Cảm nhận truyện Hai đứa trẻ lớp 11 của nhà văn Thạch Lam để thấy được sự thương xót của tác giả đối với những kiếp người sống cơ cực, bế tắc ở cái phố huyện nghèo được tác giả gửi gắm vào trong từng câu chữ. Đồng thời thể hiện sự trân trọng của ông đối với những mong ước mơ hồ của những con người nhỏ bé đó.
Đề bài
: Viết bài văn cảm nhận về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.Dàn ý cảm nhận về truyện Hai đứa trẻ lớp 11
I. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Thạch Lam: Cây bút tiêu biểu trong Tự lực văn đoàn, môt cây bút xuất sắc ở mảng truyện ngắn.
- Trình bày những cảm nhận khái quát nhất về tác phẩm Hai đứa trẻ: Tác phẩm đem đến niềm xót thương và nỗi buồn man mác trước cuộc sống con người.
II. Thân bài: Nêu cảm nhận về nội dung bài Hai đứa trẻ
1. Cảm nhận về bức tranh phố huyện
a) Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
- Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn được khắc họa với đầy đủ âm thanh, màu sắc…
- Cảnh chợ tàn: Chợ đã vãn, chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi vỏ thị… => Cảnh chợ tàn: sự tàn lụi, sự nghèo đói, tiêu điều của phố huyện nghèo.
b) Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya
- Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối
=> Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.
- Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ -> ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.
- Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau
c) Phố huyện khi đoàn tàu đi qua
- Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu với: “ngọn lửa xanh biếc”, “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.”
- Khi tàu đến: các toa đèn sáng trưng, sang trọng, cửa kính sáng, đem đến một thế giới khác
- Khi tàu đi vào đêm tối: Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, đoàn tàu xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
=> Đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, mang đến phố huyện nghèo một thế giới khác, đó là thế giới mà Liên luôn mong ước.
2. Cảm nhận về con người phố huyện
a) Lúc chiều tàn
- Mấy đứa trẻ con nhà nghèo tìm tòi, nhặt nhanh những thứ còn sót lại ở chợ.
- Mẹ con chị Tí: với cái hàng nước đơn sơ, vắng khách.
- Bà cụ Thi: hơi điên đến mua rượu lúc đêm tối rồi đi lần vào bóng tối.
- Bác Siêu với gánh hàng phở - một thứ quà xa xỉ.
- Gia đình bác xẩm mù sống bằng lời ca tiếng đàn và lòng hảo tâm của khách qua đường.
=> Cuộc sống nghèo khổ lặp đi lặp lại.
b) Khi đêm xuống
- Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:
+ Chị Tí dọn hàng nước
+ Bác Siêu hàng phở thổi lửa.
+ Gia đình bác Xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, cái thau sắt để trước mặt”, “Góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng”
+ Liên, An trông coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu.
-> Cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh, đơn điệu không lối thoát.
=> Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.
3. Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Liên
- Cô bé có tâm hồn nhạy cảm: Tâm trạng của Liên trước thời khắc ngày tàn
- Cô bé có tình yêu quê hương: Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
- Cô bé có tấm lòng trắc ẩn: Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ
- Cô bé giàu ước mơ, mộng tưởng: Mơ về Hà Nội xa xăm và ước mong một điều gì tốt đẹp hơn
=> Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình.
III. Kết bài
- Khẳng định lại những thành công về mặt nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung văn bản
- Tác phẩm gửi gắm nhiều nỗi niềm của Thạch Lam về quê hương xứ sở.
Tham khảo thêm: Bài văn cảm nhận về những kiếp người trong Hai đứa trẻ
Những bài văn mẫu hay cảm nhận về truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
Bài văn mẫu 1
Bài cảm nhận truyện Hai đứa trẻ của học sinh chuyên văn
Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.
Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tàu của chị em Liên và mọi người. Toàn bộ bức tranh là bóng tối, bóng tối lan tỏa, bao trùm lên cảnh vật, tạo nên bầu không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một màu đen xám xịt. Bóng tối ở rặng tre, bóng tối ở góc quán, bóng tối ở ánh sáng lập lòe của đom đóm. Tất cả, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm, đè nặng lại càng trở nên côi cút, lẻ loi đến tội nghiệp. Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng lúc vào đêm. Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách. Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh... Những hình ảnh lẻ loi, đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc, lan tỏa đang dần đè lên cuộc sống của họ - những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay "mấy chú", "mấy người". Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người. Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng, uất ức đến lạ kì. Không gian bị uất nghẹn của kiếp người. Bức tranh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
Nhưng Thạch Lam - người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu... Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.
Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát, không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.
Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ờ tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ - một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.
Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng...) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.
Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn: Văn chương không phải là một cách để thoát li hay lãng quên, mà trái lại, văn chương "phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực", là tiếng kêu thương thoát ra những kiếp lầm than, khổ cực, Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn mãi xúc động đối với người đọc.
Xem thêm: Văn mẫu 11 cảm nhận bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ - Thạch Lam
Bài văn mẫu 2
Bài văn được đánh giá cao cảm nhận truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên cứu văn học Việt Nam, đẩy họ đến tình trạng loay hoay trong “cái rọ” của khái niệm. Dựa vào khái niệm, người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị chia cắt một cách siêu hình thành những dòng, những khuynh hướng khác nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa hiện thực phê phán qui chiếu vào văn học 1930 – 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam… Như bị lừa vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư duy mới” đã gạt bỏ những hướng đi duy lí chủ quan, để tuy chậm, song chưa muộn, mấy năm gần đây Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn chương được khẳng định trở lại.
Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đèn”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.
Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện – có thế được coi như trạm trung chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai lối sống cơ bần của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội.
Dạo quanh bất kỳ một phố huyện nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế… của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ, mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống; bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ. Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhất trong xã hội lúc đó là những người nghèo.
“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều về. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”… Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”… Thật ra, nhịp điệu sống không nhất thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội dù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn, những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”… Dạng huống số nhiều của hành động chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phố huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũng như mọi đêm Liên không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ.
Tác giả đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng len qua phên nứa, ngọn đèn con của chị hàng nước, cái bếp lửa của bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng”. “Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Liên yên tình hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”, “vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới khác. Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng. Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.
Thử đặt một giả định: Phố huyện không có chuyến tàu đi qua hàng đêm, con người sẽ gửi gắm ước mơ khoáng hậu của họ vào đâu? Sẽ là khó trả lời, vì chuyến tàu là sự tương phản cuối cùng, mang ý nghĩa nhất mà Thạch Lam cần biểu đạt. Mọi hình ảnh không gian, thời gian sự vật, con người trong trạng thái chờ đợi mòn mỏi suốt mấy trang giấy chỉ nhằm tới chi tiết cuối cùng: lúc con tàu đi qua. Con tàu hi vọng đồng thời là “thuốc thử” đối với xã hội và kiếp người. Là nhà văn tâm huyết với dân tộc, Thạch Lam nắm bắt được sự ngưng trệ, tù túng của xã hội ông. Ông muốn ánh sáng văn minh chiếu rọi lên đêm đen của dân tộc. Ông không hướng nhân vật của ông tới hành động tự phát của anh Pha, tới sự nhẫn nhục có bản lĩnh của chị Dậu, ông hướng họ tới văn hóa, để vượt thoát khỏi tình trạng ngột ngạt. Truyện ngắn không có bóng dáng một xã trưởng, một thầy lý, một thầy đội nào… nhưng vẫn làm người đọc liên tưởng tới nguyên nhân nỗi thống khổ của những con người trong truyện.
Ở “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam không lựa chọn lối viết miêu tả sự vật, không đứng ở vị trí người kể chuyện. Bằng các cảm giác, các tâm trạng, ông đưa người đọc vào thế giới nội tâm của nhân vật, qua thế giới nội tâm người đọc liên tưởng, tự hình dung về điều tác giả muốn đặt ra. Bút lực của ông thật vững vàng khi phân tích cảm giác một cách nhẹ nhàng, tinh tế nhưng biểu cảm và sâu sắc. Những câu văn đẹp, mang chất thơ giàu hình ảnh như của Thạch Lam thật hiếm thấy trong văn chương. Không lẫn vào đâu được, cái chợ huyện đã tan lúc chạng vạng: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi, quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”… Phải là người có khả năng quan sát đầy mĩ cảm mới có thể viết được câu văn như: “Qua khe lá của cành hàng ngàn ngôi sao lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vừng sáng nhỏ nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai. Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một”… Trong “Hai đứa trẻ”, những câu văn đẹp mang một hiệu năng đa dạng: Vừa hấp dẫn đầy chất thơ, vừa buồn man mác; vừa xót xa thương cảm, vừa thêm gắn bó với quê hương.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của mọi khoảnh khắc, là một đêm buồn bã giữa những đêm buồn bã, một đêm có “dấu chấm lửng” ở cả hai đầu. Thạch Lam đã lựa chọn đúng cả không gian, thời gian, con người và địa điểm rất chung và rất riêng. Phố huyện, nơi cả đời mong được tới một lần của dân quê xưa có dáng dấp của làng xã, văn minh thành thị có ghé qua với đường tàu hỏa và phố xá có đèn dây sáng xanh, có gánh phở đêm, có phu gạo, phu xe… vẫn là nửa quê nửa tĩnh; Hà Nội vẫn là hình ảnh mơ hồ “không rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”. Có lẽ vì xem nhân vật của mình bé nhỏ, đáng thương mà Thạch Lam dùng “Hai đứa trẻ” để chỉ hai chị em Liên trong khi Liên đã là một cô gái.
Thạch Lam dằn vặt trước cuộc sống, ông dùng văn chương thể hiện mối quan tâm với đồng loại. Thạch Lam day dứt vì nhịp điệu mòn mỏi của cuộc sống đồng bào ông, ông muốn đi tìm một giải pháp. Giải pháp của ông có thể không trùng khớp với yêu cầu của chúng ta hôm nay thì vẫn phải ghi nhận ở ông một tấm tình hòa cảm, bao dung. Dù sao chăng nữa, Thạch Lam vẫn là sản phẩm của thời đại ông, không thể đòi hỏi ở ông những gì ông chưa có hoặc không thể có.
// Hai đứa trẻ là một tác phẩm để lại cho người đọc sự xót xa, ray rứt, và là minh chứng cho một tầng lớp xã hội nghèo nàn nhưng chưa bao giờ ngừng ước mơ. Một bức tranh hiện thực đối lập giữa sự nghèo khổ trong bóng tối và khao khát ánh sáng ngoài kia. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót xa, và để chứng minh cho điều đó các em có thể tham khảo qua bài văn mẫu ở đây để có thể dễ dàng đồng cảm với những số phận hẩm hiu đó nhé.
Bài văn mẫu 3
Cảm nhận bài Hai đứa trẻ lớp 11
Thạch Lam thực sự sáng tác chỉ trong khoảng 6 năm, và mất khi mới 32 tuổi. Tuy vậy, ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên đường hiện đại hoá, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.
Nói đến những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, không thể không kể đến tác phẩm Hai đứa trẻ (rút trong tập Nắng trong vườn, NXB Đời nay, 1938). Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng "êm mát và sâu kín" của Thạch Lam đối với con người và quê hương. Ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm thương xót đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ; vừa bộc lộ tình cảm gắn bó đối với quê hương đất nước.
Hai đứa trẻ có những nét rất tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn Thạch Lam: yếu tố lãng mạn xen lẫn yếu tố hiện thực, truyện mà không có truyện, câu tứ tựa hồ như một bài thơ… Tất cả thể hiện một tâm trạng mơ hồ bâng khuâng của hai chị em Liên và An khắc khoải chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua, trong không khí tẻ nhạt của phố huyện nghèo nàn, vào một buổi tối mùa hè yên ả.
Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết, chúng ta có ấn tượng về cuộc sống tàn tạ, tù túng của những kiếp người lam lũ quẩn quanh, sống không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.
Câu chuyện mở đầu bằng những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều; phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như "hòn than sắp tàn". Thì ra: cái rực rỡ huy hoàng của một ngày đã qua rồi; buổi chiều tà đang đến. Giờ này chợ cũng đã tàn. Cái lòng vui đã mất để lại sự trống vắng hiu quạnh. "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh bất cứ thứ gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại. Tất cả đều gợi nên "cái buồn của buổi chiều quê".
Bên cạnh cảnh ngày tàn là những kiếp người tàn. Hàng nước chị Tí vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm nhưng chả kiếm được là bao nhiêu". Bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng”. "Thằng con bò ra đất (…) nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường". Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ty, "cụ đi lần vào bóng tối". Chị em Liên phải thức để "trông một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, dọn từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc". Hàng bán chẳng ăn thua gì", Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng "không có tiền để cho chúng nó". Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều đêm "được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ", cái ý nghĩ phở bác Siêu là món quà xa xỉ không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế mà, có lẽ dẫu sao, gia đình Liên cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có "một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm…”. Mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mòn mỏi…
Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra "thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê" (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần chi tiết ngọn đèn của chị Tí. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh gây ấn tượng day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là "chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ". Phải chăng hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ lam lũ, sống vật vờ leo lét, trong màn đêm của xã hội cũ?
Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu uể oải. Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí "cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm"; bác phở Siêu nhóm lửa, gia đình bác Xẩm chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục đi gợi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tính tiền hàng rồi cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng và "ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần"…
Như vậy, "chừng ấy người trong bóng tối", ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh tù túng trong cái "ao đời bằng phẳng". Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ tới một số câu trong bài thơ Quẩn quanh của Huy Cận:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người.
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện…
Tuy thế, họ vẫn hi vọng mơ hồ, "mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ. Chính sự mong đợi mơ hồ này tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người, dựng cảnh và ở cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.
Việc phân tích cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn trên đây giúp ta hiểu vì sao Liên và An đêm nào cũng cố thức để chờ chuyến tàu đi qua. Phải chăng hai chị em chờ tàu để bán được hàng? Không Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc lá cùng". Hơn nữa, "Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt", nhưng cô vẫn chưa chịu đi ngủ. Còn "An đã nằm xuống (…) mí mắt sắp sửa rơi xuống", vẫn dặn chị nhớ đánh thức mình dậy, khi tàu đi qua. Hai chị em cố thức chỉ "vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya", vì con tàu đâu chỉ là con tàu. Nó là cả một thế giới khác. "Một thế giới khác hẳn với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu". Đối với chị em Liên, chuyến tàu biểu tượng của sự sống giàu sang, náo nhiệt, đầy ánh sáng. Nó gợi kỉ niệm của cái ngày xưa sung sướng của chị em Liên khi thầy chưa mất việc.
Phố huyện rầm rộ lên chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh khi con tàu đã đi xa. Phố huyện lại trở về phố huyện. Hình ảnh ngọn đèn leo lét của chị Tí lại chập chờn trong tâm trạng vật vờ thức ngủ của Liên trước khi ngập hẳn vào "giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
Hai đứa trẻ đúng là một truyện không có chuyện. Tất cả chỉ là tâm trạng của cô bé tên Liên được diễn tả với một ngòi bút đầy xót thương trân trọng. Đương thời, Thế Lữ cũng đã có nhận xét như thế: "Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn trong lời văn chương phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ, nhưng bây giờ cũng đằm thắm, nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Nếu Thạch Lam theo một chủ ý nào trong công việc viết văn của mình, thì chủ ý ấy diễn ra và gợi lên sự thương xót".
Qua tâm trạng của Liên, phải chăng Thạch Lam còn muốn thức tỉnh những tâm hồn đang chán chường mòn mỏi lòng khao khát thoát khỏi số phận của mình? Ngoài ra, với ngòi bút vô cùng tinh tế, Thạch Lam còn giúp ta hoà nhập tâm hồn mình vào linh hồn của cảnh vật quê hương:
"Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo gió nhẹ đưa vào…". Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng như gió mát…".
"Qua khe lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, rồi hoa rụng xuống vai Liên khe khẽ; thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu…". Toàn những cảnh vật những chi tiết hết sức quen thuộc thường có ở quanh ta. Vậy mà dưới ngòi bút Thạch Lam, chúng trở nên gợi cảm biết bao và ta hiểu rằng, lòng yêu quê hương đất nước của mỗi người Việt Nam chính được bồi đắp bởi những chi tiết hết sức bình dị này đây.
Truyện Thạch Lam có thể gọi chung là truyện ngắn trữ tình. Khác với phần nhiều truyện ngắn ở thời kì này thường lôi cuốn người đọc bởi cốt truyện hấp dẫn, tình tiết mới lạ, (như truyện của Nguyễn Công Hoan chẳng hạn), thì truyện ngắn Thạch Lam lại hấp dẫn người đọc bởi chất thơ trữ tình. Mỗi truyện thường cấu tứ chung quanh một tâm trạng, một suy tưởng âm thầm của nhân vật. "Hai đứa trẻ" chính là một trong những truyện tiêu biểu của Thạch Lam được viết theo phong cách ấy.
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Hai đứa trẻ
----------
Trên đây là bài văn mẫu cảm nhận về truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam mà Đọc tài liệu đã sưu tầm được và muốn gửi đến các em tham khảo. Hy vọng qua tài liệu này đã phần nào giúp các em có thể tự mình viết một bài văn cảm nhận hay và lắng đọng nhất. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 11