Triều đại nào mở đầu cho thời đại phong kiến độc lập của dân tộc ta?

Với hơn mười thế kỷ chịu ách đô hộ của chính quyền phương Bắc, dân tộc ta chính thức thoát khỏi ách đô hộ và mở ra thời đại phong kiển độc lập bằng sự kiện Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán và xưng vương vào cuối năm 938.

Trả Lời Nhanh

Sau khi chiến thắng quân Nam Hán trên sông bạch đằng(năm 938) Ngô Quyền đã xưng Vương chấm dứt ách đô hộ của chính quyền phương Bắc, đồng thời mở ra thời đại phong kiến độc lập của dân tộc ta.

Triều đại mở đầu cho thời đại phong kiến độc lập của dân tộc ta.

Sau chiến thắng đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng cuối năm 938, Ngô Quyền xưng Vương, đặt trăm quan, định ra triều nghi phẩm phục, đóng đô ở Cổ Loa với ý nghĩa phục hồi lại quốc thống. Đây là một sự kiện có ý nghĩa bước ngoặt, chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ của chính quyền phương Bắc kéo dài hơn mười thế kỷ, đồng thời mở ra một chương mới tươi sáng trong tiến trình lịch sử dân tộc - thời kỳ độc lập tự chủ.

Sau đó lần lượt các triều đại Đinh, Tiền Lê tiếp tục nối tiếp sự nghiệp xây dựng nền độc lập dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc khỏi sự xâm lược của giặc.

Sự hình thành nhà Ngô

Trước khi triều đại Nhà Ngô ra đời, Việt Nam là một quốc gia bị chia cắt và rời rạc, với nhiều chúa quan lập lánh. Tuy nhiên, sau chiến thắng quan trọng tại sông Bạch Đằng vào năm 938, Ngô Quyền đã xưng vương và thành lập triều đại Ngô, đặt đô ở Cổ Loa. Triều đại Nhà Ngô đã giúp đất nước thống nhất lại và phát triển mạnh mẽ hơn.

Triều đại này đã kéo dài trong vòng hai đời với ba vị vua, từ năm 939 đến năm 968. Trong thời gian này, triều đại Nhà Ngô đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước.

Triều đại này đã phát triển thương mại, xây dựng các công trình công cộng và tôn vinh giá trị đạo đức và tôn giáo. Các vua Nhà Ngô cũng thực hiện các chính sách nhân đạo như giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và xã hội bị bệnh tật.

Bộ máy nhà nước thời Ngô

Bộ máy nhà nước dưới thời Ngô khá đơn giản và chịu nhiều ảnh hưởng từ phong kiến. Tuy nhiên, quyền lực đã tập trung vào tay vua, vua là người đứng đầu triều đình đưa ra quyết định cho mọi công việc chính trị, ngoại giao, quân sự; điều này giúp cho việc quản lí đất nước hiệu qủa hơn.

Ngoài ra, Ngô Quyền còn đặt ra các chức quan văn, võ và quy định các lễ nghi trong triều cũng như màu sắc trang phục của các quan ở các cấp độ khác nhau. Ở địa phương, Ngô Quyền cũng đã cử các tướng có công để giữ các châu quan trọng.

Kinh tế, văn hóa, xã hội thời Ngô

Về kinh tế

- Thời kì này, quyền sở hữu ruộng đất nói chung thuộc về làng xã, theo tập tục chia nhau cày cấy, nộp thuế, đi lính và làm lao dịch cho nhà vua. Việc đào vét kênh mương, khai khẩn đất hoang… được chú trọng, nên nông nghiệp ổn định và bước đầu phát triển; nghề trồng dâu tằm cũng được khuyến khích; nhiều năm được mùa.

- Đã xây dựng một số công trường thủ công: từ thời Đinh đã có những xưởng đúc tiền, chế tạo vũ khí, may mũ áo… xây cung điện, chùa chiền. Các nghề thủ công truyền thống cũng phát triển như dệt lụa, làm gốm.

- Nhiều trung tâm buôn bán và chợ làng quê được hình thành. Nhân dân hai nước Việt – Tống thường qua lại trao đổi hàng hóa ở vùng biên giới.

Về văn hóa - xã hội

- Xã hội: chia thành 3 tầng lớp: tầng lớp thống trị gồm vua, quan văn võ (cùng một số nhà sư); tầng lớp bị trị mà đa số là nông dân tự do, cày ruộng công làng xã; tầng lớp cuối cùng là nô tì (số lượng không nhiều).

- Văn hóa: Nho học chưa tạo được ảnh hưởng, giáo dục chưa phát triển. Đạo Phật được truyền bá rộng rãi, chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhà sư được nhân dân quý trọng. Nhiều loại hình văn hóa dân gian như ca hát, nhảy múa, đua thuyền… tồn tại và phát triển trong thời gian này.

Nhà Ngô suy yếu và sự ra đời nhà nước Quân chủ tập quyền đầu tiên

Năm 944, Ngô Quyền mất, triều đình rối ren. Các thổ hào, tù trưởng nổi lên khắp nơi, cát cứ chống lại chính quyền trung ương. Sau khi các con của Ngô Quyền (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn) chết (năm 954 và 965); đất nước rơi vào tình trạng chia cắt, hỗn loạn. Nổi lên 12 vùng đất biệt lập do 12 thủ lĩnh đứng đầu, lịch sử gọi là “Loạn 12 sứ quân”. Đinh Bộ Lĩnh xuất hiện, dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước vào cuối năm 967.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt (tức Nước Việt to lớn), định đô ở Hoa Lư, xây dựng triều chính và quản lý đất nước. Mùa Xuân năm 970, Đinh Tiên Hoàng bỏ, không dùng niên hiệu của nhà Tống, tự đặt niên hiệu Thái Bình. Với việc xưng đế, đặt quốc hiệu, dựng kinh đô, định niên hiệu, Đinh Tiên Hoàng đã khẳng định nền độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Cồ Việt và bắt tay vào xây dựng một mô hình nhà nước với thiết chế mới: Quân chủ Trung ương tập quyền. (theo phongkhongkhongquan.vn)

Vậy triều Ngô là triều đại đầu tiên của thời đại phong kiến độc lập của dân tộc ta nhưng phải tới triều Đinh, với việc xưng đế, đặt quốc hiệu, dựng kinh đô, định niên hiệu thì Đại Cồ Việt mới là nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên của dân tộc ta.

CÁC CÂU HỎI LIÊN QUAN