Hướng dẫn cách làm và tham khảo TOP 5+ đoạn văn nêu cảm nhận về một chi tiết trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp. Hi vọng bài viết sẽ giúp các em có thêm nguồn tư liệu hữu ích để có thể viết được một đoạn văn hay và sâu sắc.
Dàn ý cảm nhận về một chi tiết trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát tác giả Ngô gia văn phái và văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
- Giới thiệu và nêu cảm nhận chung về chi tiết mà em thấy ấn tượng trong văn bản.
Thân đoạn:
- Phân tích chi tiết:
+ Xác định vị trí, vai trò của chi tiết trong văn bản.
+ Phân tích nội dung, ý nghĩa của chi tiết.
- Nội dung: hình ảnh, âm thanh, màu sắc,...
- Ý nghĩa: biểu hiện nội tâm, tính cách nhân vật, thể hiện chủ đề,...
+ Liên hệ chi tiết đó với những chi tiết khác trong văn bản.
- Nêu cảm nhận của bản thân về chi tiết:
+ Chi tiết gợi lên cảm xúc gì trong lòng người đọc?
+ Chi tiết có tác động gì đến người đọc?
Kết đoạn:
- Khẳng định lại ấn tượng của em về chi tiết đó.
TOP 5 đoạn văn mẫu hay cảm nhận về một chi tiết trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh
Đoạn văn mẫu 1
Trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” hồi thứ 14, hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất của một người anh hùng. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, sâu sắc, nhạy bén, ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng và tài dụng binh như thần, oai phong lẫm liệt trong trận đấu. Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn thể hiện là một con người hành động xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và quả quyết vô cùng. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ làm được nhiều việc lớn. Ông còn là một người có trí tuệ sáng suốt hơn người, trí tuệ ấy được biểu hiện trong việc xét đoán, dùng người, biết phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta-địch. Qua lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, ông đã đánh thức, khơi dậy ý thức độc lập cũng như tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần quật khởi để kích thích mọi người. Khi mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà Quang Trung tuyên bố như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi thắng một nước lớn gấp mười lần nước mình. Điều đó đã thể hiện ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng của một vị vua sáng suốt, một người anh hùngkhông chỉ chiến đấu trên danh nghĩa, chỉ huy một chiến dịch thực sự. Khí thế của nghĩa quân Tây Sơn khiến kẻ thù khiếp vía thốt nên rằng “tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất lên”. Nổi bật trong trận đánh là hình ảnh Quang Trung “cưỡi voi đốc thúc, mặc áo bào đỏ, mặt sạm đen khói súng.” Thật oai phong, lẫm liệt biết nhường nào! Quang Trung - Nguyễn Huệ thật sự là một người anh hùng trí dũng song toàn, sáng ngời hào khí dân tộc.
Đoạn văn mẫu 2
Trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh, tôi thấy rất ấn tượng với chi tiết miêu tả cuộc chạy trốn của vua tôi Lê Chiếu Thống. Khi nghe tin quân Thanh đại bại, vua Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi đã tìm cách chạy trốn - đây là hành động thông thường của một kẻ bán nước. Tác giả miêu tả: “Vua Lê ở trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc”. Đường đường là vua của một đất nước, nhưng giờ đây, vua Lê lại phải chạy trốn, thậm chí còn phải cướp thuyền của ngư dân để chạy trốn, dường như đã mất hết tôn nghiêm, quyền lực. Tình cảnh của vua Lê càng lúc càng thảm hại: “vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử”, sau phải nương nhờ một người thổ hào, cúi mình xin giúp đỡ. Ở đoạn này, t ác giả đã miêu tả khá dài với âm hưởng âm hưởng chậm rãi, nhẹ nhàng hơn nhằm thể hiện sự chua xót, ngậm ngùi. Qua đó, tác giả muốn thể hiện tấm lòng tôn kính với một vương triều mình từng phụng thờ.
Đoạn văn mẫu 3
Mờ sáng ngày mùng 5 Tết, quân ta đánh đồn Ngọc Hồi - Thanh Trì - Hà Nội. Đây là đồn quan trọng nhất của địch với hàng vạn quân tinh nhuệ đóng giữ. Đồn lũy được xây đắp kiên cố, xung quanh đều cắm chông sắt và chôn địa lôi dày đặc. Vua Quang Trung thấy thế, truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khoẻ mạnh, cứ mười người khiêng một bức, lưng giắt đao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ "nhất". Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh liền dùng ống phun khói lửa, tỏa khói mù trời, cách gang tấc không thấy gì hòng làm quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát sau đó, trời chuyến gió, kẻ địch thành ra tự đốt mình. Vua Quang Trung liền gấp rút sai dội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh không chống đỡ nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, thây ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Trước đó nhà vua Tây Sơn đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc đó, quân Thanh lại càng sợ tìm lối tắt đế trốn. Chợt lại thấy voi từ Đại Áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống Đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết hàng vạn người.
Đoạn văn mẫu 4
Khi đọc Quang Trung đại phá quân Thanh, tôi cảm thấy ấn tượng với chi tiết vua Quang Trung nhận định về tình hình địch và ta qua lời phủ dụ lúc lên đường ở Nghệ An. Nhà vua đã chỉ rõ “đất nào sao ấy” để cho thấy việc sang xâm lược của kẻ thù là sai trái: “người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Tội ác của kẻ thù cũng được chỉ rõ: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Những tấm gương được đưa ra để khích lệ tinh thần binh sĩ như Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành. Ông còn đánh vào ý thức của mỗi binh sĩ: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”. Điều này cho thấy sự nghiêm khắc nhưng cũng rất thấu hiểu của vị vua này. Qua đây, chúng ta có thể thấy vua Quang Trung có hành động mạnh mẽ, quyết liệt và thấu hiểu lòng người.
Đoạn văn mẫu 5
Trong đoạn trích mà Quang Trung đại phá quân Thanh, em ấn tượng với sự miêu tả của việc vua Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi phải chạy trốn. Khi nghe tin quân Thanh thất bại, vua Lê Chiêu Thống cùng đám tôi đã tìm mọi cách để thoát khỏi tình thế bất lợi. Điều này thể hiện hành động thông thường của một kẻ bán nước. Em cảm nhận được sự thất vọng, sự lo lắng, và cả sự trăn trở của vua Lê trong từng câu miêu tả. Vị vua của một triều đình đã phải cướp thuyền của ngư dân để cứu mình, điều này cho thấy sự mất mát về tôn nghiêm và quyền uy của ông. Tác giả đã tạo ra một khung cảnh dày đặc cảm xúc, với những âm hưởng chậm rãi, nhẹ nhàng. Điều này nhấn mạnh sự chua xót, tiếc nuối trong tình huống khó khăn của vua Lê.
-/-
Trên đây là một gợi ý về cách viết đoạn văn ghi lại cảm nhận về một chi tiết trong văn bản Quang Trung đại phá quân Thanh. Tham khảo thêm các bài văn hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 8 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn để tự rèn luyện kỹ năng làm văn phân tích. Chúc các em học tốt!