Giá trị nhân văn của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

Xuất bản: 24/05/2023 - Tác giả:

Phân tích giá trị nhân văn của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, bài văn mẫu hay bàn về giá trị nhân văn, nhân đạo cao cả của tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)

Phân tích giá trị nhân văn của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ để cảm nhận rõ hơn số phận, vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động nói chung trước Cách mạng tháng tám.

Bài văn phân tích giá trị nhân văn của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

Mẫu 1:

Tô Hoài đã và vẫn giữ một tình cảm sâu sắc đối với đồng bào miền núi trước và sau khi sáng tác truyện này. Trong quá trình sống chung với họ, ông đã học một chút tiếng Thái và Hmông để có thể giao tiếp dễ dàng hơn. Ông đã từng đo tay kết anh em với một số người, nhận một người con Hmông làm con nuôi và trở thành bạn thân của nhiều cán bộ lãnh đạo miền núi. Tương tự như các truyện khác trong tập Truyện Tây Bắc, "Vợ Chồng A Phủ" là sự kết tinh của trải nghiệm sống, vốn hiểu biết và tình yêu thương, sự kính trọng mà nhà văn dành cho những người dân miền núi Tây Bắc nước ta.

Vợ chồng A Phủ cùng tập truyện Tây Bắc đã khẳng định vị trí vững chắc trong văn học đương đại Việt Nam. Nó giúp mở rộng đề tài văn học sang những vùng núi xa xôi hẻo lánh chưa được khám phá bởi các nhà văn trước đây. Con người miền núi được nó nhìn nhận với tình cảm trân trọng, yêu thương và sự gần gũi. Đặc biệt, những hình tượng sống động mà truyện ngắn tạo ra làm người đọc khó có thể quên được. Tác phẩm cũng đã được chuyển thể thành phim dựa trên ý tưởng của nhà văn.

Vợ chồng A Phủ đã trải qua nhiều lần viết lại trước khi có phiên bản hiện tại. Văn bản hiện tại là kết quả của lần viết thứ ba và đã trở nên khác biệt nhiều so với phiên bản đầu tiên. Song, tác giả vẫn cảm thấy chưa đạt được thành công đồng đều. Theo tác giả nhận định: "Phần sau truyện còn lỏng lẻo so với phần trước". Phần sau truyện kể về cuộc sống của vợ chồng A Phủ sau khi đến Phiềng Sa và Tô Hoài vẫn hy vọng có thể viết lại phần này. Trong phiên bản kịch phim Vợ chồng A Phủ, ông đã viết một cách xuất sắc hơn và được nhà văn Nguyễn Tuân khen ngợi. Tuy nhiên, việc viết lại câu chuyện không phải là việc dễ dàng. Trong tập truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1985 (NXB Văn học, Hà Nội, 1985), khi tuyển chọn truyện này, tác giả đã cắt bỏ phần sau và kết thúc truyện khi hai người đã rời xa Hồng Ngài và đến Phiềng Sa. "Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mị đã thành vợ chồng" là câu văn khép lại câu chuyện.

Theo lời Tô Hoài phát biểu năm 1960 thì chủ đề của truyện Vợ chồng A Phủ là cuộc đấu tranh của nông dân các dân tộc Tây Bắc trong nhiều năm chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc trưng. Dù thế lực phong kiến còn đang kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước nhưng các dân tộc không lặng lẽ chịu đựng, họ đã thức tỉnh mình. Mỗi khi Đảng cử cán bộ đến, các dân tộc lại đứng lên, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Họ trẻ đẹp và đầy yêu đời... cho dù chỉ còn một phút sống, họ vẫn chờ đợi, hy vọng một ngày bình yên, hạnh phúc với tình yêu và đất nước. Hơn 40 năm sau, vào khoảng năm 1994, Tô Hoài nhấn mạnh đến số phận đắng cay của người phụ nữ miền núi, không chỉ gánh chịu lao động vất vả mà về mặt tinh thần còn bị mê tín, thần quyền cầm tù. Tuy nhiên, tình yêu và tuổi trẻ đã chiến thắng sự hà khắc của phong kiến và thần quyền. Cuộc kháng chiến của các dân tộc đã đưa họ trên con đường đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc của mình. Tác giả đặc biệt chú trọng vào vẻ đẹp của tuổi trẻ và tình yêu, vẻ đẹp tâm hồn của Mị trong những khoảnh khắc cứu thoát A Phủ và bản thân. Điều này có thể coi là gợi ý để phân tích sâu hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Tác giả mở đầu tác phẩm bằng việc giới thiệu với người đọc hình ảnh của Mị, một cô gái làm con dâu thống lí, mang trên mình gương mặt buồn rười rượi: "Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó chính là nét mặt muôn thuở của cô dâu trừ nợ, một sản phẩm của chế độ bóc lột nợ lãi miền núi. Bố mẹ Mị đã mượn tiền từ thống lí để tổ chức đám cưới, sau đó phải trả lãi mỗi năm bằng một nương ngô. Mị lớn lên trong suốt mười mấy năm, trong thời gian đó, mẹ Mị qua đời và bố Mị già yếu, nhưng họ vẫn chưa trả hết nợ! Gia đình thống lí ép Mị trở về làm con dâu gạt nợ. Sau này, A Phủ cũng bị buộc phải vay nợ để nộp phạt và phải ở đợ. "Bao giờ có tiền thì cho về, chưa có tiền thì phải ở làm con trâu con ngựa" cho thống lí. Trong đời này, đời con, đời cháu, chỉ khi nào nợ được trả hết thì mới thôi. Như vậy, người ở đợ sẽ mãi mãi trở thành trâu ngựa của thống lí, không có hy vọng thoát khỏi.

Hai từ "trâu ngựa" trong miệng thống lí Pá Tra nói ra hoàn toàn không phải là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc cả đêm lẫn ngày. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt... Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.

A Sử chồng Mị không coi Mị như một con người, chẳng bao giờ cho Mị đi chơi Tết. Thấy Mị có ý định muốn đi chơi, A Sử ngay lập tức bước đến, nắm Mị và dùng thắt lưng trói hai tay Mị. Hắn lấy một thúng sợi đay ra để trói Mị vào cột nhà. Tóc Mị buông xõa xuống rồi bị quấn lên cột nhà, khiến Mị không thể cúi đầu hay nghiêng cổ nữa. Sau khi trói vợ xong, A Sử thắt chặt dây lưng và tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ như thắt một sợi dây lưng, tắt đèn và đóng cửa một cách lạnh lùng, không có cảm xúc, không suy nghĩ, không xúc động. Trong đoạn tiếp theo, khi Mị bóp thuốc cho A Sử và cảm thấy mệt mỏi, A Sử tàn nhẫn "đạp chân vào mặt Mị". Nhà Pá Tra đã từng trói đứng một con dâu cho đến chết. Giờ đến lượt A Phủ bị trói đứng như vậy! Có thể nói đây là một tập tục đã mất hết nhân tính.

Tư tưởng mê tín dị đoan đã củng cố cho tập tục đó. Sau khi cướp vợ về, họ phải cúng trình ma. Thế lực vô hình này đã trói buộc và đe dọa người lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu và bị kẹt trong sự kìm kẹp. Rập rờn cảnh tiếng nhạc sinh tiền cúng ma, cảnh Pá Tra đốt hương khấn ma để nhận mặt người vay nợ vàng càng làm tăng thêm không khí đáng sợ nơi miền núi âm u, nơi ma thiêng nước độc. Tác giả đã mô tả chân thực và sâu sắc cảnh địa ngục trần gian, nơi những người lao động vô tội bị giam hãm. Đây là một bản cáo trạng đối với chế độ phong kiến miền núi cấu kết với thực dân Pháp. Bị cáo trong bản cáo trạng ấy là A Sử và Pá Tra - cha hắn. Cho vay nặng lãi, coi mạng người như cỏ rác, lợi dụng mê tín thần quyền, cấu kết với quan Tây, cha con Pá Tra là những kẻ hiện thân cho cái ác, cho thế lực phản động. Nhà văn khắc họa không nhiều, nhưng chỉ vài nét mà người đọc không quên được bộ mặt tàn nhẫn, mất hết tính người của chúng.

Trong truyện, Mị là nhân vật trung tâm, nhân vật chính, là linh hồn của truyện, đại diện cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên để tự giải thoát cho bản thân. Tác giả Tô Hoài mở đầu tác phẩm bằng việc giới thiệu Mị là một cô gái luôn cúi mặt bất kể khi nào và làm gì, nét mặt luôn buồn rười rượi. Mị mang hình bóng của một con người bị chà đạp và đắm chìm trong tuyệt vọng. Nhưng Mị là ai, chỉ những người nghèo ở Hồng Ngài, những người cùng chung số phận với Mị mới thực sự hiểu được. Cuộc đời của Mị trong truyện có thể chia thành bốn giai đoạn: giai đoạn trước khi trở thành con dâu, giai đoạn mới trở thành con dâu, giai đoạn khi đã quen với việc làm dâu và giai đoạn cứu A Phủ rồi chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

Mị là một người con gái hạnh phúc trước khi bị bắt về làm dâu gạt nợ. Cô sống yêu đời, có tài nghệ trong việc thổi kèn và thổi sáo. Cô đã trải qua những đêm tình mùa xuân đầy say đắm. "Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị". Mị cũng mang trong mình khao khát tự do và mong muốn làm chủ cuộc sống của chính mình. Khi gia đình Pá Tra muốn đưa cô về để trừ nợ, dù bố Mị chưa kịp phản ứng, Mị đã lập tức nói: "Con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu".

Khi bị cướp về làm dâu trong nhà thống lí và bị đem đi cúng trình ma, Mị trải qua những đau đớn và uất ức khôn cùng. Đã mấy tháng rồi, đêm nào Mị cũng rơi lệ. Cô không thể chấp nhận việc trở thành một nô lệ cho một gia đình giàu có. Mị đã hái lá ngón (loại lá độc), đôi mắt đỏ hoe, sau đó về chào bố để chuẩn bị tìm đến cái chết. Tuy nhiên, nghĩ về việc nếu cô chết, người bố đã già yếu của cô sẽ phải trả nợ do đó cô không thể chết. "Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất". Mị khóc cho cuộc đời của mình, khóc cho số phận mình. Cách mà Mị ném nắm lá ngón giống như ném cái khát vọng được giải thoát cho chính mình! Từ đó, Mị không còn nghĩ về bản thân mình nữa, cô chỉ sống như một con trâu, con ngựa để trả nợ cho bố mình thôi!

Vài năm sau khi bố Mị qua đời, Mị không còn nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì "Mị quen cái khổ rồi". Bây giờ, Mị chỉ coi mình như một con trâu, con ngựa,... con ngựa chỉ biết ăn cỏ và làm việc mà thôi. Mị không còn suy nghĩ nhiều nữa mà luôn nhớ và làm đi làm lại những công việc giống nhau, liên tiếp nhau... Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại là một chuỗi công việc: "Tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa đi nương bẻ bắp, và dù hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi". Cuộc đời của Mị chỉ còn là một chuỗi việc liên tiếp nhau, con người Mị chỉ là một công cụ, một con vật để người khác sai khiến. Cha con Pá Tra cũng không coi Mị là con người, không Tết nào mà A Sử cho Mị đi chơi cả.

Nhìn thấy Mị muốn đi chơi, A Sử không nói một lời mà đem một thúng sợi đay để trói đứng cô vào cột, sau đó khép cửa rời đi. Người trong nhà nhìn thấy Mị bị trói đứng như vậy cả đêm mà không ai quan tâm. Điều đáng ngạc nhiên là ngay sau đó, khi vừa được cởi trói, cô lại phải đi hái lá thuốc về để xoa bóp cho chồng. Nhỡ Mị có thiếp đi vì mệt thì A Sử liền dùng chân đạp vào mặt cô! Điều này cho thấy không nơi nào mà sự sống và nhân phẩm con người bị coi nhẹ đến như vậy! Không nơi nào con người tự coi thường bản thân một cách tuyệt vọng như vậy! Mị chấp nhận số phận của một con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong căn phòng tối tăm, kín mít, nhìn qua cửa sổ hình vuông mờ mờ trăng trắng, "đến bao giờ chết thì thôi".

Tuy nhiên, điều đó chỉ là một khía cạnh nhỏ trong tâm hồn của Mị. Cái sâu sắc, tấm lòng nhân đạo của tác giả không chỉ thể hiện qua tình cảm thương xót dành cho Mị, không chỉ là lời tố cáo sự tàn nhẫn phi nhân đạo của tầng lớp thống trị, mà còn là khả năng nhìn thấu bên trong con người Mị và đặt toàn bộ tình yêu thương vào đó.

Như đã đề cập trước đó, Mị từng có một tuổi trẻ hạnh phúc và tính cách muốn tự làm chủ cuộc sống của chính mình. Tính cách đó không bao giờ chết, chỉ tạm thời bị kìm nén lại để sau đó có dịp thích hợp sẽ bùng lên. Khi đó là một mùa xuân Tết đến, mấy năm sau, khi tiếng sáo rủ rê bạn bè đi chơi vang đến từ đầu núi, Mị lắng nghe tiếng sáo tha thiết, bồi hồi rồi tự nhiên ngồi nhẩm thầm bài hát trong tâm trí. Trong không khí chào đón Tết của mọi người, "Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, từng chén uống cạn". Cách Mị uống rượu như một dấu hiệu cho hành động nổi loạn, chống lại thân phận mà Mị chưa thể nhận thức rõ ràng. "Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng... nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước". Trạng thái say đã giúp Mị quên đi hoàn cảnh hiện tại để sống trong kỷ niệm của những đêm tình ngày xưa. Những ngày xưa trở lại. Mị đang sống với hai thân phận: con người thực tại, "đứng dậy", "bước vào buồng", "ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng"; và con người tâm linh, "đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước".

Trong tim Mị nhói lên nỗi thương xót chính mình: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ" và sự oán hờn: "Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau". Sau đó là một tình cảm uất hận: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Và đúng lúc đó, con người tâm linh bên trong Mị trỗi dậy, hòa quyện với con người hiện tại, khiến cô rơi vào trạng thái mơ màng, sống đồng thời trong không gian hiện thực và trong ký ức quá khứ, mập mờ và mơ hồ. Mị thêm dầu vào đèn, bện lại tóc, mặc chiếc váy hoa... như sống trong hiện thực, nhưng thực ra, Mị đang sống trong một giấc mơ. Cô không nghe thấy A Sử hỏi, cô cũng "không biết rằng mình bị trói, tai vẫn nghe tiếng sáo gọi đi chơi. Chỉ khi cố gắng bước đi mà không thành công, khi cơ thể đau đớn và không thể di chuyển, cô mới thức tỉnh và nhận ra rằng mình không bằng con ngựa. Nhưng khuya, nghe tiếng chó sủa xa xa, cô lại quên ngay hiện tại, nín khóc và lại bồi hồi với cuộc sống trong mộng, lúc mơ, lúc tỉnh.".

Đoạn văn này thật tuyệt vời và thơ mộng. Nó không chỉ tái hiện sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ, mà còn mang đến không khí văn hóa ngày hội đẹp đẽ trong đời sống tâm hồn của nhân vật. Đồng thời, đoạn văn đã thấm đượm một lòng thương xót vô hạn đối với số phận của người con dâu trừ nợ và nâng niu những giấc mơ tình yêu đẹp đẽ của một con người. Ngòi bút của tác giả đã thâm nhập sâu vào những biến đổi tinh vi của tình cảm nhân vật, thể hiện một tấm lòng nhân đạo tha thiết, hiểu rõ những khúc mắc, bí ẩn của nó.

Đỉnh cao trong cuộc nổi loạn chống lại thân phận trâu ngựa của Mị là đoạn cô đứng lên giải thoát cho A Phủ và cho cả chính mình. Khi A Phủ đã mấy đêm bị trói đứng vào cây cột để chịu tội do hổ ăn mất bò thì trạng thái vô cảm của Mị đang lên đến mức cao nhất. Mị ít ngủ và có thói quen ngồi sưởi lửa đêm. Những khi ngọn lửa bùng lên, Mị thấy mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết A Phủ còn sống. "Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi... Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Mị vô cảm với sinh mệnh của A Phủ và cả với chính mình!

Nhưng cái gì đã thức tỉnh lòng trắc ẩn của Mị? Một lần trở dậy, khi "ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Cái giọt nước mắt ấy đã làm Mị "chợt nhớ lại" việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ thì chỉ đêm mai là chết thôi. Chỉ có trí nhớ bất chợt là làm Mị sống lại. Trí nhớ có sức sống riêng của nó, không phải muốn quên là quên được đâu. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ lại loé lên một cách vô thức, và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. "Người kia việc gì mà phải chết thế". Mị đứng lên lấy con dao nhỏ cắt dây trói cho A Phủ trong một ý thức chấp nhận hi sinh về mình, sẵn sàng thế mạng cho anh nếu bị bắt trói thế vào cột. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời Mị. Cô trở thành con người cao cả, nên cô không còn cảm thấy sợ!

Hành động đó tuy không thể đoán trước, nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên chút nào. Mị đã từng nguyện làm rẫy trả nợ thay bố, đã từng chịu khổ để làm dâu trừ nợ cho bố, từng dám chết để được giải thoát cho mình, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội?

Nhưng tính cách Mị tuy có quy luật mà vẫn đầy bất ngờ. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, lập tức "Mị cũng vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất!" Lôgic cũng rất chặt chẽ. Mị đã cứu sống A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình?! Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến của nhân vật cực kì tự nhiên và sinh động, đầy ngẫu nhiên bất ngờ mà vẫn nằm trong quy luật tất yếu cua sự sống. Mấy giây trước đó, ai có thể nghĩ rằng Mị lại bỏ trốn? Thế mà cô đã vùng chạy theo A Phủ, và không thể khác được! Mị là một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam. Một trong những bí quyết của nó là nhà văn đã khắc họa quá trình tâm lí đầy biến hoá, ngẫu nhiên, bất ngờ, mà vẫn nằm trong vòng tình lí của sự sống. Nhân vật trở nên có hình khối, đa diện, đầy mâu thuẫn, khi thì mặt này nổi lên, khi thì mặt kia nổi lên, nhưng lúc nào cũng là nhân vật ấy, chứ không phải là nhân vật khác lắp vào.

Trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ", A Phủ ban đầu chỉ xuất hiện như một nhân vật phụ trong thời kì Hồng Ngài, nhưng sau đó anh trở thành nhân vật chính trong cuộc đời của mình ở Phiềng Sa. Ở phần đầu của câu chuyện, tác giả tập trung kể từ góc nhìn và ý thức của Mị, trong khi ở phần sau, ngòi bút của tác giả chuyển sang tập trung vào góc nhìn của A Phủ. A Phủ là một đứa trẻ mồ côi, là nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói, khiến hàng ngàn người mất mạng. Chỉ mới mười tuổi, A Phủ đã bị bán đi qua vùng người Thái, nhưng anh đã trốn khỏi đó và lưu lạc đến Hồng Ngài. Suốt năm suốt tháng, A Phủ chỉ đi làm thuê, sức khỏe thì anh có thừa nhưng vẫn nghèo đói nên không thể lấy vợ. Có thể nói A Phủ là một con người nằm ở tầng lớp thấp nhất trong xã hội miền núi, bị đánh đập tàn nhẫn, bị biến thành đứa ở trừ nợ và bị trói đứng chờ chết... Tất cả những điều này cho thấy số phận đáng thương của những người lao động nghèo miền núi cao.

A Phủ là một con người đẹp của núi rừng với sức khỏe như trâu, chạy nhanh như ngựa và trở thành giấc mơ của nhiều cô gái. Tuy nhiên, A Phủ cũng bị mê tín và thần quyền trói buộc. Sau khi bị đánh đập dã man trong suốt một ngày đêm, A Phủ lê gối đi làm thịt lợn, làm cỗ chuẩn bị cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình. Khi Pá Tra buộc A Phủ đóng cọc và trói mình, A Phủ tuân theo một cách ngoan ngoãn. Anh không bao giờ nghĩ đến việc trốn thoát. Anh không biết nơi nào là an toàn để trốn. Điều đẹp nhất về A Phủ chính là tâm hồn của anh, một tâm hồn tự do, trong sáng, yêu công bằng và tự tin của tuổi trẻ mà cuộc sống nô lệ không thể tiêu diệt. Chính cái sức sống ấy sẽ đưa A Phủ đi theo con đường cách mạng sau này.

Trên đây đã nói qua nghệ thuật miêu tả quá trình tâm lí của nhân vật Mị. Đó là thành công tiêu biểu nhất của nhà văn. Tô Hoài cũng là cây bút sành tả cảnh. Cảnh vật của ông sống động, có hồn và đầy khêu gợi, góp phần biểu hiện đắc lực cho nhân vật. Chẳng hạn đoạn miêu tả mùa xuân: "Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội.

Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Ngôn ngữ tả màu sắc rất phong phú, độc đáo, không thấy có trong từ điển. Nhưng cái chính, nó gợi lên một không khí sống động, đổi thay từng lúc, làm nên cho sự trỗi dậy của tâm hồn Mị về sau.

Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Ngôn ngữ tả màu sắc rất phong phú, độc đáo, không thấy có trong từ điển. Nhưng cái chính, nó gợi lên một không khí sống động, đổi thay từng lúc, làm nên cho sự trỗi dậy của tâm hồn Mị về sau. Đặc biệt ông sành dùng ngôn ngữ nửa trực tiếp. Lời của tác giả mà như nói lên gan ruột, vô thức của nhân vật, đã vẻ lên đủ loại cung bậc trong tình cảm Mị: lúc tự tin, lúc ai oán, lúc dằn dỗi, uất ức, lúc cả quyết..., chẳng hạn: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...". Lời văn như lời trầm ngâm, thổn thức của nhân vật.

Các chi tiết được lựa chọn rất công phu, chúng được miêu tả như khêu gợi, đan cài, cái này gợi ra cái kia, một cách tự nhiên. Đáng chú ý là chi tiết tiếng sáo và chi tiết bếp lửa. Chúng vừa tạo không khí, vừa khêu gợi vào tâm tư nhân vật, vừa miêu tả môi trường. Chi tiết của Vợ chồng A Phủ giàu chất tạo hình của điện ảnh và giàu chất thơ. Đây đúng là một tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu văn xuôi của văn học cách mạng.

Mẫu 2:

Tô Hoài là một nhà văn nổi tiếng với cái nhìn hiện thực tinh tế về cuộc sống hàng ngày và khả năng sử dụng ngôn từ tinh vi, nhạy bén. Ông cũng là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc và đầy mới mẻ. Điều này được thể hiện rõ qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ", nằm trong tập "Truyện Tây Bắc" của ông.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người, được biểu hiện qua lòng thương người, sự cảm thông và sự bênh vực con người. Mỗi tác phẩm đều mang trong mình giá trị hiện thực và nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh không giống nhau. Trong truyện "Vợ chồng A Phủ", giá trị nhân đạo được thể hiện đầu tiên ở khía cạnh tố cáo những thế lực phong kiến miền núi độc ác, lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để bóc lột những người tốt bụng. Đặc biệt, điểm xuất phát của giá trị nhân đạo nằm trong nhân vật Mị, người bị trói buộc bởi nợ nần từ thời ba mẹ cô.

Về phía A Phủ, khoản nợ chỉ là 100 đồng bạc trắng. Những khoản nợ ấy đã trói buộc cả hai con người đáng thương vào cuộc sống đau khổ. Một ngày nọ, Mị không còn ý thức phản kháng nữa vì đã quen với khổ đau sau bao ngày sống trong cảnh khốn khổ. "Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa... ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi... Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế." Tuy nhiên, đến một ngày kia, Mị tỉnh dậy và muốn đi chơi. Cô quấn tóc lại và lấy cái váy hoa vắt trong vách. A Sử nhìn thấy, hắn nắm Mị lại và dùng thắt lưng trói cả hai tay của cô.

Hắn xách một thúng sợi đay và trói Mị vào cột nhà. Mị đau đớn và tràn đầy trong lòng nỗi nhớ nhung về những ngày đã qua. Còn A Phủ bị đẩy vào bước đường ở nợ, "đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn tinh thần con người, mỗi ngày, mỗi ngày."

Tô Hoài đã thể hiện giá trị nhân đạo bằng cách cảm thông với những số phận đáng thương như Mị và A Phủ. Nỗi thương xót của ông không được diễn đạt bằng lời, mà được tái hiện qua những tiếng khóc nức nở của các nhân vật. Mị luôn được miêu tả "cúi mặt, mặt buồn rười rượi," cuộc sống của cô dường như chỉ xoay quanh việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi làm nương, bẻ bắp. Dù khi đi hái củi, hái ngô hay làm bất cứ công việc gì, cô luôn mang theo một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, ý thức của cô trôi qua như những dòng nước mắt. "Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng". Mị sợ, Mị cựa quậy, tự hỏi liệu mình còn sống hay đã chết đi.

Sợ chết là tín hiệu cho thấy Mị vẫn còn muốn sống, ý thức khao khát ấy như một tia sáng le lói làm độc giả xúc động cho một số phận đau khổ. Trong trường hợp của A Phủ, đó là sự thương cảm với chàng trai đã chịu đựng khổ đau từ thuở nhỏ. Hồi nhỏ, “có người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng”. Khi đến Hồng Ngài, A Phủ cũng không thể có vợ, chỉ vì anh không có cha mẹ, không có ruộng đất, không có tiền bạc. Vận đen vẫn tiếp tục theo đuổi A Phủ, dẫn đến việc anh bị bắt nộp vạ một trăm đồng bạc trắng, và phải làm công việc trừ nợ cho thống lí Pá Tra. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài sẽ ôm ấp Mị và A Phủ, giúp những người tốt thoát khỏi cuộc sống đau khổ.

Cuối cùng, tác giả thể hiện lòng trân trọng và đồng cảm với khao khát tự do và hạnh phúc của Mị và A Phủ. Sự trân trọng này trước hết được thể hiện qua ý chí phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Năng lượng ấy trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân. "Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...". Mùa xuân năm ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, dấu hiệu cho sự thức tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy trỗi dậy khi Mị nghe thấy tiếng sáo vang lên ngoài đầu núi.

Âm điệu của tiếng sáo chạm vào trái tim Mị, đánh thức những kỷ niệm xuân xanh tươi trong quá khứ. Tiếng sáo thiết tha vọng mãi trong lòng Mị. Tiếng sáo đó khiến Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát, say rồi Mị lịm mặt ngồi đó quan sát những người nhảy múa, hát ca, trong khi lòng Mị đang sống trong quá khứ. Niềm vui đó khiến Mị nhận thức được rằng "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Sức sống mãnh liệt còn mạnh mẽ hơn khi Mị đưa ra quyết định: Rời bỏ ngôi nhà để theo đuổi niềm vui. Mị tự thay đổi bản thân mà không quan tâm đến sự phản ứng của A Sử, Mị thản nhiên hành động, nhưng tiếc thay, sự tàn ác và độc đoán của tầng lớp thống trị đã dập tắt ngọn lửa sự sống mãnh liệt đó của Mị.

Sức sống tiềm tàng sâu thẳm trong Mị lại trỗi dậy lần nữa ở khoảnh khắc cởi trói giải thoát cho A Phủ trong đêm. Khi Mị nhìn thấy "hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Mị chợ nhớ lại đêm năm trước khi A Sử trói Mị, khi Mị cũng chịu bị trói đứng như vậy. Mị cảm thấy đau đớn cho cuộc đời mình và cắt dây trói cho A Phủ. Sau đó, Mị bừng tỉnh lại và chạy thoát ra ngoài theo A Phủ. Hai người lặng lẽ dẫn nhau chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là những bước chân phản kháng, đi tìm kiếm hạnh phúc, thoát khỏi bóng tối và bước vào cuộc sống mới. Những bước chân ấy là bước chân đồng cảm với khao khát tìm kiếm hạnh phúc và nó in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm.

Ngoài giá trị nhân văn sâu sắc, tác phẩm còn mang đậm giá trị nghệ thuật, khắc họa một cách chân thực những đặc điểm riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn của con người dân tộc bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đậm chất dân tộc, vừa giàu sắc thái hình ảnh vừa tràn đầy hơi thở thi ca. Có thể khẳng định rằng tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc khi lên án các thế lực ác độc, đồng thời truyền đạt thông điệp thông cảm, tôn trọng và đồng tình với khao khát tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

-/-

Trên đây là bài văn mẫu bàn về Giá trị nhân văn của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Thông qua những chia sẻ trên đây, hy vọng sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, qua đó có thể tự mình viết những bài văn hay và sâu sắc hơn. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 12

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM