MỤC LỤC NỘI DUNG
- Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn từ cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Đặc điểm của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ 19
- Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều
- Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn
- Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia Văn Phái
- Thơ Nguyễn Du với đỉnh cao là Truyện Kiều
- Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ
Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn từ cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Đất nước có biến động bởi nội chiến phong kiến và bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn.
- Chế độ phong kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái.
- Khi phong trào Tây Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế.
- Đất nước nằm trước hiểm họa xâm lăng của thực dân Pháp.
Đặc điểm của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ 19
- Văn học phát triển vượt bậc, đây là thời kì phát triển rực rỡ đánh dấu bước trưởng thành toàn diện của văn học trung đại Việt Nam, được mệnh danh là giai đoạn văn học cổ điển.- Sự xuất hiện của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, quan tâm đến con người bình thường, đánh dấu đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi.
+ Nổi bật là tiếng nói đòi quyền sống, đòi hạnh phúc và đấu tranh giải phóng con người, nhất là người phụ nữ.
+ Những tác phẩm tiêu biểu là Chinh phụ ngâm (nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái...
+ Nguyễn Du với các tập thơ chữ Hán và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều là đỉnh cao nhất của văn học trung đại Việt Nam.
+ Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... vẫn tiếp tục tinh thần nhân đạo truyền thống nhưng đồng thời hướng nhiều vào thế giới tình cảm riêng tư và ý thức cá nhân của con người.
- Văn học phát triển mạnh cả về văn xuôi và văn vần, cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Địa vị văn học chữ Nôm và những thể loại văn học dân tộc như thơ Nôm viết theo thể Đường luật, ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ viết theo thể lục bát... được khẳng định và đạt tới đỉnh cao.
- Văn xuôi tự sự chữ Hán cũng đạt được những thành tựu nghệ thuật lớn, tiểu thuyết chương hồi với Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái); thể kí với Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)...
Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều
Cung oán ngâm khúc hay gọi tắt là Cung oán là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát.Nội dung chính:
Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc, lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân hết sức nồng nàn thắm thiết nhưng chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc "chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi". Cung nữ khát khao muốn "đạp tiêu phòng mà ra" để trở về với cảnh đời "cục mịch nhà quê" thuở trước, nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam cầm trong cung điện vàng son, trong nỗi buồn đau sầu thảm và oán hờn chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát khao có lại những cuộc ân ái hiếm hoi khi xưa "giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày", vẫn mong chờ được nhà vua đoái hoài đến trong nỗi niềm tuyệt vọng.
Cung oán ngâm khúc là tiếng thét oán hờn của một trang nữ lưu tố cáo và phản kháng chế độ phong kiến đã đối xử phũ phàng tàn ác đối với phẩm giá và những tình cảm trong sáng, cao quý của người phụ nữ. Bài ngâm còn chứng minh cho thấy "bọn đại quý tộc đã không còn tin tưởng vào đạo trị quốc của nhà nho nữa".
Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, đài các, tinh xảo và nhuần nhị, dùng nhiều chữ Hán và điển tích, điển cố như: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, thân phù thế, mùi tục lụy, mồi phú quý, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn, hoa chúm chím chào, cợt đào ghẹt mai, thánh thót cung đàn, nỉ non tiếng địch, gay gắt điệu, tê tái lòng, má đào chon chót, âm thầm chiếc bóng, hồn bướm vẩn vơ, dế ran ri rỉ, quyên kêu ra rả...
- Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm điệu góc cạnh và dữ dội, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào đá gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ.
- Thể thơ song thất lục bát làm cho nhạc điệu của Cung oán ngâm khúc hết sức réo rắt bởi sự hòa thanh của hai vần trắc ở hai câu 7 (nghe gay gắt) và sự hòa hoãn ở hai câu 6 - 8 (nghe êm dịu hơn).
Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn
Chinh phụ ngâm, còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc là tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm. Đây là thi phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, dài 476 câu thơ.Nội dung chính:
Chinh phụ ngâm có hình thức là một lời độc thoại nội tâm mà vai chính, cũng là vai duy nhất đứng ra độc thoại trong truyện là một người vợ có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến chủ xướng, kể về nỗi khổ, nỗi cô đơn buồn tủi phải xa chồng.
Hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến cuộc, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì dâng vua, hùng dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết.
Cuộc tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Những xúc cảm về một hình ảnh "lẫm liệt" của chồng phút chia ly đã dần mờ nhòe, thay thế vào đó là nỗi lo sợ khủng khiếp về số phận của chồng giữa chiến trường khốc liệt, đầy oan hồn tử khí và niềm đau khổ khôn nguôi về thân phận đơn chiếc của bản thân.
Tâm trạng chán chường khi tìm chồng trong mộng nhưng mộng lại buồn hơn, lần giở kỷ vật của chồng mong tìm chút an ủi nhưng sự an ủi chỉ le lói, thấy thân phận của mình không bằng chim muông, cây cỏ có đôi liền cành. Người chinh phụ chán chường và tuyệt vọng, không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu mong được sống hạnh phúc cùng chồng. Khúc ngâm kết thúc bằng hình dung của người chinh phụ về ngày chồng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình, yên ả.
Ra đời trong bối cảnh phong trào nông dân khởi nghĩa chống triều đình phong kiến nửa đầu thế kỷ 18 đang dâng lên mạnh mẽ, Chinh phụ ngâm đã trở thành tiếng nói đề cập đến cuộc chiến tranh phi nghĩa do nhà nước phong kiến Lê – Trịnh phát động lúc bấy giờ nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân. Giá trị nhân đạo sâu sắc, khẳng định sự phi nghĩa của chiến tranh đối với cuộc sống bình thường giản dị của con người.
Giá trị nghệ thuật:
- Bút pháp ước lệ tượng trưng được nâng tầm khi Đặng Trần Côn đã chắt lọc từ kho tàng văn thơ chữ Hán cổ ra những câu phù hợp nhất với ý tứ của mình và dụng công sắp xếp thành kết cấu hoàn chỉnh, như một sáng tạo mới mẻ.
- Thể thơ trường đoản cú được Đặng Trần Côn sử dụng giàu nhạc tính, tiết tấu biến hóa sinh động tùy yêu cầu của nội dung.
- Bản dịch hiện hành đã phát huy những ưu điểm vốn có của nguyên tác, và gạn lọc cả những thành tựu của các bản dịch trước đó, sử dụng ưu thế của thể thơ song thất lục bát, đã vươn tới một sáng tạo tài tình bằng ngôn ngữ trong sáng hiện đại, kết cấu thanh vận khéo léo, láy âm điệp chữ tinh tế, gieo vào lòng độc giả âm hưởng xao xuyến vừa quen thuộc vừa đa dạng và hầu như lúc nào cũng gây được hiệu quả thẩm mỹ.
Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia Văn Phái
Hoàng Lê nhất thống chí, hay An Nam nhất thống chí, hay Lê quý ngoại sử là cuốn tiểu thuyết văn xuôi viết bằng chữ Hán, nằm trong bộ Ngô gia văn phái tùng thư của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Tác phẩm được viết dưới dạng chương hồi, gồm 17 hồi.Nội dung chính:
Tác phẩm chủ yếu phản ánh cuộc tranh chấp quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến thời Lê mạt và phong trào Tây Sơn.
Tác phẩm miêu tả khoảng hơn 30 năm cuối thế kỷ 18, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1767) đến lúc Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802). Đây chính là giai đoạn rất nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam, cả cơ cấu xã hội phong kiến cùng những hình thái ý thức, tư tưởng, đạo đức... hầu như bị đảo lộn và lay chuyển tận gốc.
Tác phẩm có một số tình tiết hư cấu, tuy nhiên đã mô tả khá sinh động về những biến động trong xã hội phong kiến cuối thế kỷ 18, phản ánh phần nào cuộc sống của nhân dân thời Lê mạt: cuộc sống không có trật tự, không an toàn, không ấm no trước nạn binh hỏa và nạn đói.
Giá trị nghệ thuật:
- Tác phẩm không giữ nguyên thi pháp cổ điển của thể loại như mô tả ngoại hình nhân vật theo lối tượng trưng, ước lệ, mà có những đặc điểm được các nhà nghiên cứu đánh giá là đậm sắc thái của Việt Nam.
- Ngôn ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ động, mang phong cách lối nói dân gian giàu hình tượng, đôi khi có khoa trương, phóng đại hài hước, không bị gò bó theo khuôn của Hán học.
- Xây dựng được những nhân vật điển hình đa dạng, vừa khái quát vừa sâu sắc.
Thơ Nguyễn Du với đỉnh cao là Truyện Kiều
Truyện Kiều là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3.254 câu.Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, phẩm chất và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lí, khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước hương trời" và có tài "cầm kỳ thi họa".
Giá trị nội dung:
- Giá trị nhân đạo: Đề cao tự do, ước mơ đẹp về tình yêu; khát vọng công lí, khát vọng về quyền sống... Ca ngợi phẩm chất con người (Kiều: Đẹp, tài, trí, hiếu thảo, trung hậu, vị tha)
- Giá trị hiện thực: Bức tranh hiện thực về một xã hội bất công. Tiếng nói lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.
Giá trị nghệ thuật:
- Tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại.
- Với Truyện Kiều, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
- Với Truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bạc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.
Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ
Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là hai cây đại thụ ở giai đoạn cuối vẫn tiếp tục tinh thần nhân đạo nhưng đã bộc lộ cái tôi, tình cảm riêng tư.Là hai nhà thơ tiêu biểu nhất cho nền thơ Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, điểm khác biệt dễ thấy nhất ở hai nhà thơ là Nguyễn Công Trứ chủ yếu sáng tác bằng chữ Nôm thì hầu hết sáng tác của Cao Bá Quát được viết bằng chữ Hán. Không kể đến sự khác biệt về ngôn ngữ - văn tự, chúng ta dễ dàng thấy những nét chung trong cách nhìn đời, nhìn mình của hai tác giả. Nguyễn Công Trứ trình làng một quan niệm sống khá táo bạo, ngông nghênh, “ngất ngưởng” của một con người mà cuộc đời tuy nhiều thăng trầm trong “hoạn hải ba đào” nhưng nhìn chung là thành đạt. Cao Bá Quát lại tự thể hiện cái nhìn tiến bộ mình qua một khoảnh khắc bất chợt trên con đường “dương trình hiệu lực” lắm chua cay, xa lạ.
Cả hai nhà thơ, trong hai đề tài rất khác nhau, hai tâm thế khác nhau đều thể hiện những nét mới trong cách nhìn cuộc sống. Nguyễn Công Trứ có cách nhìn riêng về cuộc đời, phẩm chất của bản thân, vượt lên trên mọi ràng buộc, thói tục tầm thường. Cao Bá Quát trong một thi phẩm có tính chất kí sự sứ trình đã thể hiện một cách nhìn mới mẻ rộng mở về tình cảm và hạnh phúc vợ chồng, tiếp nhận công bằng đối với những biểu hiện khác lạ với văn hóa truyền thống. Cả hai nhà thơ đã thể hiện sự trỗi dậy phát triển của ý thức cá nhân, dám vượt ra khỏi những khuôn khổ trói buộc, câu nệ của tư tưởng phong kiến, của thiết chế xã hội chuyên chế nặng nề.