- Lực lượng sản xuất là gì?
- Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất
- Đặc trưng của lực lượng sản xuất
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
- 1. Tính chất của lực lượng sản xuất
- 2. Trình độ của lực lượng sản xuất
- Vai trò của lực lượng sản xuất
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- 1. Khái niệm quan hệ sản xuất
- 2. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất là tất cả các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người.
Lực lượng sản cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Theo C.Mác lực lượng sản xuất là: một yếu tố quyết định trong việc xác định tính chất của các hệ thống kinh tế và xã hội. Từ đó, ông phân tích và lập lý thuyết về sự tiến hóa của các hệ thống kinh tế và xã hội, đưa ra quan điểm về phát triển lịch sử xã hội theo giai đoạn chuyển tiếp từ xã hội cộng sản chưa hoàn thiện đến xã hội cộng sản hoàn thiện. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất cũng đối địch với quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của cấu trúc giai cấp xã hội.
Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất
Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất bao gồm:
*Tư liệu sản xuất: là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
- Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
- Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
+ Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
+ Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu câu con người và xã hội.
Trong đó, công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
*Người lao động: là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Đặc trưng của lực lượng sản xuất
Mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động là đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất
Người lao động là yếu tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì:
- Người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động.
- Giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động.
- Người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất.
- Công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu được. Đặc biệt, trình độ phát triển của công cụ lao động là một nhân tố quyết định năng suất lao động xã hội.
- Lực lượng sản xuất có tính khách quan và tính chủ quan
Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách quan và chủ quan.
- Lực lượng sản xuất là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ
Lực lượng sản xuất là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ, trong đó người lao động và công cụ lao động tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên sức mạnh sản xuất của xã hội.
- Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất trong phương thức sản xuất
Lực lượng sản xuất chỉ ra mối quan hệ của con người với giới tự nhiên và trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Nó quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
1. Tính chất của lực lượng sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
Như vậy, tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.
2. Trình độ của lực lượng sản xuất
Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh nghiệm kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ phân công lao động xã hội.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục của giới tự nhiên thấp hơn nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao. Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo bản thân mình cả về sinh thể và trí tuệ. Tuy nhiên, hiện nay yếu tố trí tuệ lại đang ngày càng chiếm ưu thế và được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Vai trò của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội, cả về vật chất lẫn tinh thần. Cụ thể, lực lượng sản xuất có những vai trò sau:
*Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống thống nhất, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, thì sẽ đòi hỏi một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp để phát huy được sức mạnh của nó. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này sẽ được giải quyết bằng cách thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ví dụ, trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ con người biết sử dụng công cụ đá thì sẽ đòi hỏi một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp để khai thác tối đa sức mạnh của công cụ đá. Nếu quan hệ sản xuất trong xã hội nguyên thủy vẫn là quan hệ cộng đồng nguyên thủy thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này sẽ được giải quyết bằng cách thay thế quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thủy bằng quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.
Như vậy, lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định sự vận động, phát triển của xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
*Vai trò của lực lượng sản xuất đối với đời sống xã hội
Lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất của đời sống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự phát triển của đời sống xã hội về mọi mặt, bao gồm:
Sản xuất: Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm, từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người.
Kinh tế: Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự phát triển của các lĩnh vực xã hội khác như văn hóa, giáo dục, y tế,...
Ví dụ, trong xã hội hiện đại, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự phát triển của sản xuất công nghiệp, dịch vụ, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của con người. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng đã dẫn đến sự phát triển của kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Như vậy, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đời sống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự phát triển của đời sống xã hội về mọi mặt, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Chúng ta đã hiểu lực lượng sản xuất là gì trong nội dung phía trên. Để hiểu được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu quan hệ sản xuất là gì?
1. Khái niệm quan hệ sản xuất
Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.
2. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thông nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C. Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.