Dạ cổ hoài lang là gì? Bản nhạc cổ mang đậm bản sắc dân tộc

Dạ cổ hoài lang là gì? Tìm hiểu về bản nhạc cổ nổi tiếng của Việt Nam, tiếng lòng của người vợ nhớ chồng được thể hiện qua những lời ca tha thiết, da diết.

Trả Lời Nhanh

Dạ cổ hoài lang là một bản nhạc cổ của Việt Nam, được sáng tác bởi nhạc sĩ Cao Văn Lầu vào năm 1920. Bản nhạc là tiếng lòng của người vợ nhớ chồng, được thể hiện qua những lời ca tha thiết, da diết.

MỤC LỤC NỘI DUNG
  • Dạ cổ hoài lang là gì?
  • Lịch sử ra đời của Dạ cổ hoài lang
  • Dạ cổ hoài lang là của ai?
  • Dạ cổ hoài lang bắt nguồn từ đâu?
  • Hoàn cảnh ra đời của Dạ cổ hoài lang
  • Lời ca của Dạ cổ hoài lang
  • Thể loại của Dạ cổ hoài lang
  • Ý nghĩa của Dạ cổ hoài lang
  • Một số thông tin thêm quanh tác phẩm Dạ cổ hoài lang

Dạ cổ hoài lang là gì?

Dạ cổ hoài lang là một trong những bản nhạc cổ nổi tiếng nhất của Việt Nam, được nhiều thế hệ nghệ sĩ yêu thích và thể hiện. Bản nhạc đã đi vào đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ và trở thành một di sản văn hóa của dân tộc, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Dạ cổ hoài lang có nghĩa là gì? Ý nghĩa của "Dạ cổ hoài lang" là tâm sự của người vợ nhớ chồng lúc về đêm.

Lịch sử ra đời của Dạ cổ hoài lang

Dạ cổ hoài lang là của ai?

- Tác giả của Dạ cổ hoài lang là Cao Văn Lầu - một nhạc sĩ tài năng của Việt Nam, sinh ra và lớn lên tại Bạc Liêu.

- Ông là tác giả của nhiều bản nhạc cổ nổi tiếng, trong đó có Dạ cổ hoài lang.

Tác giả Cao Văn Lầu

Tác giả Cao Văn Lầu

Dạ cổ hoài lang bắt nguồn từ đâu?

- Về nguyên nhân ra đời, Cao Văn Lầu đã từng thổ lộ với bạn thân rằng: 

"Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ. Năm viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con...Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu..."

- Dạ cổ hoài lang được sáng tác vào năm 1920, khi Cao Văn Lầu đang làm việc tại Nhà đèn Bạc Liêu. Bản nhạc được sáng tác dựa trên chính hoàn cảnh của ông, khi ông phải xa người vợ yêu dấu để đi làm việc xa nhà.

- Có nhiều chi tiết khá khác nhau qua lời kể của một số nhân vật nên chưa xác định được thời điểm chính xác bản nhạc được ra đời. Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918) được đa số nghệ sĩ Bạc Liêu và nhiều người đồng thuận hơn.

Hoàn cảnh ra đời của Dạ cổ hoài lang

Vào thời điểm sáng tác Dạ cổ hoài lang, ông Sáu Lầu đã lập gia đình nhưng chẳng may lại không có mụn con nào nối dõi tông đường nên bà mẹ buộc ông phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự. Ông buồn rầu không còn thiết tha trong cuộc sống, chính tâm sự ưu sầu đó khiến ông cho ra tác phẩm bất hủ này. Ban ngày ra ngoài đồng ruộng tìm sự thanh thản, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói với ông trước khi chia tay, ông vốn biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng của người chồng đau khổ trước hoàn cảnh cuộc hôn nhân vợ chồng sẽ phải chia ly, ông hứng khởi tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là "Dạ Cổ Hoài Lang", nghĩa là đêm khuya nghe tiếng trống thúc mà nhớ chồng, để ám chỉ đến kỷ niệm bi thương của tâm sự lòng hay những lời tình tự của vợ ông trao cho ông. Có lẽ vì Cao Xanh không phụ người có thiện tâm, nên sau khi ông sáng tác bản vọng cổ này rồi, ít lâu sau vợ ông thụ thai và ông bà có được sáu người con.

Năm 1953 trong bài viết của tờ báo Dân Mới trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Thanh Cao, khi Thanh Cao hỏi ông Sáu Lầu ngày chào đời bản Vọng cổ, xin cho biết năm nào đã sáng tác. Ông Sáu Lầu trả lời: "Tôi không nhớ rõ đã được bao nhiêu lâu, nhưng chỉ nhớ năm ấy tôi được 29 tuổi và bây giờ tôi đã lên 63". Báo đăng bài phỏng vấn năm 1953, khi ông 63 tuổi tức là ông chào đời năm 1890. Và năm ông sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang chính xác là năm 1919, vào lúc ông mang tâm trạng khủng hoảng tâm lý, trong hoàn cảnh bi thương bị mẹ bắt buộc phải ly dị với vợ ông sau 8 năm chung sống, vì lý do bà vợ không sanh được con như đã bàn phần trên. Về sau này bản "Dạ Cổ Hoài Lang" được đổi tên là "Vọng Cổ Hoài Lang", tức trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng.

Lời ca của Dạ cổ hoài lang

Từ là từ phu tướng
Báu kiếm sắc phán lên đàng
Vào ra luôn trông tin nhạn
Năm canh mơ màng

Em luống trông tin chàng 
Ôi! Gan vàng quặn đau í i

Đường dầu sa ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu

Vọng - phu vọng luống trông tin chàng
Lòng xin chớ phụ phàng

Chàng là chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắt cầm đừng lợt phai í ơ

Là nguyện cho chàng
Hai chữ an - bình an
Trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi.

- Lời ca của Dạ cổ hoài lang kể về nỗi nhớ của người vợ đối với người chồng đi xa.

- Người vợ nhớ chồng da diết, nhớ từng cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười của chồng.

- Người vợ mong ngóng chồng trở về đoàn tụ.

Thể loại của Dạ cổ hoài lang

- Dạ cổ hoài lang là một bản vọng cổ, một loại hình âm nhạc đặc trưng của miền Nam Việt Nam.

- Vọng cổ là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian, kết hợp giữa diễn xuất, ca hát và múa.

Ý nghĩa của Dạ cổ hoài lang

Dạ cổ hoài lang không chỉ là một bản nhạc, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật mang giá trị nhân văn sâu sắc. Bản nhạc thể hiện tình cảm vợ chồng thủy chung, son sắt. Dạ cổ hoài lang cũng là một minh chứng cho sự phát triển của âm nhạc dân tộc Việt Nam.

Về mặt tình cảm: Dạ cổ hoài lang thể hiện tình cảm vợ chồng thủy chung, son sắt. Người vợ trong bản nhạc luôn nhớ về chồng, nhớ từng cử chỉ, lời nói, nhớ từng ánh mắt, nụ cười của chồng. Người vợ mong ngóng chồng trở về, mong ngóng ngày đoàn tụ. Bản nhạc Dạ cổ hoài lang đã chạm đến trái tim của biết bao người nghe, khiến người nghe cảm nhận được nỗi nhớ da diết của người vợ. Bản nhạc là một minh chứng cho tình cảm vợ chồng thiêng liêng, bất diệt.

Về mặt nghệ thuật: Dạ cổ hoài lang là một tác phẩm nghệ thuật mang giá trị văn hóa cao. Bản nhạc thể hiện tài năng sáng tác của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, đồng thời cũng thể hiện sự phát triển của âm nhạc dân tộc Việt Nam. Dạ cổ hoài lang là một bản vọng cổ, một loại hình âm nhạc đặc trưng của miền Nam Việt Nam. Bản nhạc mang âm hưởng buồn, sâu lắng, phù hợp với nội dung của bản nhạc. Lời ca của bản nhạc được viết rất hay, mang đậm chất trữ tình, tha thiết.

Dạ cổ hoài lang đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng âm nhạc truyền thống của dân tộc. Bản nhạc đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, là niềm tự hào của người dân Việt Nam.

Một số thông tin thêm quanh tác phẩm Dạ cổ hoài lang

- Bài Dạ cổ hoài lang được đưa lên sân khấu lần đầu bởi gánh hát Năm Tú ở Mỹ Tho rồi sau đó được sử dụng rộng rãi, nhất là trong tuồng cải lương. Cũng vì thế, nó được chuyển dần thành nhiều nhịp và đến năm 1924 đã tăng lên nhịp bốn. Từ khoảng 1934 đến 1944, tăng lên nhịp tám. Từ khoảng 1944 đến 1954, Vọng cổ tăng lên nhịp 16. Từ 1955 đến 1964, tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay.

- Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp hai. Bản Vọng cổ từ nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử bốn phương. Và ông tổ cải lương không phải là Cao Văn Lầu, vì bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1918, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.

- Ca khúc Lặng Sóng Trùng Dương do ca sĩ Xuân Mai và Hương Lan thể hiện được nhạc sĩ Viễn Châu viết lời mới dựa trên giai điệu của bản Dạ cổ hoài lang này.

CÁC CÂU HỎI LIÊN QUAN