ngoài, cùng nhau thổi sáo, chơi quay, thì Mị lại phải ở nhà bởi "chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết". Mị cũng muốn được tham gia vào cuộc vui ấy, nhưng A Sử không cho Mị đi bằng cách "lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa". Một người phụ nữ bị đày ải bởi cả chồng, cả gia đình nhà chồng, tước đoạt hết mọi quyền tự do, quyền được hạnh phúc của cô. A Sử bước đi trong quần áo là lượt, đi bắt thêm vợ về, còn bỏ mặc Mị trong tủi hờn, đau đớn khôn xiết!

Có lẽ khi sống quá lâu trong bóng tối, con người ta thường không nhận ra ánh sáng. Mị cũng vậy, sống trong xiềng xích, trong tù đày quá lâu, mọi phản kháng trong Mị dường như đã lu mờ. Mị chỉ nghĩ cứ thế cho đến khi chết đi, bởi cuộc sống của cô quá rẻ rúng, quá bị khinh thường, cuộc sống không có chút ý nghĩa nào. Cô sống chỉ như một bóng ma tồn tại nơi mặt đất, cho đến cái đêm trong ngọn lửa, cô nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ và nghĩ lại số phận của mình. "Người kia việc gì mà phải chết", Mị đã nghĩ như vậy rồi cắt dây cho A Phủ, cùng anh trốn sang tận Phiềng Sa - nơi có ánh sáng Cách mạng và ở nơi đây, cùng A Phủ, cô đã thực sự được trở thành một con người, một người vợ đúng nghĩa.

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chưa bao giờ được hưởng một chút công bằng, bởi tư tưởng "trọng nam khinh nữ". Họ luôn phải sống dưới cái bóng của đàn ông, bị rẻ rúng, khinh thường, bị tước đoạt quyền được tự do, được hạnh phúc. Không gian của họ chỉ là gian bếp, là cái nhà nơi mà họ dành trọn cuộc đời cho chồng, cho con. Số phận ấy thật quá ư đau khổ, quá ư mệt mỏi và tủi cùng như Mị, như thị, như nhiều người phụ nữ khác. Nhiều người phụ nữ có tài, muốn đem điều đó cống hiến cho xã hội, nhưng lại bị những tục lệ lạc hậu xua đuổi một cách tàn nhẫn.

Ngày nay, người phụ nữ đã được hưởng quyền bình đẳng so với nam giới, mặc dù vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Thế nhưng, một phần nào đó, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã và đang dần biến mất, và người phụ nữ được quyền khẳng định tài năng và giá trị của mình như Đào, như Duệ, ... trong tác phẩm Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải. Trong chính trị, những người phụ nữ tài ba như thủ tướng Đức Angela Merkel, nữ ngoại giao Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Hồi, ... đều được cả thế giới công nhận về những đóng góp của họ cho thế giới, cho đất nước Việt Nam. Các nhà kinh doanh cũng thêm nhiều người phụ nữ, những giáo sư, tiến sĩ cũng được gọi tên bởi những người phụ nữ xinh đẹp, tài năng. Không còn ai dám rẻ rúng, khinh thường họ nữa, và những số phận như Mị, như thị, ở cuộc sống này hẳn sẽ khác, sẽ tốt đẹp hơn. Có được điều này, tất cả đều nhờ có sự chỉ đường của Bác, của Đảng, những cuộc giải phóng như Cách mạng tháng tám giành lại độc lập chủ quyền cho dân tộc.

Số phận của những người phụ nữ đang dần biến chuyển từng ngày, khác biệt rõ ràng với những người phụ nữ ở thời kì trước. Họ đang dần khẳng định vị thế của mình trên mọi khía cạnh của cuộc sống. Với Mị, với thị hay bà cụ Tứ, tất cả những nỗi đau, những rẻ rúng mà họ đã từng gánh chịu giờ đây đã và đang biến mất trong xã hội. Đất nước ta ngày càng tươi đẹp hơn bởi sự đóng góp của những người phụ nữ tài ba.

Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ mẫu số 3:

Chủ đề về người phụ nữ luôn thu hút sự quan tâm và chú ý của nhiều nhà văn và nhà thơ, không chỉ trong quá khứ mà ngay cả trong thời hiện đại. Người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng những đau khổ, bất công và những quan niệm lỗi thời mà xã hội phong kiến cổ xưa mang lại. Đồng cảm với số phận và cuộc sống khó khăn của người phụ nữ, các nhà văn và nhà thơ đã đi sâu khai thác không chỉ cuộc sống và số phận mà còn cả nội tâm vô cùng phức tạp của họ trong hoàn cảnh khó khăn. Trong các tác phẩm của mình viết về những người phụ nữ, cả Kim Lân và Tô Hoài đều thể hiện sự tôn trọng đối với họ.

Số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa vô cùng đau khổ và bất hạnh, sinh ra là phụ nữ đã thiệt thòi, sống trong xã hội phong kiến đầy bất công càng làm cho số phận của những người phụ nữ trở nên nhỏ bé, bọt bèo hơn. Những người phụ nữ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình, tất cả cuộc đời và số phận đều phụ thuộc vào người khác. Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã cất lên những tiếng nói đấu tranh, nỗi lòng đồng cảm với thân phận của những người phụ nữ. Ta có thể thấy rõ điều này thông qua bài thơ Bánh trôi nước:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại cũng có hai tác phẩm tiêu biểu viết về số phận của người phụ nữ trong xã hội, đó chính là tác phẩm truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Hai truyện ngắn khai thác những khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của những người phụ nữ. Nếu như Vợ nhặt nói về sự rẻ rúng của giá trị con người trong nạn đói cũng như hạnh phúc bình dị, ấm áp mà nhân vật vợ nhặt có được trong phần cuối của tác phẩm thì “Vợ chồng A Phủ” lại nói về sức sống tinh thần tiềm tàng của nhân vật Mị, sức sống ấy giúp cho Mị giải phóng mình khỏi những đau khổ nhà thống lí Pá Tra.

Trước hết, ta nói về truyện ngắn Vợ nhặt, truyện ngắn này nói về người vợ nhặt, người đàn bà này không có tên, không có quê quán cụ thể để làm nổi bật lên thân phận nhạt nhòa, rẻ rúng của con người trong nạn đói. Người vợ nhặt trong một lần đẩy xe thóc giúp anh Tràng đã tạo thành một mối nhân duyên vô cùng bất ngờ, tình cờ. Người đàn bà trở thành người vợ của anh Tràng, một người vợ nhặt được trong nạn đói. Ta cảm thấy xót xa vì người vợ là người gây dựng lên mái ấm gia đình mà trong nạn đói lại rẻ mạt đến mức nhặt được.

Người đàn bà khi gặp anh Tràng lần thứ hai đã tỏ ra chanh chua, chỏng lỏn, trực tiếp đòi ăn thứ gì khác chứ không ăn trầu. Khi được anh Tràng mời thì chị ta không hề ngần ngại mà ăn liền một chặp hết ba bát bánh đúc. Sau đó, bằng lời nói bâng quơ mà chị ta đã đồng ý về làm vợ anh Tràng, sự việc diễn ra bất ngờ khiến cho tất cả mọi người, người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ và chín người trong cuộc là anh Tràng cũng cảm thấy ngỡ ngàng, không dám tin là sự thật.

Khi ở chợ, người đàn bà tỏ ra là một người đanh đá, chỏng lỏn có phần trơ trẽn nhưng đó không phải bản chất thật của chị ta, chỉ cần nhìn vào cách chị ta ăn ta có thể thấy được chị ta rất đói, đói lâu ngày. Chị ta cũng là người có lòng tự trọng, sau khi ăn nghĩa là cái đói tạm thời được giải quyết thì lòng tự trọng trỗi dậy, chị ta quẹt đũa vào miệng mà nói đùa: “Chà, ngon. Lần này chị ấy thấy hụt tiền thì nguy…”

Khi về nhà anh Tràng chị ta như trở thành một người khác hẳn, trở nên nhẹ nhàng, ý tứ hơn rất nhiều. Khi về nhà anh Tràng, thấy cái đói cái nghèo vẫn hiện ra trước mặt, dù thất vọng nhưng chị ta chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt thì tối lại. Khi bà cụ Tứ trở về chị ta đã chủ động cất tiếng chào u như một lời làm quen, như lời chào hỏi đầu tiên với người sau này sẽ trở thành gia đình của mình. Sáng sớm hôm sau chị ta cũng thức dậy từ sớm cùng bà cụ Tứ quét dọn nhà cửa, cùng chuẩn bị bữa cơm ngày đói.

Ta có thể thấy, người vợ nhặt trong truyện bên ngoài lớp vỏ ngụy trang xù xì là một con người khát khao hạnh phúc, là một con người có lòng tự trọng, có ý thức. Cái chao chát, chỏng lỏn mà chị ta thể hiện ra bên ngoài như một cách chị ta phản ứng đối với cái khắc nghiệt của cuộc sống, như một lời thách thức với cuộc sống đầy khắc nghiệt ấy.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài lại xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật Mị. Gia đình Mị vì vay tiền của thống lí Pá Tra, không có tiền trả mà phải trở thành con dâu trừ nợ cho nhà thống lí. Điều đáng nói ở đây là Mị đã có người mà mình yêu thương, đã sống hết lòng vì tình yêu nhưng cuối cùng lại bị bắt về làm vợ A Sử. Những ngày tháng sống trong gia đình thống lí Pá Tra khiến Mị vô cùng đau khổ, những ngày mới về ngày nào Mị cũng khóc.

Mị đã từng có ý định ăn lá ngón để kết thúc sự đau khổ của bản thân, Mị trốn khỏi nhà thống lí Pá Trá về chào tạm biệt bố để chết, nhưng nghe những lời tâm sự đầy đau khổ của bố thì cuối cùng Mị vẫn không đành lòng chết đi, để lại nỗi đau khổ cho cha. Mị chấp nhận cuộc sống như địa ngục trong gia đình thống lí Pá Trá, nhẫn nhục lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Từ khi trở thành người con dâu trừ nợ Mị bị đối xử bất công, phải làm việc như con trâu con ngựa, phải chung sống với người chồng độc ác, vũ phu.

Mọi phản ứng của Mị dường như bị tê liệt, Mị chết dần trong đau khổ, đáng sợ đến mức Mị dần quen với cái khổ của bản thân “Sống lâu trong cái khổ Mị quen rồi”. Khi bị A Sử trói chặt vào cột nhà suốt một đêm, cả người đau nhức nhưng vẫn phải ngồi xoa thuốc cho A Sử khi hắn ta bị thương, vì mệt mà thiếp đi Mị bị A Sử dùng chân đạp thẳng vào mặt, Mị tỉnh lại và tiếp tục công việc thoa thuốc của mình mà không hề có bất cứ một phản ứng nào với hành động nhẫn tâm ấy.

Khi thấy A Phủ bị trói đứng giữa sân nhà thống lí, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm vì đó là cảnh tượng quen thuộc mà Mị thường xuyên bắt gặp trong nhà thống lí Pá Tra. Nhưng khi chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ lăn trên gò má sạm đen, Mị ý thức được rằng người kia rồi sẽ chết, chết đau chết đớn, chết đói, chết rét cũng phải chết. Mị nhớ lại mình cũng từng bị trói đứng cả đêm như thế, nước mắt rơi nhưng không thể tự lau được. Từ đồng cảnh sinh ra đồng cảm, Mị đã liều lĩnh cắt dây giải thoát cho A Phủ. Khi A Phủ chạy đi rồi Mị đối diện với một nỗi sợ hãi tột cùng, bản năng ham sống khiến cho Mị vùng chạy theo A Phủ để giải phóng mình.

Thông qua hai truyện ngắn "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ", ta nhìn thấy số phận đáng thương của những người phụ nữ, là sự rẻ rúng từ hoàn cảnh khắc nghiệt, là sự áp đặt và chèn ép, bóc lột dã man từ tầng lớp thống trị. Tuy nhiên, cuối cùng, nhờ lòng kiên cường và tinh thần mạnh mẽ, cả người vợ nhặt và nhân vật Mị đều tìm được niềm hạnh phúc thực sự trong cuộc đời của mình.

-/-

Trên đây là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn phân tích hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ - Văn mẫu 12 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn cảm nhận hay và sâu sắc.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM