Top 4 bài văn hay Cảm nhận về bài Thơ duyên
Thơ duyên đã mang đến cho đời những vui tươi, mới mẻ êm ái thể hiện sự quan sát tinh tế và hồn thơ nhạy cảm của Xuân Diệu. Cùng Đọc tài liệu cảm nhận sự tinh tế của Xuân Diệu và sự hòa hợp của thiên nhiên, tình yêu với con người và cuộc sống.
Cảm nhận về bài Thơ duyên - Mẫu 1
Xưa nay mùa thu vẫn được coi là mùa của thi ca. Cảnh thu đẹp nhưng buồn.thơ ca truyền thống hiện đại thường vẫn vẽ cảnh thu như vậy, kể cả thơ Xuân Diệu. Thơ duyên cũng là một bài thơ về cảnh thu nhưng có những nét riêng độc đáo mà vẫn Xuân Diệu: cảnh đẹp mà không buồn, ấy là mùa thu tình yêu, của tuổi trẻ, mùa của tạo vật, của lòng người qua con mắt Xuân Diệu trở thành một "thế giới giao duyên".
Thế giới của 'Thơ duyên – cảnh cũng như người - là thế giới đúng là được nhìn bằng một tâm hồn rất trẻ "lần đầu rung động nỗi thương yêu"\ ấy là trái tim lần đầu biết yêu, lần đầu khao khát chuyện lứa đôi.
Cái nhìn đó là cái nhìn độc đáo "rất Xuân Diệu" của bài thơ. Với nhân quan ấy, nhìn ra thế giới, đâu đâu cũng thấy xôn xao, náo nức một niềm khao khát giao duyên.
Một thế giới như thế tất nhiên hết sức tươi trẻ và đầy nhạc, đầy thơ, đầy mộng đẹp.
Tất cả như hoà quyện với nhau, cặp đôi, cặp vần với nhau: Ánh chiều hoà thơ với cây cỏ, chim chóc cặp đôi ríu rít, lòng anh cưới lòng em, cánh cò trên ruộng cũng phân vân vì mây biếc trên trời, bông hoa dường như không đồng cảm với nương chiều buông lạnh...
Bài thơ thể hiện được những cảm nhận hết sức tinh tế của nhà thơ về cảnh vật và lòng người. Hoài Thanh có một nhận xét rất sắc về trường hợp của bài Thơ duyên: ở đây "sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi" (Thi nhân Việt Nam). Đúng vậy, nhà thơ lắng nghe được cái xôn xao, náo nức của cảnh vật và lòng người ẩn kín dưới cái vẻ bề ngoài êm ả, lặng lẽ, dịu dàng của buổi chiều thu - "Ai hay tuy lặng bước thu êm..."
Đó là bản hoà âm của mùa thu vang vọng, của tiếng ríu rít, của muôn lá xôn xao khi trời xanh đổ ngọc. Đó là cái tình tứ e ấp của con đường nhỏ với gió xiêu xiêu, của cành hoa lả lả với ánh nắng trở chiều, của cánh cò muốn bay theo làn mây biếc tuy còn ngập ngừng phân vân. Và là cái cảm ứng của loài chim với trời rộng mà lặng lẽ "giang thêm cánh", là cái cảm giác thấm lạnh của hương đồng cỏ nội dưới sương chiều... Và là cái rung động thầm kín của lòng anh với lòng\em tuy chỉ ngẫu nhiên đi cùng một đường và chưa hề có băng nhân mối lái...
Cảnh thu trong Thơ duyên không buồn như trong thơ truyền thống hay nhiều bài thơ khác của Xuân Diệu. Nhưng vẫn đúng là cảnh thu. ở đây tâm hồn trong sáng của chàng trai mới biết yêu đã gặp gỡ cái sang trọng của trời thu, sắc thu, tiếng thu. Và niềm khao khát lứa đôi vừa mới chớm nở, náo nức đấy nhưng còn e ấp trong lòng, cũng phù hợp không khí êm dịu của mùa thu. Bước đi của mùa thu là "bước thu âm". Bài thơ mùa thu là "bài thơ dịu". Vì thế anh với em không ồn ào, phải bước êm, bước nhẹ, để lắng nghe cuộc giao duyên thầm kín của lòng mình và vũ trụ khi mùa thu tới.
Thơ duyên là một bài thơ rất tiêu biểu của Xuân Diệu, nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu, và rộng hơn, nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời.
Nhưng không phải một Xuân Diệu với sự bồng bột, sôi nổi bộc lộ ra bên ngoài, mà một Xuân Diệu lắng vào bên trong để cảm nhận cái xôn xao náo nức của niềm giao cảm thầm kín và êm ái của vũ trụ và lòng người.
Ông đã dệt nên một "bài thơ dịu" bằng những sợi tơ giăng mắc giữa lòng mình với lòng người, giữa lòng mình với vũ trụ.
Cảm nhận về bài Thơ duyên - Mẫu 2
Trong phong trào thơ mới ta không những được thoát lên tiên với Thế Lữ, điên cuồng với Hàn Mạc Tử, phiêu liêu với trường tình của Lưu Trọng Lư mà ta còn được say đắm trong thơ Xuân Diệu nữa. Nhà thơ ấy yêu đời đến cuống quýt cuồng nhiệt, chính vì thế mà những tác phẩm thơ của ông thường mang đến tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ. Đặc biệt trong những bài thơ ấy ta ấn tượng với bài thơ duyên. Ấn tượng đến nỗi mà càng đọc càng thấy cái hay và cái đẹp của bài thơ.
Không giống với bài thơ đây mùa thu tới mà với bài thơ thu này người ta chỉ cảm nhận được cái nhẹ nhàng dịu dàng của thu chứ không hề mang một nỗi buồn phảng phất nào cả. Cái hay cái đẹp có thể cũng thể hiện rất rõ trong chính nhan đề của tác phẩm. Duyên kia chứ không phải là tình. Nhà thơ không nói là thơ tình mà lại là duyên. Duyên là cái để hai người gặp nhau yêu nhau thương nhau. Duyên là sự ngẫu nhiên mà dẫn đến sự gắn bó trong tình cảm. Thơ duyên chứ không phải thơ tình bởi nhà thơ không đơn thuần nói về tình yêu đôi lứa mà cái duyên ở đây còn mang nghĩa rộng hơn. Đó là cái duyên của thiên nhiên với thiên nhiên. Của thiên nhiên với con người, duyên của con người với con người. Trong bài thơ này cảm hứng của tác giả có thể là bắt nguồn từ tình yêu nhưng nó chỉ là điểm nhìn để từ đó phát hiện ra bao mối tơ duyên hòa hợp, phát hiện ra thế giới của hòa điệu và giao cảm. Đó là sự hòa điệu của thiên nhiên và sự hòa điệu của con người.
Cái hay và cái đẹp trong bài thơ được thể hiện trước hết ở khổ thơ thứ nhất. Trong khổ thơ này ta cảm nhận được cảnh mùa thu tươi tắn:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.”
Cái hay, cái đẹp chính là cái duyên của thiên nhiên ở đây. Buổi chiều ấy hòa thơ trên những nhánh cây duyên kia. Phải chăng xuất phát từ điểm nhìn của tình yêu đối lứa cho nên thiên nhiên nơi đây cũng mang một cái duyên nào đó. Chắc phải là duyên tình. Chính những nét ấy đã làm nên cái thơ mộng trữ tình của thiên nhiên cảnh vật nơi đây. Cây me thì ríu rít những cặp chim chuyền cành. Đến chim kia cũng có đôi có cặp. Và hình như nhà thơ đang cảm thấy những con chim ấy chính là kết quả của chữ duyên kia. Chính duyên số đã đưa chúng lại gần nhau hơn và làm đẹp hơn cái duyên của thiên nhiên mùa thu ấy. màu trời kia như ai đổ lên những màu xanh ngọc qua muôn lá. Mùa thu đến nơi nơi trong tiếng huyền. Mỗi mùa có một tiếng tiêng, nếu mùa xuân thì thầm hoa lá, nếu màu hạ tưng bừng với những âm thanh rộn rã của tiếng ve, nếu mùa đông có tiếng gió rít lạnh lẽo thì mùa thu chọn cho mình âm thanh của tiếng lá rơi xào xạc huyền ảo êm tai. Đó phải chăng là tiếng nhạc, tiếng đàn du dương như ru người ta vào những mộng mị. Chính những điều đó là cảnh đẹp của thiên nhiên, còn cái hay lại chính là cái duyên của trời đất.
Như vậy ngay chính trong khổ thơ đầu thì cái đẹp cái hay của thơ duyên, của duyên thiên nhiên đã hiện ra trước mắt chúng ta. Cái màu sắc, âm thanh, hình ảnh của mùa thu ấy êm đềm dịu ngọt quá khiến cho những chúng ta như được bước vào một cõi tiên thơ mộng. Nhưng vô cùng ngạc nhiên rằng chính cái tiên cảnh ấy lại là những cái quá đỗi thân quen nơi trần gian này. Và chính qua sự cảm nhận rất thơ cua Xuân Diệu thì điều đó trở nên thật tuyệt vời. Đồng thời qua đây ta cũng không cảm thấy cái buồn của mùa thu ta chỉ thấy cái hay cái đẹp của nó mà thôi.
Nếu như khổ hai thiên nhiên như cây, gió, cặp chim chuyên hòa hợp với nhau làm nên cái duyên của đất trời thì đến khổ thơ thứ hai này cảnh như xui khiến con người “bạn” và “ta” để ý đến nhau:
“Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn.
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”
Con đường hiện lên với dáng hình nho nhỏ, gió chiều thì xiêu xiêu. Cái gió ấy không phải là gió thoang thoảng nhẹ nhàng hay phấp phới mà lá cái gió xiêu xiêu. Từ láy ấy như thể hiện được cái đặc biệt của cơn gió mùa thu. Cái sự se lạnh của nó khiến cho con người ta cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát hết cả tâm hồn. Cành cây nào đó lả lả nắng thì trở chiều. Từng câu thơ của Xuân Diệu như thể hiện được hết cái hay cái đẹp của thiên nhiên con người. Không những thế cái hay cái đẹp còn được thể hiện trong chính những câu thơ của Xuân Diệu. Chính cái không gian cảnh vật tuyệt vời ấy đã làm nền cho “ta” để ý đến “ bạn”. và bỗng nỗi rung động bỗng lại ùa vào những yêu thương. Cái hay cái đẹp của thiên nhiên cũng như tình cảm con người ấy đã khiến cho nhà phê bình Hoài Thanh phải cất lên những nhận lời nhận xét. Chính vì lời nhận xét ấy thì có nhiều người đã cho rằng:Nếu thơ duyên không dành được một chốc trong sách giáo khoa, nếu thơ duyên không được ngòi bút tài hoa của Hoài Thanh bình luận chắc ít ai ngó ngàng đến thi phẩm của Xuân Diệu. Tuy nhiên thì sự thật thì có thêm lời bình của Hoài Thanh người ta thêm yêu nó hơn mà thôi. Ở đây ta có thể hiểu rằng con đường nhỏ kia chính là con đường của tình yêu, con đường ấy như đang say cơn gió kia mà chúi đầu vào nũng nịu. Cành hoang thì cũng như có tình ý gì với nắng chiều mà lả lơi tình tứ.
Và khi đến với khổ thơ tiếp theo chúng ta như cảm nhận được một tình yêu đôi lứa có những chàng trai cô gái ấy:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần,
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.”
Trước sự giao hòa của thiên của con người thì lại xuất hiện hình ảnh anh và em nhưng lạ ở chỗ lại có khoảng cách bước xa nhau. Tất cả mọi sự vật của mùa thu hiện lên thật gần gũi thế nhưng sao ở đây lại có khoảng cách. Em thi bước điềm nhiên, đó là trạng thái nhẹ nhàng, không một chút bận lòng nào. Còn nhân vật anh thì lại đi lững thững thơ thẩn. Như kiểu cả hai người đi mà chẳng để ý người còn lại. Mặc dù bề ngoài họ vô tâm thế nhưng cái duyên không nằm ở khoảng cách ấy. Bởi họ đang đi trong một khu vườn tình ái vì thế cho nên họ giống như những cặp vần đứng sát lại gần nhau. Thiên nhiên giống như một khúc nhạc đệm làm nên bản tình ca đắm say cho con người. Chính vì thế mà những người trẻ tuổi thương yêu nhau từ cái vô tâm cho đến cái hữu tình. Nói là một cặp vần nhưng chúng ta như biết được rằng đó chính là một cặp tình nhân yêu đương. Đó chẳng phải là cái hay cái đẹp hay sao?
Hình ảnh thiên nhiên đẹp lại hiện lên những cánh cò, áng mây, loài chim nào đó:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân,
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Thiên nhiên màu thu không còn buồn thiu nhẹ nhàng mà nó trở nên gấp gáp. Dường như Xuân Diệu lúc nào cũng gấp gáp vì thế cho nên mùa thu vốn nhẹ nhàng mà cũng phải gấp gáp theo nhà thơ. Mây bay đi gấp gáp, con cò trên đồng ruộng ấy thì phân vân. Cò như được nhân hóa, nó phân vân điều gì?. Chim trên khoảng không ấy dang rộng đôi cánh mà bay. Hoa thì lạnh chiều thưa sương bắt đầu xuống. Qua những hình ảnh ấy ta dường như cảm nhận được buổi chiều thu đang dần chuyển sang tối. Những thiên nhiên cảnh vật như được nhân hóa có tâm trạng, biết phân vân, gấp gáp bay đi.
Đến với khổ thơ cuối cùng thì con người lại hiện lên với những tình cảm tốt đẹp:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Bước thu êm là sự cảm nhận tinh tế của cảnh thu và tình thu. Nó tuy tĩnh lặng nhưng lại không có sức cảm hóa vạn vật xung quanh. Cái êm ấy làm cho tình cứ đến mà không cần phải gạ gẫm gì. Chiều hôm ấy ngẩn ngơ trong cảnh đẹp hay chính là lòng người đang ngẩn ngơ. Phải chẳng cảnh và con người đang xúc động và đang một thoáng mộng tưởng mơ hồ xa xôi. Đặc biệt là câu thơ cuối rất hay bởi ở đây có sự “cưới lòng”. Cái này chưa ai từng nghe thấy thé mà ở đây Xuân Diệu lại nói như thế. Hai chữ ấy như thể hiện được cái đính hôn tình cảm bí mật không cho người kia biết. Trong lòng thì đã thích nhưng mặt ngoài vẫn còn e thẹn.
Như vậy qua bài thơ ta không chỉ thấy cái hay cái đẹp trong những câu từ ngôn chữ hay nghệ thuật thơ ca của Xuân Diệu mà ta còn cảm nhận được cái cảnh và cái tình trong đó. Cảnh thu vốn rất buồn thế nhưng ở đây thì lại không hề buồn. Nó cứ mang cái sự nhẹ nhàng dịu ngọt ấy đến cho mỗi người cảm nhận. Và tình cảm con người cũng như được phát triển trong chính cảnh thu ấy.
Với Phân tích bài Thơ duyên các em sẽ hiểu được giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, qua đó các em sẽ cảm nhận được hết cái hay của "Thơ duyên"
Cảm nhận về bài Thơ duyên - Mẫu 3
Trong bản hợp xướng những bài ca cuộc sống của mình, Xuân Diệu khiến người đọc bất ngờ với “Thơ duyên” bởi nó nhẹ nhàng, dịu dàng thánh thiện mê li. Nhan đề của bài thơ thật ngọt, là “Thơ duyên” chứ chưa hẳn là thơ tình, thơ yêu. “Thơ duyên” đã mang đến một hương vị dịu ngọt, êm ái cho bộ sưu tập những cung bậc, trạng thái cảm xúc khi thưởng thức vần thơ của “Ông hoàng thơ tình Việt” _ Xuân Diệu.
Huy Cận có một nhận xét rất thú vị như sau: “Những người yêu nhau thường hay ra giữa thiên nhiên… đó là một quy luật – vì chỉ có kích thước của vũ trụ họa chăng mới đo được cái không bờ bến của xúc động tình yêu.” Phải chăng mà do đó, chàng thi sĩ Xuân Diệu của chúng ta mới “lần đầu rung động nỗi thương yêu” trong cái khoảng không gian thơ mộng này:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”
Thật là hòa hợp biết mấy, cái hài hòa của thiên nhiên trong đoạn mở đầu này được thể hiện qua con mắt nhạy cảm của Xuân Diệu, phải chăng cũng bởi tâm trạng của con người sắp có biến chuyển mới? Trời thì mộng, nhánh thì duyên, mối quan hệ giữa “chiều mộng” và “nhánh duyên” đó là “hòa thơ”. Từ mối quan hệ tuyệt mĩ ấy, cũng như cảm nhận được trời đất đang giao duyên: một buổi chiều mơ mộng, bầu trời như trong xanh và dường như có gió nhẹ mơn man cành lá. Chim chóc cặp đôi “ríu rít” với nhau tạo nên những âm thanh trong trẻo, vui tươi. Màu sắc thì xanh đến tha thiết lòng. Cái “da trời xanh ngắt” của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã hóa “xanh ngọc” trong con mắt Xuân Diệu. Cái “xanh ngọc” ta cũng có thể bắt gặp trong bức tranh thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.”
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Trong khổ thơ này, đường nét, màu sắc, âm thanh hòa quyện cùng lòng người, chợt nhận ra rằng: “Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.” Tiếng thu ngân lên như “tiếng huyền”, cũng là âm thanh huyền diệu của vũ trụ, của lòng người. Quan niệm thiên nhiên hữu tình được Xuân Diệu nhấn mạnh nhiều lần trong thơ ông:
“Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống vườn xuân một tối đầy.”
Trong “Đây mùa thu tới”. Xuân Diệu thể hiện cái buồn, sự chán nản của mình, lan tỏa cả thiên nhiên:
“Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa của nhìn xa nghĩ ngợi gì.”
Trái ngược hoàn toàn, chiều trong “Thơ duyên” không một chút vẩn đục, u sầu mà ngược lại, rất trẻ trung, hồn nhiên. Cảnh vật say nghiêng ngả với âm thanh ngây ngất của mùa thu:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.”
Cái chữ “nhỏ nhỏ” ấy khiến cho con đường đáng yêu quá, nó làm cho gió sa xuống, “cành hoang” lả lới với “nắng chiều”. Tất cả hiện lên trong sự hoàn mĩ, mờ ảo và nên thơ của trời đất đất, vũ trụ. Con đường, cành lá à cả nắng gió của trời đất đều là những hình ảnh có hồn, có tâm trạng bởi:
“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động mỗi thương yêu.”
Tất cả những sự đáng yêu, nên thơ ở trên là có “lần đầu rung động nỗi thương yêu” kia. Thứ tình cảm nhẹ nhàng “lần đầu tiên” ấy cứ ngân nga trong lòng mỗi chúng ta mãi không thôi.
Nhân vật trung tâm bắt đầu xuất hiện từ một thước phim chầm chậm:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần.
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.”
“Anh” với “em”, chúng ta đã dạo bước cùng với nhau trong một buổi chiều ấn tượng tự nhiên như vậy sao? Chúng ta nào có quen biết nhau đâu, nhưng cái sự “duyên” đã để “anh” và “em” được cùng nhau hưởng trọn khung cảnh chiều đáng nhớ này. Em bước khoan thai “điềm nhiên” đâu có để ý đến chàng thi sĩ này đang “lững thững” nối gót bóng hồng. Mới đọc, ta có cảm giác như câu thơ “hơi bị” thừa thải về mặt từ ngữ: đã nói là “điềm nhiên” rồi mà còn thêm “không vướng chân”, “lững thững” thêm “chẳng theo gần”. Ấy vậy, càng đọc càng thấy hai câu thơ này hợp lí. Cái hay của Xuân Diệu là ở chỗ đó, ông muốn nhấn mạnh cái sự hữu duyên mà lại xa cách kia. Ta từng chứng kiến rất nhiều nỗi ám ảnh về xa cách trong thơ Xuân Diệu:
“Có một bận em ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn
Em xích gần hơn một chút anh hờn
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa”
(Xa cách)
Khao khát được gắn bó của Xuân Diệu như quy luật của cuộc sống, như cái lẽ bình thường của trời đất này vậy Trong không gian và thời gian đặc biệt này, Xuân Diệu đã tuyệt đối hóa để “anh” và “em” dù vô tâm đấy nhưng vẫn như “một cặp vần” giữa “bài thơ dịu” không thể tách rời. Một cặp vần ấy là sự hòa hợp trọn vẹn của cả ngôn từ lẫn âm thanh để tạo nên thơ. Sự hòa hợp giữa hai tâm hồn trong một khung cảnh mĩ miều này cũng nên thơ lắm chứ!
Sự trăn trở trong lòng thi sĩ lan ra đến cảnh vật xung quanh, dường như chúng cũng có cùng tâm trạng với Xuân Diệu vậy.
”Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Những đám mây của Xuân Diệu thật sáng tạo với kiểu “bay gấp gấp”, cánh cò cũng vậy, biết “phân vân”. Mây và chim là những hình ảnh rất quen thuộc trong ca dao dân gian ấy vậy mà khi bay vào thơ Xuân Diệu nó có thần thái mới rất thú vị, rất Tây. Quả là phong cách của nhà thơ “mới nhất trong những nhà thơ Mới”!
Sự tịnh tiến trong tâm hồn thi sĩ hướng tới sự chiêm nghiệm, Xuân Diệu hướng nội với những cảm xúc nồng nàn:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gia tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Sự ngẩn ngơ của “anh” là vì bóng chiều ư? Có lẽ vậy, nhưng chưa hẳn vậy bởi câu thơ kết thật lạ lùng: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em.” Từ “thôi” nghĩa là chấp nhận sự thật không thể kháng cự. Đúng vậy “anh” và “em” dẫu rằng chúng ta không hề quen biết nhau, chưa từng nói gì với nhau nhưng dường như chúng ta đã có Duyên tiền định. “Anh” đã nghe thấy tiếng bước chân trong lòng mình, từng bước từng bước, vang lên nỗi khát khao được sánh đôi với em mãi mãi trên con đường đời dài lâu phía trước. Không cần mai mối,không chủ định, lòng anh đã tự phải lòng em mất rồi, bóng hồng kiều diễm, nàng biết chăng nàng?
“Thơ duyên” là lẽ ấy bởi tự cổ chí kim đã có câu:
“Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng.”
Thơ Xuân Diệu nói chung đó là tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, nó khiến chúng ta yêu đời và con người muốn trở nên gần nhau hơn. Những rung động nhẹ nhàng và sự quan sát tinh tế của hồn thơ nhạy cảm Xuân Diệu trong “Thơ duyên” đã mang đến cho đời những vui tươi, mới mẻ êm ái. Xin được một lần cảm ơn Xuân Diệu, đã đem cái đẹp góp phần cho đời thêm xanh.
Cảm nhận về bài Thơ duyên - Mẫu 4
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và "Thơ duyên" là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.
"Thơ duyên" là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ "duyên" có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập "Thơ thơ" độc giả cũng đã bắt gặp "nàng thơ" với sự "ngẩn ngơ", u sầu trong "Đây mùa thu tới". Còn "Thơ duyên" bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."
Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh động và nên thơ. Với không gian là buổi "chiều mộng" - lãng mạn, êm ái hòa vào đó "thơ trên nhánh duyên" gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui mừng, hò reo khi thu về khi có "cặp chim chuyền" đang ríu rít trên "cây me". Động từ "ríu rít" lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp "chuyện trò" với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng lúc đó cả "bầu trời", "lá" đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" (Đây thôn Vĩ Dạ). Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ "đổ" tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn rã với "động tiếng huyền". Cụm từ "thu đến" như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.
Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu."
Từ tầm nhìn trên cao tác giả "kéo" không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như "nho nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" gợi sự đáng yêu trên nền nắng chiều. Động từ "trở" đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu từ "chiều" ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang nét mạnh mẽ, "đậm nắng" hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình. Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí tò mò của độc giả không kém là "nghe". "Nghe" ở nghĩa tường minh tức là sử dụng thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật "ta" hành động "nghe" lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng "cố nhân". Đó là cách dùng từ vô cùng đặc sắc của tác giả.
"Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần."
Hình ảnh của sự "rung động" ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật "em" và "anh" cùng dạo bước trên con đường nhỏ. "Em" thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn "anh" thì "lững đững" - trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!
"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần."
"Vô tâm" phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ "duyên". Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một "cặp bài trùng khác" là sự giao duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như "cặp vần" - gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."
Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy "gấp gấp" tạo cảm giác hối hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ "về đâu" lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng "phân vân", đắn đo không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều này để rồi "giang thêm cánh". Thi sĩ gán cho chim với động từ "nghe" như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp hay và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. "Hoa lạnh" vì có thể do "đẫm sương" hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.
Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa "bước thu êm" như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu. Từ "êm" gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng , e ấp "anh" lại nói về sự rung động của mình khi gặp em - "lòng anh thôi đã cưới lòng em". Động từ "cưới" như một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem "em" như là "mảnh ghép" còn lại của đời mình.
Bài thơ "Thơ duyên" không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài thơ cũng đã làm rất "tròn vai" của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu. Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối cùng ở mỗi khổ nhưng với "Thơ duyên" thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.
Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình - sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!
-/-
Hy vọng với những mẫu "Cảm nhận về bài Thơ duyên" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!