Đọc hiểu Một bữa no của Nam Cao (tự luận và trắc nghiệm)

Xuất bản: 04/04/2024 - Cập nhật: 05/04/2024 - Tác giả:

Đọc hiểu Một bữa no của Nam Cao (tự luận và trắc nghiệm) có đáp án đầy đủ giúp các em ghi nhỡ những câu hỏi xoay quanh văn bản này một cách tốt hơn.

"Một bữa no" là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao. Bằng tác phẩm này, Nam Cao đã phơi bày sự cảm thông sâu sắc đối với những thân phận khốn khổ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một bức tranh chân thực vẽ nên nỗi khổ cùng cực của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến bấy giờ. Dưới đây là tổng hợp các câu hỏi đọc hiểu nhằm giúp các em hiểu rõ hơn nội dung chính của tác phẩm.

Đọc hiểu Một bữa no của Nam Cao - đề số 1

Đọc đoạn trích:

Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ đưọc một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi. Con vợ nó không phải giống người. Nó có biết thương mẹ già đâu!

Chồng chết vừa mới xong tang, nó đã vội vàng đi lấy chồng ngay, nó đem đứa con gái lên năm giả lại bà. Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu, mà nào được trông mong gì?

Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.

(Trích Một bữa no, Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại,1943)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích? Ngôi kể của văn bản?

Câu 2: Nhân vật chính trong văn bản là ai?

Câu 3. Trong đoạn trích, hoàn cảnh của bà lão được miêu tả qua những chi tiết nào?

Câu 4. Nêu tâm trạng của bà lão khi mà ông trời “còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh” trong đoạn trích.

Câu 5. Anh/chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam Cao.

Câu 6: Cảm nhận của em về bà lão trng văn bản.

Trả lời:

Câu 1:

Các phương thức biểu đạt sử dụng trong đoạn trích: tự sự, miêu tả & biểu cảm.

Ngôi kể thứ 3

Câu 2:

Nhân vật chính trong văn bản là bà lão

Câu 3: Hoàn cảnh của bà lão được miêu tả qua những chi tiết:

+ Chồng chết khi con bà lọt lòng, thắt lưng buộc bụng nuôi con nhưng con chết trước mình.

+ Phải nuôi đứa cháu của con trai mình với người vợ vô ơn một mình.

+ Không trông cậy được gì con cháu, một thân một mình già nua nuôi cháu gái.

Câu 4 : Tâm trạng của bà lão khi ông trời “còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh” trong đoạn trích:

"Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ" . Nỗi lo lắng, sợ hãi cứ bủa vây trong tâm trí bà

Câu 5:

Có thể nói rằng nhà Văn Nam cao là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật . Nam Cao có những phát hiện tinh tế, những miêu tả và nhận xét xác đáng mặc dù chỉ qua những chi tiết rất nhỏ. Ngòi bút của Nam Cao đã đi sâu vào những ngõ ngách sâu kín của tâm hồn, của những diễn biến tâm lí phức tạp.

Câu 6:

Có thể thấy rằng trong tp" Một Bữa No", Nam Cao đã xây dựng nhân vật người bà luôn gặp những vận rủi trong cuộc sống. Đó là kiếp sống khốn khổ, đắm chìm trong ự tăm tối. Bà sớm góa bụa, một mình gà mái nuôi con nhưng niềm ni vọng duy nhất ấy cũng sớm vụt tắt. Đứa con mà bấy lâu bà chăm lo cũng vội vàng bỏ lại bà mà ra đi. Tưởng như sự đau khổ chỉ dừng tới thế nhưng dường như định mệnh vẫn không buông tha cho bà. Cuộc sống của người đàn bà ấy khốn khổ vô cùng. Qua đó ta thấy được sự xót xa, thương cảm của nhà văn Nam Cao và chính độc giả về kiếp người ấy.

Đọc hiểu Một bữa no của Nam Cao - đề số 2

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi:

“Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi...”

(Trích Một bữa no, Nam Cao, “Tuyển tập Nam Cao tập I”, NXB Văn học 1993)

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của trích đoạn nêu trên là gì?

Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn trích?

Câu 3: Em hãy tìm một trường từ vựng có trong đoạn trích nêu trên. Hãy đặt tên cho trường từ vựng mà em đã tìm được?

Câu 4:

Kể tên một văn bản em đã học trong chương trình Ngữ văn 8 nói về số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8; cho biết tên tác giả, năm sáng tác và thể loại của văn bản em vừa kể tên?

Câu 5: Từ nội dung đoạn trích trên kết hợp với sự hiểu biết của em về một số văn bản đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 8, em hãy nêu suy nghĩ của mình về số phận người nông dân trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 (trình bày thành một đoạn văn từ 5 đến 7 câu).

Trả lời:

Câu 1

Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là tự sự

Câu 2

Đoạn trích miêu tả sự đói khổ đến không còn miếng ăn của nhân vật bà lão, từ hết tiền đến phải đi ăn xin, phải đem con ra hờ, phải khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Qua đó thể hiện nỗi xót xa trước tình cảnh khốn cùng, quẫn bách của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 3

Trường từ vựng về thời gian: ba tháng, mỗi sáng, mấy hôm nay, suốt đêm, gần sáng

Câu 4

Đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" trích trong tác phẩm"Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, sáng tác năm 1937 thuộc thể loại truyện ngắn.

Câu 5

Người nông dân trong xã hội xưa là thành phần đông đảo và chiếm số lượng lớn của dân số nước nhà. Tuy vậy họ lại không được coi trọng và bị đối xử rất bất công. . Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng, những ghẻ mạt của bọn quan lại. Họ không có ruộng đất, tài sản, phải nương tựa vào quan lại. Nhưng lại bị đối xử bất công. Vì vậy cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy nhiên, sống trong xã hội thối nát thì họ vẫn có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Xã hội có thể tha hóa họ về con người nhưng phẩm chất thì không. Họ luôn tồn tại sức sống tiềm tàng, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

Đọc hiểu Một bữa no của Nam Cao - đề số 3

Câu 1: Truyện ngắn “Một bữa no” viết về đề tài gì?

A. Người nông dân.

B. Người trí thức.

C. Người phụ nữ.

D. Cái đói.

=> Câu trả lời: D

Câu 2: Nhân vật bà cụ trong truyện rơi vào tình cảnh như thế nào?

A. Chồng con chết, sống một mình cô đơn.

B. Nghèo, cô đơn sống một mình.

C. Nghèo, chồng chết, đứa con duy nhất cũng chết, phải một mình nuôi đứa cháu gái, cuối cùng cũng bán đứa cháu duy nhất cho bà phó Thụ mà vẫn không hết nghèo, số phận khổ đau khiến bà gạt đi cả lòng tự trọng để chết bằng “một bữa no”

D. Cái chết đau đớn, vật vã – chết no

=> Câu trả lời: C

Câu 3: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

A. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão

B. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão

C. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão

D. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

=> Câu trả lời : C

Câu 4: Từ “hờ” trong câu Bà lão ấy hờ con suốt một đêm nghĩa là gì?

A. Giả vờ với con

B. Nhớ thương con

C. Oán giận con

D. Khóc và kể lể bằng giọng thảm thiết (thường là khóc người chết)

=> Câu trả lời: D

Câu 5: No dồn đói góp được nhắc tới trong câu chuyện là

A. Tục ngữ

B. Thành ngữ

C. Ca dao

D. Danh ngôn

=> Câu trả lời: B

Câu 6: No dồn đói góp nghĩa là gì?

A. Tình trạng ăn uống, tiêu pha không có chừng mực hoặc thất thường, lúc thì quá đầy đủ, thừa thãi, lúc lại thiếu thốn mọi thứ

B. Dồn những bữa no, bữa đói lại

C. Thiếu thốn nhiều

D. Ham ăn, ham uống

=> Câu trả lời: A

Câu 7: Qua nhân vật bà lão trong câu chuyện, Nam Cao muốn phản ánh điều gì về người nông dân?

A. Người nông dân vốn là những người nghèo nhưng hay sĩ diện

B. Đời sống khổ sở của người nông dân, phải nhịn đói cho qua ngày rồi chết trong một bữa no

C. Người nông dân vốn là những người lương thiện, nhưng sự hà khắc của chế độ phong kiến cùng với sự bóc lột của bọn thực dân đã đẩy họ vào con đường tha hóa, bần tiện

D. Người nông dân sống cuộc đời nghèo khổ cuối cùng được sung sướng cho dù chết vì no.

=> Câu trả lời: C

Câu 8: Giọng văn của Nam Cao được thể hiện trong câu chuyện:

A. Chua xót, mỉa mai

B. Hả hê, sung sướng

C. Giễu cợt, trào phúng

D. Ngậm ngùi, xót thương

=> Câu trả lời: A

Câu 9: Văn Nam Cao có một đặc điểm nổi bật về mặt nghệ thuật đó là ông thường sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp (sự kết hợp giữa ngôn ngữ tác giả, người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật) nhằm bộc lộ thế giới nội tâm, ý thức của nhân vật, cho phép người đọc thâm nhập sâu vào ý nghĩ thầm kín của nhân vật. Em hãy tìm những câu văn theo hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp trong tác phẩm “Một bữa no” và cho biết tác dụng của hình thức ngôn ngữ ấy.

Trả lời:

Câu văn theo hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp là lời của người kể chuyện với lời lẽ ý nghĩ, ngữ điệu của nhân vật nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật.

Trong câu chuyện "Một bữa no", nhà văn Nam Cao cũng sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp như thế, bao gồm:

- Theo lệ, mỗi người chỉ được ăn có ba vực cơm, mà phải ăn nhanh để còn làm. Nhưng bà lão nhà nghèo, đã quen sống vô tổ chức, sẽ không hiểu trong những nhà thừa thóc, thừa tiền, lại có sự hạn chế miệng ăn như vậy. Bà đoán họ khảnh ăn. No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật…

- Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt thật! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thỏa thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!...

Tác dụng

- Diễn tả được đời sống nội tâm của nhân vật bà lão

- Thể hiện quan niệm, cách nhìn nhận đánh giá của nhà văn Nam Cao

Câu 10: Đặt địa vị em là cái Đĩ – đứa cháu gái duy nhất của bà lão trong câu chuyện, em nghĩ như thế nào về người bà của mình? Viết đoạn văn (khoảng 2/3 trang giấy) bày tỏ suy nghĩ đó của em.

Trả lời:

- Đồng tình, thương hại vì dù sao bà cũng là bà nội, là người bà duy nhất đang khốn khổ lâm vào bước đường cùng,…

- Không đồng tình vì bà làm mất thể diện, làm bà phó Thụ sẽ ghét mình hơn…

Đọc hiểu văn bản Một bữa no - Đề số 4

Học sinh đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

MỘT BỮA NO

Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con. Làm như chính tự con bà nên bây giờ bà phải đói. Mà cũng đúng như thế thật. Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, ti tỉ giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi.

[...]

Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi. Còn hai đồng bà dùng làm vốn đi buôn, kiếm mỗi ngày dăm ba xu lãi nuôi thân. Có chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa, thì mới kiếm nổi mỗi ngày mấy đồng xu. Sung sướng gì đâu! Ấy thế mà ông trời ông ấy cũng chưa chịu để yên. Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực. Chân tay bà đã bắt đầu run rẩy. Người bà thỉnh thoảng tự nhiên bủn rủn. Đang ngồi mà đứng lên, hai mắt cũng hoa ra. Đêm nằm, xương cốt đau như giần. Đi đã thấy mỏi chân. Như vậy thì còn buôn bán làm sao được? Nghĩ đến nắng gió bà đã sợ.

[…] Hơn ba tháng, bà lão chỉ ăn toàn bánh đúc. Mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không có nữa. Tiền hết cả. Mỗi sáng, bà ra chợ xin người này một miếng, người kia một miếng. Ai lấy đâu mà ngày nào cũng cho như vậy? Lòng thương cũng có hạn. Mấy hôm nay bà nhịn đói. Bởi thế bà lại đem con ra hờ. Bà hờ thê thảm lắm. Bà hờ suốt đêm. Bà khóc đến gần mòn hết ra thành nước mắt. Đến gần sáng, bà không còn sức mà khóc nữa. Bà nằm ẹp bụng xuống chiếu, nghĩ ngợi. Có người nói: những lúc đói, trí người ta sáng suốt. Có lẽ đúng như thế thật. Bởi vì bà lão bỗng tìm ra một kế. Bà ra đi.

Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghi. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay.

[...] Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hằm hằm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:

- Mời bà phó...

Nhưng bà vừa mới hả mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:

- Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!

Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quả. Mọi người đều lặng lẽ, cắm củi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:

- Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!

Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy.

[…]Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì.

Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:

- Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?

- Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?

Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm.

Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!

Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.

Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:

- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào! ...

(Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)

Câu 1: Chỉ ra nhân vật trung tâm trong truyện?

A. Bà cụ.

B. Cái đĩ.

C. Bà phó Thụ.

D. Bà cụ, bà phó Thụ, cái đĩ.

>> Đáp án A.

Câu 2: Tình cảnh nào khiến bà cụ phải đi ăn chực?

A. Bà cụ sống một mình không ai giúp đỡ.

B. Bà cụ già yếu không có sức để đi làm kiếm tiền.

C. Bà cụ nghèo khổ không có tiền để mua cái ăn.

D. Bà cụ đã nhịn đói nhiều ngày.

>> Đáp án D.

Câu 3: Có mấy từ láy trong các câu văn sau: “Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”?

A. 1 từ láy.

B. 2 từ láy.

C. 3 từ láy.

D. 4 từ láy.

>> Đáp án C.

Câu 4: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Điểm nhìn được đặt vào nhân vật nào?

A. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão.

B. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn được đặt vào nhân vật bà lão.

C. Ngôi kể thứ ba, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

D. Ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn có sự kết hợp giữa người kể chuyện và nhân vật bà lão.

>> Đáp án C.

Câu 5: Hai câu văn “ Rồi bà thổ. Rồi bà tả” thuộc kiểu câu gì về cấu tạo ngữ pháp?

A. Câu ghép.

B. Câu đơn.

C. Câu đơn đặc biệt.

D. Điệp câu.

>> Đáp án C.

Câu 6 : Thái độ của bà phó Thụ trong tác phẩm với bà cụ thể hiện rõ nhất điều gì?

A. Sự khó chịu, khinh thường bà cụ

B. Sự ích kỷ, vô tình của người giàu

C. Tình trạng thê thảm của người nông dân nghèo

D. Sự tiếc của, thù hằn của bà phó Thụ

>> Đáp án C.

Câu 7: Qua câu chuyện, Nam Cao phán ánh điều gì ở người nông dân?

A. Điều quan trọng nhất đối với người nông dân là được ăn no.

B. Người nông dân nghèo nên không cần sĩ diện.

C. Người nông dân bị tha hóa, đánh mất sĩ diện do hoàn cảnh đói khổ.

D. Cuộc sống bế tắc của người nông dân, đói cũng chết, no cũng chết.

>> Đáp án C.

Câu 8: Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói của bà phó Thụ ở cuối truyện ?

Trả lời:

- Câu nói của bà mỉa mai, đay đả và coi thường người nghèo.

- Qua đó cho thấy suy nghĩ của NC: xót thương, đau đớn cho người nghèo khổ.

Câu 9: Tác giả thể hiện tình cảm gì dành cho nhân vật bà cụ trong tác phẩm?

Trả lời:

- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho bà cụ vì đói khát mà trở nên khốn khổ.

- Nhà văn xót thương, đồng cảm, đau đớn cho nỗi khổ của người lao động trong xã hội cũ.

Câu 10: Theo em nhân vật bà lão trong truyện đáng thương hay đáng trách? Vì sao?

Trả lời:

HS có thể trả lời

- Đáng trách:

Vì miếng ăn mà đánh mất đi tự trọng, sĩ diện.

- Đáng thương :

Cuộc đời khốn khổ, bị cái đói đẩy đến bước đường cùng; chết đau đớn vì miếng ăn.

- Vừa đáng thương vừa đáng trách: kết hợp cả 2 cách lí giải trên.

Trên đây là một số câu hỏi có thể xuất hiện trong nội dung đề đọc hiểu Một bữa no có đáp án. Hi vọng dựa vào đây, các em sẽ tự tin trả lời đúng các câu hỏi trong kì thi sắp tới. Chúc các em ôn tập thật tốt!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM