Chứng minh truyện ngắn Hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót thương

Xuất bản: 23/05/2019 - Cập nhật: 30/07/2020 - Tác giả:

Chứng minh truyện ngắn Hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót thương những bài văn mẫu đặc sắc hay nhất giúp các em tham khảo

Đề bài: Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, các em hãy chứng minh rằng đây là một bài thơ trữ tình đầy xót thương.

Văn mẫu chứng minh hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót thương

Bài số 1:

Văn chương là thế giới rộng lớn của tâm hồn. Bạn có thể yêu thơ Xuân Diệu, những vần thơ tình “tình nhất”, cũng có thể bâng khuâng, u buồn trong nỗi nhớ “trời rộng sông dài” cùng Huy Cận... còn tôi, tôi lại yêu văn Thạch Lam, yêu cái chất dịu dàng sâu lắng và đằm thắm ấy. Thạch Lam viết văn như làm thơ và Hai đứa trẻ đã là một bài thơ buồn phố huyện làm rung động hồn người hơn nửa thế kỷ qua.

Thạch Lam tuy là thành viên của Tự lực văn đoàn những tư tưởng nghệ thuật cũng như khuynh hướng thẩm mỹ của ông lại đi theo một hướng khác. Ngòi bút của ông chứa đựng biết bao nhiêu xúc cảm chân thành, những suy tư, trở trăn, ray rứt khi tìm đến với những kiếp người bé nhỏ, tối tăm và lặng lẽ. Thạch Lam đã sống cùng những buồn vui của những con người mà nhà văn hết lòng yêu mến. Những trang viết thắm đượm tình thương yêu đồng loại, còn nóng bỏng biết bao nhiêu nước mắt xót thương đã làm cho Thạch Lam không còn chỉ đơn thuần là cây bút lãng mạn, đã làm cho truyện không còn chỉ là truyện. Truyện đã thành thơ, những bài thơ trữ tình đầy xót xa và thương cảm...

Được trích từ tập Nắng trong vườn, có thể nói Hai đứa trẻ là một trong những sáng tác thành công nhất của Thạch Lam. Giống như bao truyện tâm trạng khác, Hai đứa trẻ là một chuỗi những nghĩ suy nội tâm, là sự phát triển liên tục và sinh động tình cảm của nhân vật trữ tình. Ở đây, tất cả khung cảnh phố huyện, thiên nhiên, con người được hiển hiện qua tâm hồn ngây thơ bé bỏng của Liên, trong những nghĩ suy triền miên dai dẳng của chị và tất cả lại được đặt dưới cái nhìn đầy cảm thương của nhà văn.

... “Khi tiếng trống thu không gọi buổi chiều, phương tây đỏ rực như lửa cháy, tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời...”. Thạch Lam đã mở đầu truyện bằng những câu văn đậm chất thơ như thế! Chiều. Chiều rồi, một buổi chiều “êm ả như ru” có âm thanh, có sắc màu của ánh sáng song sự tồn tại của nó lại không dài lâu. Sự vật đang lụi tàn dần đi nhường chỗ cho bóng tối. Bóng tối đã đong đầy đôi mắt của Liên, đã ngập tràn phố huyện và cái buồn của buổi chiều quê thấm dần vào hồn người đọc. Thiên nhiên trở thành cái nền của bài thơ phổ huyện và cứ thế bỗng chốc, buồn cảnh, buồn tình – những nỗi buồn đan xen và lan tỏa mênh mông. Thạch Lam đã miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống nghèo đói đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra, lặp đi lặp lại hàng ngày của phố huyện bằng tấm lòng trân trọng xót thương. Nghĩa là ngày nào Liên cũng sẽ thấy nỗi buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn, thấy cái vẻ đìu hiu, ảm đạm và thấy cả cái mùi “âm ấm bốc lên”, cái mùi của quê hương. Đọc đến câu văn này, làm sao có thể nén được xót đau. Mùi nghèo đói xác xơ, mùi ẩm, mùi chợ búa thành mùi quê hương...

Đặc biệt Thạch Lam đã dựng lên một nhân vật có sức chi phối, ám ảnh và có tính hiện thực cao. Đó là nhân vật “bóng tối”. Bóng tối ấy bao trùm, vây lấp toàn bộ cuộc sống phố huyện. Nó đè nặng lên những mảnh đời nhỏ bé lay lắt, heo hút. Tất cả mọi sinh hoạt đều diễn ra dưới màn đêm ấy. “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoáng qua gió mát”, đẹp thật, thơ thật mà cũng rất buồn. Thiên nhiên nơi phố huyện không thoát được ra ngoài bóng tối. Bóng tối như một con quái vật nuốt chửng cuộc sống vốn đã thầm lặng vào miền tối tăm.

Những cuộc đời như cuộc đời của chị Tí, vợ chồng bác hát xẩm, bác Siêu, bà cụ Thi điên rồi cả An và Liên nữa là những dấu chấm nhỏ xíu, bỏng rát chìm vào cái nền đen đặc của bóng đêm. Chị Tí ngày đi mò cua bắt ốc, tối về mới dọn cái hàng nước đơn sơ, bác Siêu kẽo kẹt với gánh phở, vợ chồng bác xẩm với tiếng đàn bầu rơi vào quạnh hiu, bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách lẫn trong bóng tối, còn An và Liên cùng gian hàng bé tí tẹo với vài thứ đồ lặt vặt. Ngây ấn con người trông chờ vào một cái gì tươi sáng như cái “tươi sáng” ấy là cái gì? Có phải là một chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện Cẩm Giàng, nằm nghiêng nghiêng bên con đường sắt Hà Nội Oan 7 - Hải Phòng. Nơi đó, một thời Thạch Lam đã sống cùng gia đình. Nhà văn đã thật xót xa khi miêu tả cuộc sống quẩn quanh tù động, ế ẩm và ngao ngán nơi đây. Không phải ngẫu nhiên Thạch Lam lại để cho cái “ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí” trở đi trở lại trong truyện tới bảy lần mà đó là biểu tượng về cuộc đời của những con người nơi đây, leo lét nhỏ bé mong manh như ánh sáng yếu ớt nhờ nhờ từ ngọn đèn ấy.

Trong số những người chờ đợi chuyến tàu đêm, tác giả đã đặc biệt khắc họa An và Liên. Hai chị em tối nào cũng ngồi trên cái chõng tre ngắm nhìn khung cảnh phố huyện và đợi chờ chuyến tàu qua. Những câu văn đậm chất thơ trải dài và dìu dịu nỗi buồn thương. Liên nhìn trời đêm, nhìn vũ trụ bao la và trong đôi mắt dịu dàng, thơ ngây của chị đong đầy bóng tối nhưng cũng đong đầy cả niềm khao khát nữa. An và Liên đợi chờ chuyến tàu như đợi chờ một điều gì thiêng liêng nhất, dù buồn ngủ ríu cả mắt mà vẫn cố thức. Chẳng phải là chua xót lắm sao? Một chuyến tàu đếm ngang qua lại là tất cả những gì mơ ước của trẻ thơ. Bởi lẽ cuộc sống lạc lõng, quấn quanh tù đọng này đã chẳng cho phép người ta mơ tới một điều gì cao hơn. Tất cả, vâng, tất cả là một chuyến tàu đêm mang theo ánh sáng, mang theo tiếng còi vang vọng, vụt đến rồi đi, chuyến tàu làm Liên nhớ về Hà Nội, một Hà Nội xa xăm đầy ánh sáng, một thế giới khác rất xa, rất xa...

Truyện chỉ có thế, như là không có truyện, một thoáng đời nghèo đến xót xa được viết ra bằng những dòng thương cảm, bằng những rung động lặn sâu ở bên trong. Hai đứa trẻ đợi chờ một chuyến tàu đêm đầy ánh sáng, chỉ thế thôi nhưng Thạch Lam đã đấy truyện ngắn Hai đứa trẻ thành một bài thơ trữ tình đầy xót thương.

Có thể em quan tâm: Chứng minh rằng Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn

Bài số 2:

Qua Hai đứa trẻ chứng minh mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết: "Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài". Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn: " Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương".

Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam cũng là "một bài thơ trữ tình đầy xót thương" như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giới nhân vật là những lớp người nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tội nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội.

Nhân vật của Thạch Lam chủ yếu là con người thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời, nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại để xót mình và thương người, để bâng khuâng man mác khi hồi tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhòe đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. "Chiều chiều rồi" như là một lời thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện.

Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thải vớ vẫn "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre...Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tới sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởi, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái... Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạ, héo úa, lụi dần.

Có thể thấy xung đột giữa bóng tối và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tối đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là " bầu trời đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn" sau đó là bóng tối hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuối cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tối mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tối còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tối là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tối chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuối cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trời hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụi ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó.

Tiếng trống thu không rời rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho người đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thời gian của nơi phố nghèo. Người đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.

Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đời, về con người bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhưng dường như chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãn với cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ ...Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tối chị mới mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì "sớm muộn mà có ăn thua gì?" mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh giành với cái đói, cái chết trông chờ vào những người trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những người khách ấy để sống.

Cách chị Tí trả lời câu hỏi của Liên: Không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép miệng trả lời : "Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì". Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con người bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn người, kinh hoàng. Bà là kiếp người đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tối vừa cười khanh khách. Cách xưng hô với Liên "chị" đã kéo xa khoảng cách tình giữa con người với con người vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp người, như một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp người héo hắt - tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏi nhưng đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.

Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái "cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu" mà khách hàng là những người khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ "uống một hơi cạn sạch". Liên xót xa cho những kiếp người lay lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗi hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏi mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua: "đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya".

Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng để rồi vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phải ngơ ngác, bàng hoàng.

Dường như "Hai đứa trẻ" là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồi tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên "nhớ lại" Hà Nội, một kí ức không rõ rệt, Hà Nội là một vừng sáng rực lấp lánh "và" Hà Nội nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng "Hà Nội xa xăm" , "Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo" . Cái cảnh tượng của quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt với cái tối mịt mù dưới gốc bàng của hiện tại đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng của mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồi tất cả lại chìm trong bóng tối mênh mông, buồn tẻ.

Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của người tái hiện. Và nỗi thương cảm của Liên đối với mấy đứa trẻ đi nhặt rác, với chị Tí, với bác Siêu, với cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thương của mình. Đoàn tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt lịm đã thay đổi một chút ít không khí của thế giới hiện tại, phải chăng đó là khát vọng thoát khỏi cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hội Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thời sự văn học buổi ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thời đại mà Nam Cao đã phải từng thốt lên : "Cuộc đời đang cùn đi, gỉ đi, nổi váng lên"...

"Hai đứa trẻ" là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởi cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ.

Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lạI nhiều lần (không dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trời phố huyện cũng như cảnh đời những con người phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật: Hình ảnh bóng tối bao trùm cảnh vật và con người mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thời điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm dọa, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tối nhiều lần dưới những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau : "buổi chiều hòn than sắp tàn", "mặt đen lại", "chiều, chiều rồi" , "bóng tối ngập đầy" , "bước của buổi chiều" , "ngày tàn" . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tối đến với tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tối sắp đến với những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với cánh muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tối trùm lên đường phố và các ngõ huyện...

Nói tóm lại, bóng tối được lặp đi lặp lại đầu và cuối huyện. Bóng tối như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm thầm của mọi sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩm và không gian xã hội của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện "tối đến chị mới dọn cái hàng dưới gốc cây bàng"; về đêm bác phở Siêu mới xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra ... bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và mang đi "một tiếng cười khanh khách nhỏ dần" , một cụ Thi cuộc đời không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗi lòng u uất cứ chìm trong bóng tối; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tối: đêm tối ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya, Liên ngồi yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối...

Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.

Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong "Hai đứa trẻ" , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắc của ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần gũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.

Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lời văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trải dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói " hai đứa tẻ" là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.

Khi nói "mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương" thì người nói muốn nhấn mạnh cả về nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong "Hai đứa trẻ", và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: "Ngày này đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học."

Trên đây là văn mẫu chứng minh hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót thương mà Đọc tài liệu tổng hợp được, các em có thể tham khảo thêm:

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM