Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ

Xuất bản: 07/03/2019 - Cập nhật: 11/06/2020 - Tác giả:

Hướng dẫn lập dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Tây Tiến liên hệ với thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử).

Tài liệu hướng dẫn lập dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ, gợi ý cách làm, phân tích đề, mẫu dàn ý tham khảo kèm bài văn mẫu so sánh vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến Đây thôn Vĩ Dạ.

Hướng dẫn lập dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ

1. Phân tích đề

- Kiểu bài: dạng bài so sánh hai đoạn trích tác phẩm có định hướng.

- Vấn đề nghị luận: vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến Đây thôn Vĩ Dạ

- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu: các căn cứ, hình ảnh, chi tiết,... thuộc phạm vi hai đoạn thơ đã cho trong bài Tây Tiến (khổ 6) Đây thôn Vĩ Dạ (khổ 2).

2. Xác lập luận điểm

- Luận điểm 1: Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng, trữ tình trong Tây Tiến.

- Luận điểm 2: Cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng trong Đây thôn Vĩ Dạ.

- Luận điểm 3: Nhận xét nét tương đồng và khác biệt vẻ đẹp thiên nhiên trong 2 bài thơ.

3. Chi tiết dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ

a) Mở bài

- Giới thiệu hai tác giả:

+ Quang Dũng (1921 – 1988), tên thật là Bùi Đình Diệm, quê ở huyện Đan Phượng nay thuộc Hà Nội, là một người tài hoa và đa tài.

+ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, quê ở Quảng Bình, là một nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới 1932 - 1940.

- Giới thiệu hai bài thơ:

+ Tây Tiến được in trong tập Mây đầu ô và được Quang Dũng sáng tác tại Phù Lưu Chanh năm 1948 khi ông rời binh đoàn Tây Tiến.

+ Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ điên, "một kiệt tác của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại."

- Hai đoạn thơ:

+ Đoạn trích bài thơ Tây Tiến thuộc khổ thơ thứ 6 trong bài thơ.

+ Đoạn trích bải thơ Đây thôn Vĩ Dạ thuộc khổ thứ 2 trong bài thơ.

b) Thân bài

* Luận điểm 1: Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng, trữ tình trong Tây Tiến.

- Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều sương ấy” - khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu thành nỗi niềm thương nhớ trong tâm trí nhà thơ.

- Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung linh huyễn hoặc: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và “hoa đong đưa”.

- Cảnh vật hiện lên: dù rất mong manh mơ hồ nhưng lại giàu sức gợi, rất thơ, rất thi sĩ, đậm chất lãng mạn của người lính Hà Thành: "Có thấy hồn lau nẻo bến bờ / Có nhớ dáng người trên độc mộc".

- Câu hỏi tu từ: “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỉ niệm của một thời đã xa.

- Nhân hóa: hình ảnh cây lau tưởng chừng như vô tri vô giác cũng mang hồn. Cách nhân hóa có thần đã khiến cho thiên nhiên trở nên đa tình và lãng mạn hơn.

- Hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của nhà thơ. Dáng ngồi “độc mộc” tạo nên hai cách hiểu: đó là vẻ đẹp riêng của con người Tây Bắc hay cũng là tư thế của những chiến sĩ Tây Tiến đang phải đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo.

- "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa": Hình ảnh đắt nhất: đóa hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây.

  • Hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lí khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ.
  • Bằng bút pháp lãng mạn và biện pháp nhân hóa, tác giả đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông.
  • Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hóa thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã quyện hòa với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ về đồng đội và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm hồn một người chiến sĩ thiết tha với Tây Tiến, với quê hương.

* Luận điểm 2: Cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng trong Đây thôn Vĩ Dạ.

- Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi “nắng mới lên”…

- Ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ về miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật đầy thương nhớ và lưu luyến. Có gió nhưng “gió theo lối gió”, cũng có mây nhưng “mây đường mây”, mây gió đôi đường đôi ngả: "Gió theo lối gió mây đường mây".

- Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một không gian gió, mây chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh.

- Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi nên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông.

- Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã biến thành “dòng nước buồn thiu” càng gợi thêm sự mơ hồ, xa vắng.

- Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.

- Hai câu thơ tiếp theo: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay?"

  • Chữ “đó” cuối câu 3 bắt vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “có chở trăng về kịp tối nay?”
  • “Thuyền ai” phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi.
  • Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa xuống dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người mà chỉ chở trăng, chở những cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng.
  • Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng: cảnh mộng ảo gợi nên nỗi niềm, tâm trạng cô đơn, mong nhớ đối với cảnh và người xứ Huế.

* Luận điểm 3: Nhận xét nét tương đồng và khác biệt vẻ đẹp thiên nhiên trong 2 bài thơ.

- Tương đồng:

  • Cả hai đoạn thơ đều là sự cảm nhận của cái tôi trữ tình về khung cảnh sông nước quê hương.
  • Chính cái tôi lãng mạn chắp cánh cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo, lung linh.
  • Cả hai đoạn thơ đều cho thấy nét bút tài hoa của hai thi sĩ.

- Khác biệt:

  • Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc tâm trạng chia li, mong nhớ khắc khoải.
  • Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến mang nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền Tây, về kỉ niệm kháng chiến.

- Lí giải sự tương đồng và khác biệt:

  • Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những hồn thơ lãng mạn, tài hoa.
  • Mỗi nhà thơ đều mang một cảm xúc riêng khi đứng trước khung cảnh sông nước.
  • Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng của mỗi nhà thơ và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh thơ của mỗi nhà thơ.

c) Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật hai đoạn thơ: vẻ đẹp tâm hồn của hai nhà thơ ở hai thời cuộc, hai cảnh ngộ khác nhau, kết tinh tài năng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử và Quang Dũng.

>>> Đọc thêm bài văn mẫuCảm nhận về hai đoạn thơ trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ

Trước khi triển khai nội dung dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ trên đây, các em có thể tham khảo bài văn mẫu sau để mở rộng vốn từ ngữ, rút kinh nghiệm về cách trình bày cho bài viết của mình.

Bài văn mẫu tham khảo cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ

Mẫu 1:

Những bài thơ xuất sắc của văn học Việt Nam thường có những câu thơ miêu tả thiên nhiên cảnh vật nhưng qua đó nói lên tâm trạng chủ thể. Tây TiếnĐây thôn Vĩ Dạ chính là hai bài thơ như thế.

Nhà thơ Quang Dũng viết Tây Tiến với dòng hồi tưởng và những tình cảm về đoàn quân Tây Tiến của mình. Ở đó không chỉ vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc mà cả tình cảm của những người lính cũng đều được khắc họa. Nhà thơ đã miêu tả nỗi nhớ về những bóng hình con người trên vùng đất Tây Bắc, đó là dáng người tha thướt, uyển chuyển và đầy dịu dàng trên con thuyền độc mộc. Dáng người ấy liệu có phải là dáng người con gái đã từng e ấp trong điệu múa Viêng Chăn khiến nhà thơ khi về xuôi vẫn ấn tượng mãi không quên. Dáng người ấy cũng được miêu tả trong làn sương mờ ảo, trong cảnh vật nên thơ lãng mạn của một buổi chiều buồn. Thực tại đã không thể quay lại, đó là những hình ảnh mà nhà thơ chỉ có thể lưu giữ trong tâm trí vì vậy những tình cảm và cảnh tượng ấy càng trở nên đặc sắc nhưng cũng rất xa vời.

Với Hàn Mặc Tử, nhà thơ viết về nỗi nhớ và khát khao được về bên người thương của mình. Sống ở Bình Định xa xôi với căn bệnh hiểm nghèo, nhà thơ đã gửi nỗi nhớ thương và tình cảm tha thiết của mình với người con gái xứ Huế qua những giấc mơ và lời tự hỏi. Cảnh vật trong khổ thơ này được miêu tả với một nét buồn cô quạnh, trầm mặc, chia lìa: “Gió theo lối gió mây đường mây / Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Có thể vì người buồn cảnh có vui đâu bao giờ cho nên cảnh vật trong thơ Hàn Mặc Tử cũng bị ngăn cách, xa vời đầy cách trở. Chỉ có nhà thơ với nỗi nhớ bồi hồi, da diết cháy bỏng, khao khát được ngay lập tức về bên người mình thương. Cũng giống như Quang Dũng, nhà thơ Hàn Mặc Tử đang mơ về một giấc mơ xa vời và khó thành sự thực. Những con người ấy chỉ có thể xuất hiện trong giấc mơ ảo ảnh của chàng trai mà thôi.

Cả hai khổ thơ trong Tây TiếnĐây thôn Vĩ Dạ đều sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, đều mượn cảnh mà tả tình. Ở Tây Tiến là những hình ảnh thuyền độc mộc, dòng nước, nhành hoa thường thấy trong thơ Đường khi miêu tả sự chảy trôi, buông xuôi theo dòng đời thì ở Đây thôn Vĩ Dạ, đó là hình ảnh gió mây, sông, dòng nước, bóng trăng; cũng là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc ấy nhưng cảnh vật dường như tâm trạng hơn, day dứt hơn. Qua đó, người đọc có thể thấy được tình cảm chân thành của người viết. Hẳn họ phải rất bứt rứt, rất trăn trở trong nỗi cô đơn và tâm trạng khi nhớ về cảnh vật và con người của vùng đất nơi mình từng gắn bó.

Qua hai đoạn thơ, người đọc đều có thể thấy được sự chia cắt giữa hai bờ, hai vùng đất của các chàng trai. Thế nhưng ở họ có một điểm chung đó là tình cảm thủy chung không thay đổi, là tình cảm cháy bỏng và mãnh liệt mà tác giả gửi đến vùng đất và con người nơi xa. Dù là một bài thơ tả cảnh mà đong đầy tình cảm, khiến người đọc rung động trong từng câu chữ. Đây quả là những tác phẩm đặc sắc không chỉ đối với hai tác giả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử mà còn là những dòng thơ xuất sắc để lại cho thơ ca Việt Nam.

Mẫu 2:

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ bạn đọc không chỉ nhờ bút pháp sử thi hào hùng, bi tráng mà còn nhờ cả sự kết hợp khéo léo cảm hứng lãng mạn. Tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn trong thi phẩm chính là đoạn thơ miêu tả thiên nhiên trong chiều sương Châu Mộc. Đoạn thơ bỗng gợi nhớ đến những vần thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử thuở nào.

Chiều sương Châu Mộc hiện lên, chơi vơi giữa một miền tâm thức:

“Người đi Châu mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Lại là một bức tranh với những nét vẽ phác họa giàu tính gợi hình gợi cảm. Chiều sương gợi mở một không gian huyền bí quyến rũ. Đại từ phiếm chỉ “ấy” càng làm cho khoảng thời gian trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký ức của nhà thơ. Hình ảnh “lau” hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là “hồn lau”, dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của nhà thơ. Dáng ngồi “độc mộc” tạo nên hai cách hiểu: đó là vẻ đẹp riêng của con người Tây Bắc hay cũng là tư thế của những chiến sĩ Tây Tiến đang phải đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính từ “đong đưa” gợi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.

Đoạn thơ làm ta nhớ đến bốn câu thơ trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng. Ở khổ thơ, Hàn Mặc Tử nhớ về miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật đầy thương nhớ và lưu luyến. Có gió nhưng “gió theo lối gió”, cũng có mây nhưng “mây đường mây”. Mây gió đôi đường đôi ngả: “Gió theo lối gió mây đường mây”. Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi cho ta một không gian gió, mây chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi nên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã biến thành “dòng nước buồn thiu” càng gợi thêm sự mơ hồ, xa vắng.

Cả hai khổ thơ trong Tây TiếnĐây thôn Vĩ Dạ đều sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, đều mượn cảnh mà tả tình. Nếu ở Tây Tiến là những hình ảnh thuyền độc mộc, dòng nước, nhành hoa thường thấy trong thơ Đường khi miêu tả sự chảy trôi, buông xuôi theo dòng đời thì ở Đây thôn Vĩ Dạ, đó là hình ảnh gió mây, sông, dòng nước, bóng trăng; cũng là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc ấy nhưng cảnh vật dường như tâm trạng hơn, day dứt hơn. Qua đó, người đọc có thể thấy được tình cảm chân thành của người viết. Hẳn họ phải rất bứt rứt, rất trăn trở trong nỗi cô đơn và tâm trạng khi nhớ về cảnh vật và con người của vùng đất nơi mình từng gắn bó. Qua hai đoạn thơ, người đọc đều có thể thấy được sự chia cắt giữa hai bờ, hai vùng đất của các chàng trai. Thế nhưng ở họ có một điểm chung đó là tình cảm thủy chung không thay đổi, là tình cảm cháy bỏng và mãnh liệt mà tác giả gửi đến vùng đất và con người nơi xa. Dù là một bài thơ tả cảnh mà đong đầy tình cảm, khiến người đọc rung động trong từng câu chữ.

Đây quả là những tác phẩm đặc sắc không chỉ đối với hai tác giả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử mà còn là những dòng thơ xuất sắc để lại cho thơ ca Việt Nam.

Hai khổ thơ, dù có những điểm khác biệt, nhưng đều thành công trong việc khắc họa sâu sắc tâm trạng của người nghệ sĩ, góp vào cho nền văn học Việt Nam những tiếng thơ hết sức độc đáo và có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc.

-/-

Trên đây là phần hướng dẫn lập dàn ý chi tiết cho đề văn liên hệ - so sánh cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Tây Tiến (Quang Dũng) và Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử). Tham khảo thêm những bài văn mẫu hay so sánh thiên nhiên Tây TiếnĐây thôn Vĩ Dạ để có được hệ thống luận điểm phong phú cũng như cách hành văn hay nhất cho bài viết của mình. Chúc các bạn đạt điểm cao !

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM