Cùng Đọc tài liệu tổng hợp một số bài văn mẫu nêu cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác, gợi ý cách triển khai bài văn phát biểu cảm nghĩ của em về hai khổ đầu Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Dàn ý cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát bài thơ Viếng lăng Bác và dẫn dắt hai khổ thơ đầu.
- Cảm nhận chung của em về 2 khổ thơ đầu: Hai khổ thơ đầu giới thiệu hoàn cảnh ra thăm lăng Bác, khẳng định Bác bất tử, trường tồn cùng núi sông, dân tộc và tình cảm thành kính, thiêng liêng, sâu sắc mà nhân dân dành cho Người là vĩnh viễn.
2. Thân bài: Trình bày cảm nhận của em về 2 khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác
a) Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác
- Bồi hồi, xúc động: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
- Cặp đại từ xưng hô “con - Bác”: vừa thể hiện cách xưng hô gần gũi, thân thiết của người miền Nam, vừa là sự tôn kính với Bác và tình cảm yêu thương dành cho một người ruột thịt, một người bề trên trong gia đình.
- "thăm": là cách nói giảm nói tránh làm giảm bớt nỗi đau thương, mất mát cũng như khẳng định sự bất tử của Người trong lòng nhân dân Việt Nam.
=> Câu thơ giản dị như một lời kể nhưng lại thấm đượm bao nỗi bồi hồi, xúc động của nhà thơ, sau bao mong nhớ, đợi chờ, nay mới được đến viếng lăng Bác.
- Nhà thơ có ấn tượng đậm nét với hình ảnh “hàng tre bát ngát”:
+ Hình ảnh thực tạo nên quang cảnh đẹp cho lăng Bác, mang lại cảm giác thân thuộc, gần gũi của làng quê, đất nước Việt.
+ Hình ảnh “hàng tre xanh xanh” chứa nhiều sức gợi: vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam với sức sống tràn trề; “bão táp…thẳng hàng” - vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, bền bỉ, hiên ngang, bất khuất của con người Việt Nam.
-> Hình ảnh hàng tre bao quanh lăng là biểu tượng của cả dân tộc đang quây quần bên Người, thể hiện tình cảm của người dân miền Nam nói riêng, con người Việt Nam nói chung dành cho Bác.
=> Khổ 1 là niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
b) Khổ 2: Khẳng định Bác còn đó và còn mãi giữa non sông đất nước, giữa lòng dân tộc và nhân loại
- Hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi: mặt trời trên lăng - mặt trời tự nhiên
+ Mặt trời trong lăng: ẩn dụ cho Bác. Bác đã mang lại ánh sáng chân lí, giúp dân tộc thoát khỏi kiếp sống nô lệ, khổ đau.
-> Vừa khẳng định, ngợi ca sự vĩ đại của Bác vừa thể hiện tình cảm tôn kính, biết ơn của cả dân tộc đối với Người.
+ Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày”: dòng thời gian vô tận và sự sống vĩnh cửu; mang giá trị tạo hình, vẽ lên quang cảnh những đoàn người nối tiếp nhau không dứt, lặng lẽ và thành kính vào viếng Bác.
+ “đi trong thương nhớ”: lối nói thể hiện nỗi tiếc thương, nhớ nhung của bao thế hệ người dân Việt Nam trong giây phút vào lăng viếng Bác.
+ “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”: 79 mùa xuân tương ứng 79 năm cuộc đời Bác đã hiến dâng cho quê hương, đất nước một cách trọn vẹn.
-> Tràng hoa được kết từ hàng ngàn, hàng vạn trái tim để bày tỏ niềm tiếc thương, kính yêu vị cha già dân tộc. Đó cũng là cách để nhà thơ khẳng định Bác sống mãi trong lòng dân tộc.
=> Liên tưởng độc đáo này rất phù hợp với khung cảnh viếng lăng, nó làm cho hình tượng thơ thêm cao quý, lộng lẫy.
3. Kết bài:
- Khái quát giá trị, ý nghĩa của hai khổ thơ đầu bài Viếng lăng Bác.
Top 3 bài văn cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác
Cùng Đọc Tài Liệu tham khảo một số bài văn nêu lên cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương sau đây để có thêm vốn từ ngữ và rút kinh nghiệm về cách trình bày cho bài làm của mình.
Cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác mẫu 1:
Vào năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng với đoàn cán bộ miền Nam đã có chuyến đi tới Hà Nội và viếng thăm lăng Bác. Sự kiện lịch sử quan trọng này đã để lại cho nhà thơ nhiều cảm xúc và sự kính trọng. Suốt bao năm mong đợi, hôm nay nhà thơ đã có dịp đến viếng lăng Bác. Trong tâm trí tác giả, những kỷ niệm về Bác, về những tình cảm mà Bác đã dành cho nhân dân, về cuộc chiến tranh của dân tộc và về tương lai đất nước lại ùa về. Chính trong cảm xúc ấy, bài thơ "Viếng lăng Bác" đã ra đời. Hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ thể hiện niềm tự hào và sự xúc động của nhà thơ khi đứng trước lăng Người.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh một không gian mênh mông, khoáng đạt theo tầm nhìn và lời thơ bột phát tự nhiên như lời nói:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" - câu thơ dù ngắn gọn nhưng lại chứa đựng những tâm sự chân tình của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Tiếng "con" ấm áp và gần gũi thể hiện sự kính yêu vô hạn của nhà thơ dành cho Bác. "Con ở miền Nam" gợi lên nỗi đau xót xa của những người con xa quê hương, nhưng cũng thể hiện niềm tự hào to lớn. Miền Nam gian khổ và anh dũng, là miền đất đi trước về sau, miền đất đã thống nhất với toàn thể Tổ quốc. Nhà thơ rất hào hứng khi kể cho Bác nghe về những chiến công oai hùng của quân và dân ta đã kiên cường chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù, giành lại độc lập và thống nhất đất nước, như những khát khao mà Bác đã ấp ủ.
Tác giả đã sử dụng từ "thăm" thay vì "viếng" để ghi nhận cuộc viếng thăm. Cách tác giả nói giảm nói tránh trong lời nói giúp giảm bớt nỗi đau thương trước sự mất mát quá lớn và tạo ra sự gần gũi, thân tình. Đây là một cuộc viếng thăm, sự trở về của người con miền Nam đến gặp vị cha già vĩ đại của dân tộc, một cuộc hội ngộ thỏa mãn lòng ước mong. Với việc sử dụng từ "thăm" tinh tế và đơn giản như vậy đã khiến người đọc không còn cảm thấy xa cách nữa. Hình ảnh hàng tre xanh ngát bao quanh lăng Bác gây ấn tượng mạnh mẽ trong tầm nhìn của tác giả. Viễn Phương đã hình tượng hóa hình ảnh ấy khiến nó trở nên kỳ vĩ lạ thường.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Trong tự nhiên, cây tre là loài cây có sức sống bền bỉ, kiên cường. Với người dân Việt Nam, cây tre biểu thị tinh thần bất khuất, kiên cường, không bao giờ đầu hàng dù điều kiện sống khó khăn đến đâu. Ngoài ra, tre cũng là biểu tượng của sự đoàn kết, nâng đỡ cưu mang từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bóng mát của hàng tre đã che chở cho bao thế hệ, đồng thời vừa là người bạn thân thiết đồng hành cùng con người vượt qua khó khăn và vừa là người đồng chí kiên trung sống chết không rời. Cây tre ăn sâu bám rễ vào lòng đất, kiên trì, nhẫn nại, "dẫu có bão táp mưa sa" vẫn "đứng thẳng hàng", tượng trưng cho sức mạnh và ý chí kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, vượt qua mọi thử thách và kẻ thù hung ác. Cây tre là biểu tượng cho ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam, vượt lên trên tất cả, trải qua hàng ngàn năm, không sức mạnh nào có thể khuất phục.
Nhà thơ ngước nhìn lên bầu trời trong xanh từ hàng tre xanh xanh, ánh mặt trời chói lọi gợi liên tưởng đến Bác Hồ vĩ đại:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân… “
Đứng ở đầu câu, từ láy “ngày ngày” vừa diễn tả vòng tuần hoàn bất biến của tự nhiên, vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân… “
Từ láy "ngày ngày" được lặp lại một lần nữa với hàm nghĩa mới. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh đẹp và sáng tạo: "tràng hoa" bằng sự quan sát thực tế những dòng người từ khắp nơi trên đất nước đến thăm lăng Bác, xếp hàng và đi vào cầu nguyện, bày tỏ tấm lòng nhớ thương, yêu quý và tự hào. "Tràng hoa" ở đây có nghĩa là những bông hoa tươi thắm, được kết thành vòng hoa. Chúng tượng trưng cho mỗi người đến thăm lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát hương. Những dòng người kéo dài không ngừng đến thăm lăng Bác đã nối kết thành một tràng hoa bất tận. Những bông hoa - tràng hoa rực rỡ ấy dưới ánh sáng mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa - tràng hoa đẹp nhất, tôn vinh "bảy mươi chín mùa xuân" của Người.
Bài thơ "Viếng lăng Bác" được viết với hình ảnh thơ sáng tạo, cụ thể và xác thực, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Giọng điệu của bài thơ vừa trang nghiêm, xót xa, tha thiết lại vừa chứa đựng niềm tin và lòng tự hào, phản ánh tâm trạng của những người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc câu và từ ngữ được lặp lại tạo ra âm nhạc chậm rãi, như bước chân chầm chậm của những dòng người vào lăng viếng Bác trong không khí thiêng liêng, thành kính và cảm xúc thiết tha. Khổ 1 và 2 của bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và sự biết ơn sâu sắc của nhà thơ và nhân dân đối với Bác Hồ, vị cha già vĩ đại của dân tộc.
Cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác mẫu 2:
Viễn Phương được may mắn sống và làm việc gần gũi với Bác Hồ trong rất nhiều năm. Ông là một trong những người yêu quý và tôn kính Bác Hồ, đã sáng tác nhiều bài thơ thể hiện tình cảm, lòng luyến thương, khâm phục của mình đối với Người, trong đó bài thơ "Viếng Lăng Bác". Tình cảm chân thành và sâu nặng của tác giả được thể hiện rõ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ.
Mở đầu bài thơ Viễn Phương đã phân trần xúc cảm của mình qua lời tự giới thiệu như lời tâm tình nhẹ nhõm:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Cách xưng hô "con" và "Bác" nghe rất thân tình, gần gũi. Nhà thơ đã sử dụng cách xưng hô này để tạo ra sự gần gũi, đầy tình thân mà vẫn rất mực thành kính và thiêng liêng. Đồng thời, cũng thể hiện tâm trạng xúc động của người con khi tới thăm cha sau nhiều năm xa cách. Từ "con" ở đây không chỉ đại diện cho người viếng thăm, mà còn là cả miền Nam và tấm lòng của đồng bào Nam Bộ đang hướng về Bác Hồ - vị cha già kính yêu của dân tộc, mang trong mình một niềm xúc động lớn lao. Thi sĩ đã tinh tế thay từ "viếng" bằng từ "thăm", tạo ra sự khác biệt giữa việc đến viếng và đến thăm. "Viếng" có nghĩa là đến chia buồn với thân nhân của người đã khuất, cùng chia sẻ nỗi đau của tang quyến. Còn "thăm" là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống, là cuộc hội ngộ.
Cách diễn đạt nói giảm nói tránh nhẹ nhàng, tránh làm tăng thêm nỗi đau mất mát của người đến viếng. Bác Hồ đã ra đi mãi mãi, nhưng hình ảnh của Người sẽ còn mãi trong trái tim của người dân miền Nam nói riêng, trong lòng dân tộc Việt Nam nói chung. Đồng thời, những ý thơ trong bài đã gợi lên tình cảm thân thiết, gần gũi như đứa con xa về thăm cha, thăm người thân ruột thịt, thăm nơi Bác Hồ nằm để thỏa mãn khát khao mong ước từ lâu tìm lại chính mình giữa nỗi đau thương vô tận.
Khi đọc câu thơ này, chúng ta không thể kìm nén được nỗi xúc động nghẹn ngào. Dù không có bất kỳ dụng công nghệ thuật nào, nhưng câu thơ lại rất gợi cảm và đầy cảm xúc. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của người dân miền Nam, tình cảm của toàn dân tộc Việt Nam. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, tất cả chúng ta đều có cùng một tình cảm đối với Bác Hồ yêu quý. Với niềm hạnh phúc tràn đầy, với niềm vui sướng tột cùng, Viễn Phương đã tập trung ngắm nhìn cảnh quan xung quanh lăng Bác Hồ:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Tác giả sử dụng văn phong tả thực để giúp độc giả hình dung một thực tế trong màn sương trắng mờ ảo. Cảnh quan xung quanh lăng Bác trở nên lung linh và thú vị. Màn sương trắng là dấu hiệu của bầu trời sớm vẫn còn tờ mờ. Tuy nhiên, tác giả đã đến đó tự bao giờ! Điều đó cho thấy Viễn Phương rất háo hức và mong mỏi được đến thăm Bác Hồ, ngay cả khi chỉ là việc viếng lăng. Trong màn sương trắng, hình ảnh gây ấn tượng nhất đối với Viễn Phương là hàng tre. Với việc lặp lại hai lần từ "hàng tre" trong khổ thơ, hình ảnh hàng tre hiện lên với vẻ đẹp tuyệt vời. Nó thật đẹp với sắc xanh tươi thắm. Sự kết hợp giữa phép nhân hóa và vận dụng trong dòng thơ: "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng" giúp hình ảnh hàng tre trở nên đẹp đẽ hơn.
Hàng tre là hình ảnh thân thuộc và gần gũi đối với làng quê Việt Nam. Nó còn là biểu tượng của con người Việt Nam kiên trung quật cường. Thành ngữ “bão táp mưa sa” dùng để miêu tả những thử thách lịch sử mà dân tộc phải đối mặt. Hình ảnh hàng tre đứng thẳng hàng thể hiện ý chí kết đoàn, sức mạnh, và tinh thần không bao giờ khuất phục của một dân tộc mạnh mẽ. Từ hình ảnh hàng tre trong sương mờ quanh lăng Bác, thi sĩ đã tư duy, liên tưởng và mở rộng khái niệm thành biểu tượng cho sức sống kiên cường, quật cường của con người và dân tộc Việt Nam vượt qua thử thách của thời gian.
Khi nhắc đến hình ảnh hàng tre, ta không thể bỏ qua sự gắn bó của nó với truyền thống đánh giặc vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ cụm tre ngà đánh tan giặc Ân vẫn còn hiện hữu trong kí ức của dân tộc ta. Ngô Quyền cũng sử dụng cọc tre để tạo thành trận địa phục kích, đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm xưa, để lại sự kinh hãi cho quân thù trong hàng trăm năm sau đó.
Hình ảnh bao gậy gộc, tầm vông, chông dài vót nhọn đã trở thành biểu tượng của ý chí kiên cường, vượt khó của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Pháp và Mỹ. Các lãnh đạo cách mạng đã vận dụng hình ảnh này để tạo nên lá cờ cách mạng, tái hiện lại sự hào hùng, lẫm liệt của quá khứ và gợi nhớ đến những chiến công hiển hách của các anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... Hình ảnh này còn gợi lên trước mắt người đọc những đau thương và hi sinh của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại sự xâm lược và mưu mô đồng hóa của kẻ thù.
Chỉ với một bài thơ ngắn, nhưng đã đủ để thể hiện những tình cảm thiêng liêng và sâu sắc của thi sĩ, cũng như của nhân dân đối với Bác Hồ yêu quý. Với niềm cảm kích tràn đầy, thi sĩ đã tự do tưởng tượng đến hình ảnh vĩ đại khi đến Lăng Chủ tịch.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”
Trong khổ thơ này, Viễn Phương bắt đầu bằng cụm từ "ngày ngày" để miêu tả thời gian, như thể muốn diễn tả sự vận hành của tự nhiên, vạn vật dưới ánh mặt trời. Để thể hiện sự di chuyển của mặt trời, ông sử dụng từ "đi qua" và "thấy". Sự tương tác giữa sự di chuyển của con người và thời gian tự nhiên đã tạo nên một tác phẩm đẹp, được miêu tả cảnh "ngày ngày", và từ "thấy" đã thể hiện được khả năng tài tình của thi sĩ trong việc tạo hình ảnh cho mặt trời tự nhiên.
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực, một nguồn sáng thần thánh của vũ trụ, với sự kỳ vĩ, bất tử và vĩnh cửu. Mặt trời là nguồn gốc của sự sống và ánh sáng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng” còn là một ẩn dụ độc đáo và sáng tạo. Nó tượng trưng cho Bác Hồ vĩ đại. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn sức mạnh và năng lượng tinh thần. Trong Bác Hồ, có tình yêu thương, ý chí vượt khó, ý thức quật cường và niềm tin tuyệt đối. Bác Hồ đã cùng nhân dân vượt qua hàng trăm nghìn gian khổ và hi sinh để giành thắng lợi lớn lao, hoàn toàn. Ý thơ đã giúp tôn vinh tầm vóc vĩ đại của Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện sự tôn kính và tôn trọng của thi sĩ đối với Người.
Thi sĩ Tố Hữu đã so sánh Bác Hồ với "quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ". Cái nhân, cái nghĩa lớn lao, tầm vóc của Bác đã ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu xa đến mỗi số phận con người. Nhìn dòng người đang tuần tự tiến vào thăm lăng Bác Hồ, Viễn Phương đã liên tưởng đó là "tràng hoa". Một lần nữa, thi sĩ đã kết hợp hai hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi để bày tỏ sự thương nhớ của nhân dân đối với Bác Hồ và tôn vinh công ơn của Người.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”.
Dòng người tuần tự, trang nghiêm bước vào viếng lăng Bác như đang dâng hương hoa thơm ngát lên Bác yêu kính đã được thi sĩ Viễn Phương gọi là "tràng hoa". Bằng điệp ngữ "ngày ngày" và cùng cấu trúc câu giống với câu thơ trước đó, ông đã mô tả thời gian dần trôi qua, nhưng dòng người vẫn không ngừng đến viếng lăng Bác. Hình ảnh ấy thể hiện tấm lòng yêu kính, hàm ân của muôn dân đối với Bác Hồ. Cuối cùng, bằng những hình ảnh hoán dụ "bảy mươi chín mùa xuân", Viễn Phương ca ngợi cuộc đời Bác Hồ như một trường ca xuân đem lại hạnh phúc và ấm no cho con người. Hình ảnh hoán dụ này cũng thể hiện lòng tri ân của tác giả và của tất cả mọi người đối với Bác Hồ.
Những dòng người vô tận đang ngày ngày vào lăng viếng bác bỏ, nối kết nhau như những tràng hoa vô tận dâng lên Người. Những tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của bác bỏ đã trở thành những tràng hoa đẹp nhất dâng lên“bảy mươi chín mùa xuân” – 79 năm cuộc thế của Người với sự thành kính và mến yêu vô hạn. Những dòng người vô tận đang ngày ngày vào lăng viếng bác bỏ, nối kết nhau như những tràng hoa vô tận dâng lên Người. Những tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của bác bỏ đã trở thành những tràng hoa đẹp nhất dâng lên“bảy mươi chín mùa xuân” – 79 năm cuộc thế của Người với sự thành kính và mến yêu vô hạn.
Ngày nay, toàn dân, toàn Đảng đều tôn kính, tưởng nhớ công lao của Bác Hồ và cùng nhau nỗ lực xây dựng, phát triển đất nước. Học sinh chúng tôi luôn cầm chắc lời dặn dò của Bác: "Non sông Việt Nam có tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể bước lên đài vinh quang sánh vai những cường quốc năm châu được hay không, phần lớn phụ thuộc vào công học tập của các em". Chúng ta cần quyết tâm học tập chăm chỉ, rèn luyện đạo đức tốt và góp phần vào xây dựng và bảo vệ quê hương, để đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác Hồ.
Cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác mẫu 3:
Sinh thời, Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà văn, một nhà thơ mà còn là một nhà hoạt động Cách mạng. Sự đóng góp của Người cho dân tộc Việt Nam là không đếm xuể. Chính sự hy sinh đó đã tạo nên một Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim của hàng triệu người Việt Nam cũng như bạn bè quốc tế, và bức tượng đài hùng vĩ của Người đã dần trở thành chủ đề của nhiều tác phẩm thơ ca. Có những thi sĩ viết về công lao vĩ đại của Bác, còn những thi sĩ khác đi sâu vào tài năng thơ ca và con người của Bác. Tuy nhiên, Viễn Phương lại chọn cho mình một cách viết rất riêng. Ông đã truyền tải cảm xúc của mình qua bài thơ "Viếng lăng Bác" sau khi lần đầu tiên đến lăng viếng Bác, trong đó hai khổ thơ đầu tiên đã bộc lộ cảm xúc của tác giả.
Mở đầu bài thơ như một lời kể rất đỗi tự nhiên:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Cách gọi "Con" - "Bác" sao mà gần gũi, thân thiết đến thế? Không phải đến đây để viếng mà để "thăm". Từ "thăm" là cách nói giản dị, tránh né tinh tế giúp giảm bớt đi sự mất mát, đau đớn. Câu thơ đầu tiên đưa ta đến với hình ảnh một người con đã lâu mới có dịp đến thăm người cha già kính yêu của mình. Khi đến đây, người con đó đã nhìn thấy:
“Đã thấy trong sương hàng tre xanh bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng"
Ba câu thơ trong đó mỗi câu sử dụng một biện pháp nghệ thuật khác nhau. Từ tả láy "xanh xanh, bát ngát", thành ngữ "bão táp mưa sa", và biện pháp nhân hóa "đứng thẳng hàng" đã cùng nhau tạo nên một linh hồn cho hàng tre trước đây vốn không hề sống động. Các câu thơ ngày càng trở nên sống động và tinh tế hơn khi mô tả sức mạnh, sự kiên cường của hàng tre xanh bát ngát. Ở đây, hàng tre không chỉ đơn thuần là một loài cây có thân thẳng, mà nó đã trở thành biểu tượng tượng trưng cho sự kiên cường và bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trong ý thơ ẩn chứa cả niềm tự hào và xúc động của người viết.
Bước sang khổ thơ thứ hai là những hình ảnh hoàn toàn quen thuộc nhưng được diễn tả với một giọng thơ đầy mới lạ:
“Ngày ngày mặt trời đi qua lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Nếu ánh nắng của mặt trời trong câu thơ thứ nhất là tượng trưng cho sức sống của thiên nhiên, một nguồn ánh sáng rực rỡ, chiếu sáng đến mọi nơi trên trần gian, trao cho tất cả sự sống, thì mặt trời trong câu thơ tiếp theo lại được dùng để ẩn dụ cho Bác Hồ. Ông là người cha già vĩ đại của dân tộc, là người dẫn dắt cách mạng Việt Nam đến đỉnh cao vinh quang. Bác Hồ giống như mặt trời, ngự trị trong lăng để mỗi ngày, ánh sáng của thiên nhiên, vũ trụ đi qua phải dừng lại ngắm nhìn mặt trời của dân tộc Việt Nam - Bác Hồ. Việc so sánh Bác Hồ với mặt trời nhằm ca ngợi đóng góp của Người với dân tộc Việt Nam và đưa Người trở thành một huyền thoại, một vị thần trong lòng người Việt Nam. Bên cạnh hình ảnh mặt trời tráng lệ còn là dòng người tiếp tục nối tiếp tinh thần cách mạng của Bác Hồ.
“Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Với điệp từ “Ngày ngày” kết hợp với hai từ “dòng người”, đoạn văn đã miêu tả hình ảnh đoàn người lặp đi lặp lại, không ngừng nghỉ, như sự liên tục của người vào lăng thăm viếng. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ để tạo nên bức tranh dòng người xếp hàng thành vòng tròn, tôn vinh cuộc đời 79 mùa xuân của Bác bằng những thành quả đã gặt hái.
-/-
Vừa rồi là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn trình bày cảm nhận của em về hai khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác - Văn mẫu lớp 9 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn cảm nhận hay và sâu sắc.