Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích Cảnh ngày xuân - Tham khảo tài liệu hướng dẫn bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng những bài văn mẫu hay dưới đây do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn để hoàn thành tốt bài viết của mình em nhé.
Hướng dẫn làm bài nêu cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích Cảnh ngày xuân
1. Phân tích đề
- Yêu cầu đề bài: cảm nhận về vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mà Nguyễn Du miêu tả trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Đối tượng làm bài: bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Phương pháp làm bài: cảm nhận, phân tích
2. Các luận điểm chính cần triển khai
Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên buổi sáng sớm
Luận điểm 2: Bức tranh lễ hội trong dịp tết Thanh minh
Luận điểm 3: Bức tranh chiều tà khi chị em Kiều ra về
3. Lập dàn ý
1. Mở Bài
- Giới thiệu về Truyện Kiều và bút pháp của Nguyễn Du.
- Giới thiệu đoạn trích Cảnh ngày xuân cùng với bức tranh thiên nhiên.
2. Thân Bài
a. Giới thiệu vị trí của đoạn trích:
Nằm ở phần đầu, sau khi giới thiệu vẻ đẹp của chị em Kiều.
b. Bức tranh thiên nhiên buổi sáng sớm:
+ Mở ra bằng cánh chim én: loài chim báo hiệu mùa xuân
+ "đưa thoi": gợi tả sự đông đúc, hình ảnh những cánh chim chao lượn
+ "Thiều quang": ánh sáng đẹp, ánh sáng của mùa xuân
+ Thời gian của mùa xuân đã trôi đi quá nửa "đã ngoài sáu mươi" → Sự tiếc nuối khi mùa xuân đang dần qua (so sánh với Xuân Diệu).
→ Diễn tả sự chảy trôi của thời gian, mùa xuân đang qua đi.
+ Hình ảnh triền cỏ xanh trải dài mênh mông như đến tận chân trời.
+ Từ "tận": mãi đằng xa, lan ra tới mãi đường chân trời → Thảm cỏ kéo dài vô tận, không dứt → Vẻ đẹp xanh mát của mùa xuân.
+ Điểm trên cỏ là hình ảnh của những bông lê trắng muốt → Hai màu hòa quyện tạo nên sự sống động, đẹp đẽ vô cùng.
+ "trắng điểm": Đảo ngược từ để nhấn mạnh màu sắc nổi bật
+ "Cành lê": Chủ thể được đảo lên đầu để nhấn mạnh hình ảnh đặc sắc.
→ Nghệ thuật chấm phá, dùng điểm tả diện → Vẽ lên khung cảnh xuân thanh mát, tinh khiết.
c. Bức tranh lễ hội trong dịp tết Thanh minh:
+ Tám câu tiếp là hình ảnh của con người trong dịp lễ Thanh minh
+ Người xe nườm nượp, tất cả đều nô nức, vui tươi trong không khí của mùa xuân.
d. Bức tranh chiều tà khi chị em Kiều ra về:
+ Sau khi kết thúc lễ hội, chị em Kiều ra về.
+ Phong cảnh hai bên bờ đều rất đẹp với dòng suối nhỏ, cây cầu cùng với màu xanh nhẹ nhàng của phong cảnh.
+ Nguyễn Du sử dụng một loạt từ láy "thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, thơ thẩn": gợi tả không gian xung quanh nhưng cũng gợi lên tâm trạng con người.
+ "Thanh thanh": Sự trầm lắng, suy tư, thanh thoát, "nao nao": con nước quanh co hay cũng là sự bồn chồn, lo lắng, không yên.
→ Cảnh vật và con người đang giao hòa, gợi lên một chút bâng khuâng, lưu luyến cùng một dự cảm chẳng lành.
e. Kết luận chung:
+ Bút pháp tài hoa của Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời.
+ Cấu tứ của đoạn trích hợp lý với ba phần: mở, diễn biến và kết.
+ Các nghệ thuật được sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn: tả cảnh ngụ tình, chấm phá,...
3. Kết Bài
Bằng việc sử dụng những hình ảnh quen thuộc, bình dị, ngôn ngữ miêu tả sống động, kết hợp hài hoà những tính từ láy với các danh từ, miêu tả cảnh vật theo trình tự thời gian, bức tranh xuân hiện ra đẹp đẽ và để lại nhiều xúc cảm.
4. Sơ đồ tư duy
Xem thêm: Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
Dưới đây là một số bài văn mẫu hay nêu cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích Cảnh ngày xuân mà em có thể tham khảo cho bài viết của mình.
Văn mẫu tham khảo nêu cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích Cảnh ngày xuân
Bài văn mẫu 1:
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, là một danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận. Ông có đóng góp to lớn với một khối lượng thơ văn đồ sộ cho dân tộc. Trong những tác phẩm ấy, nổi bật nhất là bài thơ “Truyện Kiều’’. Truyện kiều là bài thơ được viết bằng thể lục bát nói về số phận của những người phụ nữ có số phận bất hạnh, họ phải chịu nhiều tủi nhục và đau đớn. Đồng thời cũng lên án những kẻ ích kỉ hèn mọn chỉ quan tâm đến lợi ích của mình. Đoạn trích “ Cảnh ngày xuân’’ có lẽ là đoạn tiêu biểu nhất về tả cảnh thiên nhiên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện kiều. Vào ngày tết thanh minh chị em thúy kiều đi tảo mộ và hiện ra trước mắt người đọc là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tâm trạng của người du xuân khi trở về.
Mở đầu bài thơ hiện ra một bức tranh xuân trong sáng, nhẹ nhàng và tinh khôi:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu gợi tả cho ta về không gian và thời gian. Câu thơ “ Ngày xuân con én đưa thoi’’ là câu thơ gợi tả về không gian. Trên nền trời cao rộng, đàn én lượn qua lượn lại, chao liệng như thoi đưa vào những tháng cuối của mùa xuân. Cũng như chỉ thời gian trôi nhanh giống như những chú én đang vụt bay trên trời xanh. Mùa xuân có chín mươi ngày vậy mà bây đã qua sáu mươi ngày, đã bước sang tháng ba rồi. Làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa xuân. “Thiều quang’’ là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống cho muôn loài.
Hai câu thơ sau được tác giả khắc họa tuyệt đẹp với hai màu xanh và trắng. Chữ “tận” mở ra một không gian bao la bát ngát không có điểm dừng. Thảm cỏ non trải rộng đến chân trời là để làm màu nền cho bức tranh mùa xuân. Trên bầu trời xanh ngát ấy xuất hiện màu trắng của vài bông hoa lê. Từ “điểm” tĩnh như không tĩnh, làm cho ta liên tưởng thiên nhiên có tâm hồn, biết làm đẹp giống như một con người. Chỉ một vài màu trắng của hoa lê mà làm câu văn trở nên sống động và nổi bật trong sắc trời mùa xuân. Bằng một vài nét chấm phá, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đọc cảm giác mình đang đứng trước khung cảnh của mùa xuân.
Nếu bốn câu thơ đầu là một bức tranh của mùa xuân thì tám câu tiếp là bức tranh của lễ hội trong tiết thanh minh:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Từ xa xưa dân tộc ta đã có phong tục là đi tảo mộ người thân đầu năm để thăm viếng sửa sang lau chùi cho sạch sẽ và du xuân ở chốn đồng quê trong khí tiết thanh minh. Các danh từ, động từ, tính từ “ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức” là chỉ một không gian có rất nhiều người đặc biệt là các chàng trai và cô gái đi du xuân đầu năm tạo không khí đông vui, nhộn nhịp và náo nhiệt của buổi hội gắn với một tâm trạng của mỗi người đi hội. Ai cũng háo hức sắm sửa trang phục, trang sức để chuẩn bị tham gia lễ hội. Đó không những là buổi hội mà còn là nơi se duyên cho các cặp nam thanh nữ tú chưa tìm được định mệnh của mình.
Bên cạnh hình ảnh người đi du xuân là hình ảnh những đống tro bên cạnh nấm mồ, những đống tro ấy chính là người ta đốt tiền giấy để tưởng nhớ những người thân đã khuất:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Dù là người đang sống hay người đã khuất đều cầu nguyện mong được hạnh phúc. Người đã mất thì khi họ chết đi cũng mong con cháu mình luôn được mạnh khỏe, bình an và hạnh phúc. Người đang sống họ ước mong được một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc và cầu nguyện cho những người đang nằm dưới nấm mồ kia được yên nghỉ.
Người ta thường nói cuộc chơi nào rồi cũng sẽ đến lúc phải kết thúc. Không có cái gì là trường tồn mãi mãi cả. Khi lễ hội kết thúc chị em Kiều ra về trong cảnh chiều tà và mang một tâm trạng sầu mặc:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
Không khí vui tươi, náo nhiệt không còn nữa mà nó đang mờ nhạt dần theo ánh nắng. Trời đã về chiều, mặt trời đã lặn sau chân núi, chỉ còn những ánh sáng yếu ớt của những tia nắng còn sót lại. Các từ láy thanh thanh, nao nao, tà tà, thơ thẩn gợi tả sắc thái của cảnh vật và cũng chính là tâm trạng của con người. Dường như cảnh vật cũng thấu hiểu lòng người, cũng khoác lên mình một màu u buồn. Nguyễn Du sử dụng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Một tâm trạng bâng khuâng, thơ thẩn như đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó và dự cảm có điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai sắp tới.
Có thể nói đây là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có cảnh có tình. Được coi là một trong những bức tranh thiên nhiên đẹp nhất trong “Truyện Kiều’’ của Nguyễn Du. Sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh mang tính chọn lọc, bút pháp tả cảnh thiên nhiên đặc sắc tả cảnh điểm xuyết, tả cảnh ngụ tình,… Cho ta thấy được tài năng của tác giả.
Xem thêm: Cảm nhận về 6 câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân
Bài văn mẫu 2:
Khi nhắc tới bút pháp sử dụng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người ta thường nhắc nhiều về bút pháp miêu tả nội tâm cực kì xuất sắc mà ông đã thể hiện trong mỗi nhân vật của mình. Thế nhưng, người đọc chúng ta mỗi khi đọc đến đoạn trích "Cảnh ngày xuân" thì cũng không khỏi thán phục trước nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên vô cùng sống động, tươi đẹp, trong sáng mà ông đã dùng để vẽ lên bức tranh xuân trong đoạn trích này. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ấy quả thực đẹp đẽ đến vô cùng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du.
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" được trích trong phần đầu của Truyện Kiều. Đây là đoạn trích kế tiếp sau đoạn miêu tả lại vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, tập trung miêu tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân trong tiết Thanh minh khi chị em Kiều đi du xuân.
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, chúng ta đã cảm nhận được ở đó có một sự tươi đẹp, thanh bình, yên ả đến lạ trong từng câu chữ:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thật sống động bằng chất liệu ngôn từ thật đẹp. Với vài nét bút thôi, ông đã mở cho chúng ta thấy cả một bầu trời xuân với hoa với cỏ với chim chóc ngập tràn khắp muôn nơi.
Ở câu thơ mở đầu, người ta thấy một không gian, thời gian đang chảy trôi cùng với sự chuyển động của sự vật. Những cánh én chao lượn trên bầu trời xuân, trong cái khoảnh khắc tươi đẹp ấy, từng đàn én ấy thật nhộn nhịp, thật rộn rã, như là một đàn thoi đang dệt lên khung cảnh ngày xuân vậy.
"Ngày xuân con én đưa thoi"
Chỉ bằng một nét vẽ thôi, Nguyễn Du đã gợi ra bức tranh thiên nhiên ngày xuân thật rạo rực, thật đông đúc với hàng đàn én lượn khắp trời. Bởi én là loài chim của mùa xuân, báo hiệu mùa xuân về, biểu tượng cho sự ấm áp, cho sự vui tươi.
Hình ảnh cánh én còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho những cảm nhận về sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân đẹp đẽ, tươi sáng vô ngần nhưng cũng vội đến vội đi như cánh én chao liệng trên bầu trời. Chẳng vậy mà ngay câu thơ thứ hai, Nguyễn Du đã nói rằng:
"Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"
Cả mùa xuân của "chín chục" ngày, vậy mà bây giờ đã là "ngoài sáu mươi". Quả thật, mùa xuân đang trôi đi thật nhanh, ánh sáng của mùa xuân đang trôi đi nhanh quá! Ở câu thơ này, Nguyễn Du đã khéo léo đẩy chữ "thiều quang" - "ánh sáng đẹp" cũng có nghĩa là ánh sáng của mùa xuân lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự chảy trôi qua nhanh của thời gian. Một mùa xuân tươi vui, ấm áp đang dần qua đi, tuy những cánh én vẫn đang còn chao lượn khắp trời nhưng chẳng mấy chốc, mùa xuân sẽ qua đi. Sau này, Xuân Diệu cũng đã nói về mùa xuân với sự tiếc nuối xuân đi qua nhanh y như thế, xuân qua nhanh, tuổi trẻ cũng qua nhanh, thời gian cũng dần ngắn lại. Phải chăng đây là sự đồng cảm của những trái tim đa cảm đang đồng điệu cùng nhau?
"Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất"
Bằng những câu chữ mượt mà mang đầy hình ảnh của mình, Nguyễn Du đang vẽ lên bức tranh thiên nhiên ngày xuân buổi sáng sớm thật tươi tắn. Không gian mùa xuân cứ dần được gợi mở dưới nét vẽ tài hoa của ông. Vậy nên trong câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã trải nét bút của mình để tạo nên một triền cỏ non xanh mát của mùa xuân:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Nếu ở trên cao, từng đàn én đang chao lượn thì ở dưới mặt đất, từng ngọn cỏ xanh non đang trải ra, lan ra rộng khắp nơi. Màu xanh tươi mát của đám cỏ mới nhú, màu xanh ấy trải ra mênh mông, bát ngát đến tận chân trời. Một đồng cỏ thật mênh mang quá đỗi bởi ở đây Nguyễn Du đã khéo léo đặt vào giữa câu thơ một từ "tận". "Tận" tức là mãi đằng xa, hút tầm mắt, "cỏ non xanh tận chân trời" tức là thảm cỏ non mùa xuân ấy kéo dài tới tận đường chân trời, tạo nên một không gian mênh mông toàn màu xanh tươi mát, kéo dài vô tận. Cái "tận" ấy cũng gợi lên khung cảnh rộng lớn, bao la của mùa xuân, của những cảnh vật mùa xuân.
Không chỉ vậy, trên nền cỏ xanh tươi mơn mởn ấy, điểm xuyết là những bông hoa lê trắng muốt. Hai màu xanh - trắng hòa quyện vào nhau cành gợi lên một sự sống động đến khó tả. Không phải một vài bông hoa điểm trắng trên cành lê mà lại là "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Nguyễn Du đã tinh tế đảo ngược "điểm trắng" thành "trắng điểm" để nhấn mạnh màu sắc nổi bật của những bông hoa lê trên nền cỏ màu xanh. Hơn thế, ông còn đặt chủ thể "cành lê" lên đầu câu để gợi tả sắc trắng của những đóa hoa đang tô điểm trên nền cỏ xanh của bức tranh màu xuân. Chỉ "một vài bông hoa" trắng nhỏ xinh thôi nhưng lại mang đến cho không gian xuân sắc của chúng ta thêm thanh khiết, trẻ trung, lại nhẹ nhàng, thanh đạm.
Bằng bút pháp ước lệ cổ điển và bút pháp chấm phá, Nguyễn Du đã khéo léo vẽ lên cho người đọc chúng ta một bức tranh thiên nhiên ngày xuân buổi sáng sớm thật tươi đẹp, thật nhã nhặn, nhưng không kém phần trẻ trung tràn ngập sắc màu.
Trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân", tác giả Nguyễn Du còn khắc hoạ bức tranh lễ hội nhộn nhịp với người xe đan xen cùng cảnh vật. Nguyễn Du đã mở lời bằng một câu thơ như một lời thông báo tới người đọc chúng ta:
"Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh"
Thanh minh vốn là một dịp lễ tết cổ truyền của dân tộc ta. Đó là khi con cháu trong nhà cùng nhau viếng mộ, sửa sang mộ phần, cúng bái tổ tiên để bày tỏ lòng thành kính của mình. Cùng với lễ tảo mộ đó cũng là dịp để mọi người cùng đi ngắm cảnh ngày xuân, cùng nhau thưởng thức cảnh đẹp ngày xuân với "yến anh" sum vầy. Nguyễn Du đã dùng tám câu thơ liên tiếp để gợi tả lên không gian ngày xuân trong tiết Thanh minh khi mà mọi người đều sắm sửa cùng nhau tảo mộ người thân.
Từng đoàn người nô nức kéo nhau đi. Người đi tảo mộ, người lại chọn được vui chơi. Các tài tử, giai nhân cũng đua nhau sắm sửa áo quần ngựa xe để cùng được tham gia vào lễ hội ngày xuân. Không khí ấy thật nhộn nhịp, vui tươi, đầy phấn khởi. Trong không khi của sự tấp nập ấy, phảng phất trong gió là những tro tiền giấy vàng bay.
Một bức tranh tảo mộ quê hương được Nguyễn Du gợi tả lên thật chân thực, sống động biết bao. Bức tranh tảo mộ ấy vừa có nét vui tươi, rộn rã của lớp con cháu, vừa mang nét man mác buồn phảng phất của lớp người đã khuất.
Bức tranh thứ ba, Nguyễn Du miêu tả trong đoạn trích là bức tranh thiên nhiên cảnh chiều tà lúc chị em Thúy Kiều ra về sau lễ hội:
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang".
Tiệc nào mà lại chẳng có lúc tan, sau những phút giây náo nức hội hè, chị em Thúy Kiều cũng phải quay về nhà. Hai chị em thơ thẩn bước từng bước chân theo con suối nhỏ, vừa nhìn ngắm cảnh vật bên đường vừa dồn bước trở về nhà.
Trong sáu câu thơ liên tiếp, ở câu thơ nào, Nguyễn Du cũng đặc biệt sử dụng từ láy. Các từ láy "thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ" vừa gợi cho chúng ta về cảnh vật xung quanh hai người cũng vừa gợi ra tâm trạng của con người. Trong cảnh vật ấy, người ta thấy một cái gì đó mơ hồ, mờ nhạt, vương chút buồn trên cảnh sắc xung quanh. Nguyễn Du ở đây đã sử dụng thủ pháp tả cảnh ngụ tình, tả phong cảnh nhưng ẩn chứa bên trong lại là tâm trạng của con người với một chút bâng khuâng, mơ hồ và trầm mặc. "Thanh thanh": sự nhẹ nhàng, thanh thoát lại mang chút màu xanh trầm trầm, "nao nao" diễn tả con nước với dòng chảy quanh co, cùng gợi lên tâm trạng con người. Cảnh vật và lòng người dường như đang giao hòa trong không khí bâng khuâng, lưu luyến, thoáng một chút mơ hồ về một dự cảm chẳng lành.
Bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du đã vẽ nên cho người đọc thấy được bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời của mùa xuân trong tiết Thanh minh. Đoạn trích được kết cấu vô cùng hợp lý với phần mở đầu, diễn biến và kết thúc cùng với các bút pháp nghệ thuật được sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn như tả cảnh ngụ tình, chấm phá, lấy điểm tả diện, ... Là một bức tranh thiên nhiên mùa xuân, nhưng nó vẫn được Nguyễn Du lồng vào đó những biểu cảm, những tự sự và những dự cảm của mình về số phận của con người. Phải nói, đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một trong những đoạn trích miêu tả thiên nhiên đặc sắc và điêu luyện nhất của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn trích, người đọc không khỏi trầm trồ trước bức tranh thiên nhiên ngày xuân được vẽ lên bằng thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với đoạn trích này, Nguyễn Du đã khẳng định được tài năng cũng như bút pháp của một nhà thơ đại tài của dân tộc. Và đoạn trích "Cảnh ngày xuân" cũng như Truyện Kiều sẽ luôn là những tác phẩm đặc sắc nhất trong nền thi ca Việt Nam.
Bài văn mẫu 3:
“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông.
Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
“ Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”.
Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” …
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” của Xuân Diệu sau này) “thanh thanh” vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,... Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).
“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, “Cảnh ngày xuân” sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.
Tham khảo thêm:
*****
Hy vọng rằng bài hướng dẫn cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích Cảnh ngày xuân trên đây sẽ giúp các em hoàn thành bài làm của mình một cách hoàn thiện và thuận lợi. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu lớp 9 khác được cập nhật thường xuyên tại doctailieu.com. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!