Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Xuất bản: 13/04/2019 - Cập nhật: 12/08/2022 - Tác giả:

Hướng dẫn cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, lập dàn ý chi tiết và tham khảo một số bài văn hay phân tích, cảm nhận nội dung bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

Tài liệu hướng dẫn cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử do Đọc Tài Liệu biên soạn cung cấp gợi ý chi tiết giúp em làm tốt các bước phân tích đề, lập dàn ý và sơ đồ tư duy kèm theo một số mẫu bài văn tham khảo hay.

    Cùng xem ngay...

I. Hướng dẫn cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)

Đề bài: Trình bày cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

1. Phân tích yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: phân tích và nêu cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).

- Phương pháp lập luận chính: phân tích, nêu cảm nhận.

2. Hệ thống luận điểm bài cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

- Luận điểm 1: Cảm nhận bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế

- Luận điểm 2: Cảm nhận bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ trong sự chia lìa, xa cách

- Luận điểm 3: Cảm nhận về tâm trạng của tác giả.

II. Lập dàn ý chi tiết cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Dựa trên hệ thống luận điểm vừa liệt kê, các em có thể triển khai dàn ý chi tiết như sau:

1. Mở bài cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

- Giới thiệu đôi nét về Hàn Mặc Tử

+ Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) là nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho phong trào Thơ mới 1932 - 1940.

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ:

+ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử nằm trong tập "Thơ điên" (hay "Đau thương") được chính nhà thơ tập hợp lại vào 1938.

+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đã mắc căn bệnh nan y. Thi phẩm được in trong tập Thơ điên, được khơi nguồn cảm hứng từ tấm bưu ảnh mà Hoàng Thị Kim Cúc (cô gái thôn Vĩ mà thi sĩ đã yêu, một mối tình đơn phương) gửi cho ông.

+ Bài thơ là bức tranh đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ, bộc lộ khát khao được sống, được yêu và được giao hòa với thiên nhiên.

2. Thân bài cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử kết hợp với nêu cảm nhận của cá nhân về từng nội dung trong bài thơ theo trình tự luận điểm sau đây:

a) Luận điểm 1: Cảm nhận bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế (khổ 1)

- “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

-> Câu thơ mở đầu vừa là lời mời mọc ân cần, tha thiết, vừa là lời trách cứ nhẹ nhàng

=> Hàn Mặc Tử tự phân thân ra để hỏi mình đồng thời vừa mời mọc, trách móc với cả một niềm tiếc nuối. Một cuộc hành trình trở về thăm thôn Vĩ trong tâm tưởng của Hàn Mặc Tử đã bắt đầu từ đó.

- Cảnh vật và con người xứ Huế hiện lên một cách nhẹ nhàng, tinh khiết, đầy sức sống.

+ Nắng mới lên, nắng hàng cau -> Nắng vàng hanh, mượt mà, long lanh, tinh khiết buổi bình minh.

+ Vườn xanh như ngọc -> màu xanh thẫm như một viên ngọc lớn.

+ Lá trúc che ngang mặt chữ điền -> Con người thôn Vĩ xuất hiện với vẻ đẹp phúc hậu, hiền từ.

=> Nghệ thuật cách điệu hóa tạo nên hình ảnh của thôn Vĩ và con người xứ Huế thật dịu dàng, phúc hậu. Sự xuất hiện của hình ảnh con người rất nhỏ nhoi nhưng khiến chúng ta cảm nhận là một người rất xinh đẹp.

b) Luận điểm 2: Bức tranh thiên nhiên trong sự chia lìa, xa cách (khổ 2)

- Miêu tả cảnh: gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay -> Hình ảnh thể hiện sự chia lìa

- Không gian mờ ảo đầy hình ảnh của trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền chở trăng.

-> Sự u buồn, lạnh lẽo, xa cách cuộc đời mình với cuộc sống và thiên nhiên

- Tâm trạng khắc khoải, đợi chờ của nhân vật trữ tình: “Có chở trăng về kịp tối nay?”

c) Luận điểm 3: Tâm trạng của tác giả (khổ 3)

- Sự ảo mộng của cảnh và người: Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

- Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

- Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

-> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

d) Đánh giá về nghệ thuật

- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ,…

- Hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo

- Kết hợp giữa bút pháp thơ tả thực và lãng mạn, tượng trưng.

3. Kết bài cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

- Nêu cảm nhận chung của em về bài thơ.

4. Sơ đồ tư duy cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

So do tu duy cam nhan bai tho Day thon Vi Da

Phân tích, cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ bằng sơ đồ tư duy

III. Danh sách top 5 bài văn hay cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Dưới đây là top 5 bài văn cảm nhận về bài Đây thôn Vĩ Dạ hay và đặc sắc dành cho các em tham khảo để nắm được phương pháp làm và mở rộng vốn từ ngữ trong quá trình làm bài. Cùng xem ngay nhé!

1. Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ bài số 1:

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng lời, tha thiết không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ tình là gốc, lời là cảnh, thanh là họa, nghĩa là quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu có vần chứ không làm được nhà thơ. Đồng thời, thơ ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà nó được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời.

Hiện lên như một “ngôi sao chổi” xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình, Hàn Mặc Tử đến với thơ, với đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi giữa cõi thực và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh hằng.

Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ, và có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn để góp vào vườn thơ Hàn “rộng không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không khỏi thổn thức:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

....

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu, có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 - 1945. Thế giới thơ ông đầy bí ẩn, phức tạp, luôn đan xen giữa những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong đó hình ảnh trăng, hoa, nhạc luôn chan lẫn với hình ảnh hồn, máu, yêu ma nói như Hoài Thanh: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn lạnh…”.

Sự nghiệp thơ ca của Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… vì vậy những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Vườn thơ của ông có lẽ được xếp vào loại “siêu”: siêu thực, siêu thức và siêu thoát nhưng đọc thơ ông nào đã thoát, rốt cuộc vẫn lơ lửng, vẫn còn đó một câu hỏi lớn: “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập “Thơ điên” (1938), toàn bộ thi phẩm là tiếng lòng vừa tha thiết mê đắm, vừa đau đớn tuyệt vọng của một thi nhân yêu đời da diết mà phải vĩnh viễn rời xa cuộc đời bởi bi kịch éo le và vô vọng.

Tại trại phong Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã nhận được tấm bưu ảnh chụp cảnh bến Vĩ Dạ cùng lời thăm hỏi của Hoàng Cúc. Chính bức ảnh cùng lời hỏi thăm đó đã gợi lên trong lòng nhà thơ kỉ niệm về một miền quê và người con gái trong mối tình đơn phương, cũng bởi vậy mà mỗi vần thơ thấm đượm nỗi buồn sâu sắc. Thôn Vĩ Dạ là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Hương, đây là nơi nghỉ ngơi của những quan lại, viên chức về hưu nên cuộc sống nơi đây vô cùng bình yên, no đủ và thơ mộng với những vườn cây xum xuê, những ngôi nhà xinh xắn,... Từ xa xưa Vĩ Dạ đã đi vào thơ ca bởi vẻ đẹp thi vị, tiêu biểu cho cảnh sắc xứ Huế:

“Du khách bảo đây vườn kín đáo

Đây xứ mơ màng đây xứ thơ”

Hay nhà thơ Bích Khê đã từng viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc tre cần chúc không buồn mà say”

Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ vốn là đặc trưng của “Thơ điên” với những “đứt đoạn”, “cóc nhảy”. Có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau). Hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói)... Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, “vô kỉ luật”. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ “hàng chữ gấm” sang “đôi mắt mờ lệ”. Dường như Hàn Mặc Tử đưa ta từ cõi thực đến cõi mộng rồi chìm đắm vào hư vô lúc nào không hay.

Câu hỏi mở đầu chủ yếu là thanh bằng khiến lời thơ thật nhẹ nhàng, êm ái như nghe văng vẳng bên tai giọng nói của người con gái xứ Huế ngọt ngào:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đại từ “anh” gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng đó là sự phân thân của nhân vật trữ tình, thi nhân tự vấn lòng mình “sao lâu quá rồi mà chưa một lần về thăm thôn Vĩ?” như nhắc nhở đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà cũng chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nó nữa không, ấy là về lại với thôn Vĩ, về thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Có người lại cho rằng đó là lời của Hoàng Cúc đang hỏi dịu dàng, kín đáo nhưng ẩn sau trong đó là lời trách móc “Thôn Vĩ đẹp sao anh chẳng về chơi?”.

Hàn Mặc Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó mang sắc thái thân mật, gần gũi thay vì chỉ mang vẻ xã giao, có khoảng cách như hai chữ “về thăm”. Chẳng phải vô tình mà nhà thơ viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hoàn toàn với “chưa về”. Nó dường như khép lại mọi nẻo đường về thôn Vĩ, cộm lên biết bao xót xa vì giờ đây thôn Vĩ chỉ còn trong hoài niệm của quá khứ xa vời. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn Mặc Tử với thế giới ngoài kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến cho nhà thơ vô cùng cô đơn, tuyệt vọng. Hơn nữa, hai chữ “không về” còn thể hiện rõ được tình cảm một phía của Hàn Mặc Tử với Hoàng Cúc. Đó là dòng sông một bờ mà phía bờ đó lại xuất phát từ Hàn Mặc Tử:

“Dòng sông anh tự đặt

Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông trôi vào lãng quên

Nước trong như nước mắt

Điều chưa thấy mà sao đã mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ

Phía bờ kia quay mặt

Dòng sông anh không qua được bao giờ”

Câu hỏi mở đầu mang nhiều sắc thái khác nhau, hỏi để mà trách nhưng lời trách thân mật, đáng yêu. Trách để mời mọc, để tiếc nuối. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào chữ “Vĩ” ở cuối cùng khiến cho nỗi buồn như đằm xuống thành nỗi nhớ vô hạn về cảnh và về người thôn Vĩ. Câu hỏi tu từ như cái cớ để nhà thơ gợi lại vẻ đẹp thi vị, nên thơ của thôn Vĩ Dạ.

Bắt đầu bằng câu hỏi đầy ẩn ý đã giúp nhà thơ mở ra khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ tinh khôi, sống động, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là “chốn nước non thanh tú”. Nhắc đến Vĩ Dạ, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh hàng cau, nó mang vẻ đẹp rất đặc trưng của nhà vườn xứ Huế. Cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam - nơi có tập tục ăn trầu từ ngàn đời.

Nguyễn Bính đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền phong cảnh có hình ảnh hàng cau quen thuộc:

“Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”

Bởi lẽ là loài cây cao nhất trong vườn Vĩ Dạ, cau được đón những tia nắng đầu tiên trong một ngày mới tràn đầy sức sống. Thơ Mới thường đem đến cho người đọc những cấu tứ, thi liệu mới mẻ. Ta đã bắt gặp trên diễn đàn thơ Mới nhiều màu nắng lạ, đó là cái nắng chang chang trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử:

“Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”

hay “Nắng trở chiều” trong thơ Xuân Diệu:

“Con đường nhỏ nhỏ nắng xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều”

Còn ở đây ta lại bắt gặp hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên”. Từ “nắng” được lặp lại hai lần cho ta cảm giác thôn Vĩ đang bừng sáng lên trong ánh bình minh. Đó không phải là ánh nắng nhạt buồn của hoàng hôn hay ánh nắng chói gắt của buổi trưa mà là ánh nắng mới mẻ, trong sáng và tinh khôi của buổi sớm mai làm ta liên tưởng đến câu thơ của Hồng Nguyên: “Có nắng chiếu đột kích mấy hàng cau”. Chi tiết ấy không chỉ gợi lên cảm giác trong trẻo, tươi tắn mà còn mở ra không gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai, là khoảnh khắc diệu kì khi làn sương mỏng trên lá cau chưa kịp từ biệt sau một đêm dài thì thi nhân đã bắt gặp những tia nắng ban mai tô điểm, đó là nắng ướt, nắng tươi, nắng long lanh, nắng thiếu nữ.

Cây cau xuất hiện trong vườn thôn Vĩ như cây thước của thiên nhiên để đo mực nắng như thầy Chu Văn Sơn từng viết: “Đốt cau như thước đo mực nắng trong vườn”. Phải yêu lắm, say lắm vẻ đẹp của đất trời, của thiên nhiên xứ Huế thi nhân mới chụp được khoảnh khắc đặc biệt ấy vào tâm trí mình. Nắng dường như làm bừng sáng cả khoảng trời kí ức của nhà thơ, nó lưu lại trong tâm hồn thi sĩ những kí ức không thể nào phai. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”, bước vào thơ Hàn ta như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt sắc đến cực tả của thiên nhiên cũng như con người.

Ở câu thơ tiếp theo, thi nhân đã chuyển điểm nhìn từ bầu trời tràn ngập ánh nắng xuống khu vườn phủ đầy một màu xanh lá, khu vườn ấy như hóa thành một viên ngọc lớn trong đôi mắt của thi nhân:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ như một tiếng reo vui đầy thích thú thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Câu thơ sử dụng một loạt các từ trong cùng một trường từ vựng: “mướt”, “xanh”, “ngọc” để miêu tả màu xanh non tơ, trẻ trung, tươi mới. Vườn Vĩ Dạ sau một đêm những chiếc lá cây được sương đêm lau chùi sạch sẽ giờ đây bỗng bừng sáng lung linh. Tác giả khéo léo sử dụng từ cảm thán “quá” - không chỉ là từ chỉ mức độ gợi vẻ đẹp thanh sạch của cây lá, nhà vườn xứ Huế mà còn bộc lộc cảm giác ngạc nhiên, đầy ngưỡng mộ, cùng với đó việc dùng tính từ “mướt” chứ không phải là “mượt” vì tính từ ấy ngoài chỉ sự nhẵn bóng còn gợi vẻ óng ả, mỡ màng.

Hai thanh trắc đứng liền nhau trong cụm từ “mướt quá” đã tạo ra ấn tượng mạnh về một tiếng reo, một cảm xúc bồng bột không thể kiềm chế. Vẻ đẹp của vườn cây còn được miêu tả qua phép so sánh độc đáo “xanh như ngọc” - đó là cách nói ước lệ nhằm lí tưởng hóa đối tượng thẩm mĩ, gợi ra màu xanh trong mướt, quý giá, cả vườn thôn Vĩ hiện lên như một viên ngọc óng ánh sắc xanh và tỏa ra không gian một màu xanh long lanh ánh sáng. Dường như trong thơ Hàn rất ưa dùng những vật liệu cao sang nhất là giai đoạn cuối đời.

Các trang thơ đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc được so sánh ở mức tuyệt đối:

“Đức tin thơm hơn ngọc

Thơ bay rồi thơ bay”

hay:

“Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc

Cả một mùa xuân đã hiện hình”

Nói về màu xanh ngọc bích, trước đó Xuân Diệu đã từng viết:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”

Sau này Nguyễn Tuân cũng dùng màu xanh ấy để nói về màu nước của con sông Đà vào mùa xuân. Tiếp đến là cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “vườn ai”, vườn Vĩ Dạ vườn nào mà chẳng đẹp, vườn nào mà chẳng tươi nhưng để có được vẻ đẹp khiến thi nhân say đắm như vậy chỉ có thể là vườn của người mình thương, mình nhớ. Hai chữ “vườn ai” không phải là câu hỏi để tìm chủ nhân khu vườn mà chỉ là cách thể hiện niềm vui sướng, niềm bất ngờ khi gặp lại dẫu chỉ là trong tưởng tượng mà thôi. Đại từ phiếm chỉ như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại cho cả câu thơ một chút nhớ nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã thuộc về thế giới khác, thế giới của ai đó ngoài kia chứ không còn thuộc về mình nữa…

Cuối cùng Hàn Mặc Tử khép lại khổ thơ bằng một nét vẽ thi vị về cảnh và người thôn Vĩ:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Từ một hình ảnh thật trong tấm bưu thiếp, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật độc đáo, thơ mộng, đẹp đẽ. “Mặt chữ điền” chỉ những người có khuôn mặt vuông vắn, đầy đặn ứng với đức tính thật thà, phúc hậu, Khuôn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được những cành trúc tô điểm, bóng dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn trong sự hài hòa giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động qua tạo nên nét đẹp e lệ, kín đáo, duyên dáng của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Song có lẽ đây là câu thơ gây nhiều tranh cãi bởi khuôn mặt chữ điền kia là đàn ông hay phụ nữ? Lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Dường như vườn thơ Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… bởi lẽ những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt hiểu, nhiều tầng nghĩa và cũng có nhiều cách hiểu. Có người cho rằng đó là khuôn mặt đôn hậu của người con gái xứ Huế, có người lại cho rằng đó là khung cửa sổ, là cổng nhà quý phái hay đặc biệt hơn cả đó chính là khuôn mặt của tác giả.

Tìm trong thơ Hàn, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu... thường là hình bóng tự hoạ của Tử, mà Tử vẫn có cái “thói” tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh:

“Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó

Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu”

Hàn Mặc Tử tự vẽ mình lên trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời”, “kẻ đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa lạ”, là kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Phải chăng đó là sản phẩm của mặc cảm chia lìa?

Đắm chìm trong cảnh sắc tươi đẹp của vườn thôn Vĩ chỉ là khoảnh khắc với Hàn Mặc Tử, để rồi khi tác giả chợt nghĩ đến hố sâu ngăn cản giữa mình với thôn Vĩ bởi chứng bệnh nan y như đang vẫy gọi án tử hình. Cũng vì vậy bài thơ đã có sự chuyển ý, “bật cóc” rất nhanh từ cảnh sắc vui tươi đã chuyển sang đau thương u hoài:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Cái lối chuyển tứ nhanh, có khi rất xa, có khi rất kì lạ song đó là một đặc điểm của thơ Hàn và khi “những đột xuất ấy lặp đi lặp lại với tần số cao sẽ tạo nên sự khó hiểu” (Vũ Quần Phương), quả thực là như vậy. Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ ta thấy bốn câu thơ khổ hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một, cả khu vườn hay khuôn mặt chữ điền kia cũng không hề được nhắc lại. Cảnh bây giờ đã hoàn toàn khác, nhưng cái tâm trạng vẫn một xa cách, vẫn một vắng vẻ.

Thấm đượm trong lời thơ là cảm giác buồn vắng, sầu tủi, chia lìa. Nhịp thơ 4/3 chậm rãi như ngắt câu thơ làm hai nửa, âm điệu dàn trải như đưa người đọc chìm đắm vào nỗi buồn hiu hắt cùng thi nhân, câu thơ khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Thế Lữ:

“Anh đi đường anh tôi đường tôi

Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi.”

Nhưng nếu như Thế Lữ nói trực tiếp lời nhân vật trữ tình thì Hàn Mặc Tử lại mượn hình ảnh để nói lên tiếng lòng. Dường như cảnh vật đang bắt đầu chia lìa, gió và mây đều có đường đi riêng cũng giống như sự chia li của mối tình đơn phương, vô vọng sớm muộn cũng tàn. Điệp từ “gió” và “mây” đã càng tô đậm sự chia lìa ấy. Gió thổi mây bay là quy luật tất yếu của tự nhiên nhưng cái tưởng như không thể chia cách ấy nay lại xa cách chia lìa, mỗi thứ một phương, gió một đường, mây một nẻo.

Những hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc độ của mây mà là để tạo ra một khoảng không gian khép kín chia rẽ đôi bờ xa cách. Nỗi đau đến tốt cũng đã thấm đượm vào cả không gian khiến cho dòng nước sông Hương cũng nhuốm màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” vừa làm hiện lên một dòng sông phẳng lặng như không trôi chảy, vừa gợi như làm ngưng đọng nỗi buồn. Thêm vào đó là động thái “lay” của hoa bắp chính là một nét buồn phụ họa vào khung cảnh bởi bản thân nó vốn dĩ chẳng mang nghĩa buồn hay không vui, ta cảm thấy dường như thật nhẹ nhàng, thật buồn.

Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã gợi lại nỗi buồn đến tê tái, thiên nhiên Huế vốn được ban tặng vẻ đẹp bình lặng, trầm tư mà giờ đây sàng lọc qua tâm hồn Hàn Mặc Tử đã trở thành nỗi buồn sâu tận đáy lòng. Có phải có một chữ “lay” buồn như thế từ bông sậy của dân ca đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử:

“Ai về giồng dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”

Có phải chữ “lay” ấy lại trôi nổi thêm nữa để đến với hiện đại nhập vào lá ngô của thơ Trúc Thông:

“Lá ngô lay ở bờ sông

Bờ sông vẫn gió người không thấy về”

Hàn Mặc Tử nhìn thấy hoa bắp lay như nhận ra sự phiêu tán, chia lìa. Tất cả gió, mây, dòng nước đều đang lưu chuyển, đều đang rời bỏ chốn này mà đi hết và bỏ rơi lại hoa bắp. Chỉ còn một mình, nó đang cố lay động như một sự níu giữ, một lưu luyến trong vô vọng của kẻ bị chia lìa.

Nếu cõi thực của kí ức trong khổ 1 thật trong trẻo, tươi tắn và rực rỡ với ánh nắng ban mai ấm áp thì đến khổ hai đã tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhòa, lạnh lẽo như thực, như mơ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Thơ Hàn Mặc Tử ngày là cõi nắng, đêm là cõi trăng. Hàn rất mê trăng, nó đã đi vào vườn thơ ông thật ám ảnh như một nhân vật huyền thoại, như một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được phiêu du, thoát tục:

“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”

hay:

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Anh cũng trăng mà em cũng trăng”

Còn ở đây Hàn Mặc Tử đã gợi ra một hình ảnh thật lạ, đó là một thế giới huyền diệu, nơi ấy có con thuyền chở trăng và có một bến sông trăng. Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng, thuyền mới chở được đầy trăng, đúng như lời nhận xét của Bích Khê: “Hàn Mặc Tử co con mắt rất mơ, rất ảo nhìn vào sự thực thì hóa sự thực hóa thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại biến thành huyền diệu”. Câu thơ của Hàn làm ta nhớ tới câu thơ rất mực tao nhã, phong lưu của Nguyễn Công Trứ:

“Gió trăng chứa một thuyền đầy

Củi kho vô hạn biết ngày nào vơi”

Cách diễn đạt phiếm chỉ “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác bóng tối lạnh lẽo như bao trùm lên dòng sông, lên cảnh vật, thi sĩ như khát khao có con thuyền chở trăng về, phải chăng là để chở những khát khao hy vọng đến khắc khoải về một sự gặp gỡ và hòa hợp? Chữ “kịp” trong câu thơ thứ 2 càng thấm thía nỗi tiếc nuối, xót xa, lo sợ khi luôn biết rằng chẳng bao giờ kịp nữa nhưng ông vẫn cố hỏi khiến tâm trạng trở nên bồn chồn, chua xót, bất lực. Hỏi chỉ để tiếc, để tự dày vò bản thân mình mà thôi. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương:

“Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

Sao bông phượng nở trong màu huyết,

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?”

Cụm từ “tối nay” càng làm thi nhân thêm khắc khoải bởi khi tối là khoảng thời gian cuối cùng của một ngày, “tối nay” lại mang ý nghĩa xác định khiến quỹ thời gian vốn ngắn ngủi nay lại càng ngắn ngủi. Chỉ có “tối nay”, chỉ còn “tối nay” nữa mà thôi, dường như với Hàn, sống là chạy đua với thời gian. Nếu như Xuân Diệu chạy đua với thời gian để sống tận hưởng và tận hiến hết mình, ông chỉ sợ thời gian cướp đi tuổi trẻ cũng như tình yêu thì ở Hàn Mặc Tử đang đứng ở giữa hai bờ sinh tử, lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng bởi vậy gã lo sợ từng khắc từng giờ sẽ sớm vĩnh viễn rời xa cõi đời. Trong cảnh ngộ ấy, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong mơ hồ. “Thơ là sự lên tiếng của thân phận”, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.

Đọc thơ Hàn Mặc Tử đôi khi khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của Lamartine, tứ thơ vừa lãng mạn vừa chứa đựng mầm mống của chủ nghĩa tượng trưng, nhiều lúc phát ngẫu, cõi lòng nhà thơ có khi như chìm đắm vào trong cõi sương mù bởi vậy cảnh trí ngoại giới được tái hiện chỉ có tính chất như những âm thanh của tâm hồn đó chính là kiểu thơ “Phong cảnh nội tâm” như trong bài “Tình hồ” có viết:

“Dưới đá sâu lòng hồ gào thét

Tự vỗ mình đau xiết tâm can

Gió xua bọt sóng miên man

Trên đôi chân đẹp của nàng dấu yêu.”

Thơ Hàn cũng vậy, mặc dù đang sống với cảnh mộng và sống với người trong mộng, câu thơ đang bồng bềnh phút chốc như trở nên hụt hẫng khi thi sĩ rơi về hiện thực của cuộc đời:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Khi không còn ánh nắng ấm áp, cũng không còn ánh trăng mộng ảo thi nhân đưa người đọc tới một cõi xa xăm, không gian đã chuyển sang hoàn toàn thế giới mộng ảo. Màu sắc, âm thanh, đường nét đều mờ nhòa, chỉ còn một bóng hình ai đó đang chập chờn xuất hiện, phải chăng đó là hình bóng xa xôi của một nữ sinh Đồng Khánh thuở nào… Chữ “mơ” đầu câu thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của thi nhân muốn được cảm nhận, gần gũi với những hình bóng, hơi ấm của con người và cuộc đời nơi trần thế song điệp từ “khách đường xa” trong hai vế câu như tái hiện hình ảnh con người nơi trần thế đang xa dần, mờ khuất dần trong ánh nhìn tiếc nuối mà vô vọng của thi nhân.

Hình ảnh người con gái xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng “em” rất mơ hồ. Em gần gũi đấy nhưng mà sao lại quá đỗi xa vời? Gần gũi vì đây là hình ảnh thường trực trong cõi lòng thi nhân, xa vời vì giữa hai người là khoảng cách thời gian cùng màn khói sương của quá khứ mờ ảo hay là vì xuất phát từ sự mặc cảm tự ti trong tình yêu:

“Em lớn quá làm sao anh giữ nổi

Nên lúc nào em muốn cứ xa anh!”

(Sechxpia)

Dường như bóng dáng em xa khuất chỉ còn đọng lại sắc áo trắng - một vẻ đẹp thánh thiện, tinh khôi đúng như Huy Cận từng viết:

“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,

Hôm xưa em đến, mắt như lòng.”

Hàn Mặc Tử muốn cực tả sắc trắng trong câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” ở độ tuyệt đối, tột cùng. Nó choáng cả không gian làm lập lòe cả thị giác. Ta dễ thường thấy trong thơ Tử hình bóng giai nhân bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ đẹp trinh khiết xuân tình và gắn vào làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, đôi lúc khiến câu thơ trở nên kì quặc: “chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Câu thơ của Hàn làm ta liên tưởng tới màu trắng trong thơ Xuân Quỳnh khi thi sĩ cảm thấy thời khắc xa cách cuộc đời đã đến gần:

“Người ta khuyên lúc này đừng suy nghĩ

Mà cũng đừng xúc động, lo âu.

Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu

Dường trong suốt một màu vô tận trắng.”

Hình ảnh “khách đường xa” đã trở về trong cõi mộng khiến nhà thơ ngơ ngẩn, bâng khuâng, Hàn như bất lực trước cuộc đời khi thấy nó mỗi ngày một xa dần tưởng như nắm bắt được rồi lại tuột ra khỏi tay…

Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, mơ mộng đến mấy rồi cũng phải quay lại thực tại, Hàn Mặc Tử cũng vậy, ông đã đến lúc phải quay về với thực tại u ám dù chẳng muốn chút nào, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mờ mịt chẳng biết tương lai ngày mai ra sao:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cụm từ “ở đây” đã vẽ ra hai không gian hoàn toàn đối lập. “Ở đây” là nơi nhà thơ đang sống, là không gian nghiệt ngã và tăm tối đang bủa vây xung quanh Tử tựa một lãnh cung nơi không có “niềm trăng và ý nhạc”, nơi có “người cung nữ nhớ thương vua”. Không gian ấy bây giờ chìm trong sương khói mông lung, lạnh lẽo của xứ Huế buồn lắm nắng, nhiều mưa. Dường như bóng dáng của người đang dần nhòa mờ “nhân ảnh” làm ta nhớ đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều:

“Con quay búng sẵn lên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Dù tất cả đều chìm vào ảo ảnh nhưng tâm hồn thi nhân vẫn luôn băn khoăn, day dứt với một câu hỏi:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Từ cõi hư vô ấy, câu hỏi cuối cùng vang lên như một nỗi xót xa, tuyệt vọng của một con người tha thiết mê đắm với cuộc đời, khao khát bộc lộ tình yêu đời và khắc khoải tìm kiếm sự đồng cảm, đồng điệu. Câu thơ sử dụng đến hai lần đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng đến mối giao cảm của nhà thơ với người con gái xứ Huế. Chẳng biết thôn Vĩ có hiểu cho mối tình đơn phương mà tha thiết đó không? Chẳng hay người thôn Vĩ có tình cảm đậm đà với mình không? Đó là câu hỏi của tình yêu và cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu tha thiết như nữ sĩ Xuân Quỳnh đã từng viết:

“Anh có nghe hoa rơi

Quanh chỗ mình đứng đó

Hoa ơi sao chẳng nói

Anh ơi sao lặng thinh

Đốt lòng em câu hỏi:

Yêu em nhiều không anh?"

Câu thơ của Tử rất mơ hồ, một câu hỏi đã hàm ý vô vọng nhưng vẫn thể hiện được niềm khao khát của thi nhân. Hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn nói dẫu vô vọng nhưng thi nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai đó biết và thấu hiểu cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình người.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Biết bao ống kính thiên văn đua nhau chĩa về “ngôi sao chổi” kì lạ ấy, song tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Dù xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam vỏn vẹn 12 năm, song những gì ông để lại cho hậu thế là cả một vườn thơ “rộng không bờ, không bến, càng đi xa càng ớn lạnh”, càng thấy “nhọc” bởi lớp lớp tầng nghĩa của những vần thơ vẫn chưa được lật mở.

Ba câu hỏi ở ba khổ thơ là ba sắc thái tình cảm hoàn toàn khác nhau. Câu hỏi thứ nhất là để nhớ mong, tiếc nuối, câu hỏi thứ hai là khắc khoải, lo âu và câu hỏi cuối cùng cho ta thấy khát khao cũng như hoài nghi của thi nhân. Ba câu hỏi như sợi dây vô hình gắn kết các khổ thơ trong mặt cảm xúc thống nhất, bài thơ thể hiện một tâm hồn rạo rực tình đời, tình người tha thiết hướng về cuộc sống đến khắc khoải của thi nhân. Bài thơ đã để lại một bức tranh ngoại cảnh và tâm cảnh thật đẹp vương vấn mãi trong lòng người đọc như nhà thơ Thu Bồn đã viết:

“Xin chào Huế một lần anh đến

Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

Em rất thực mà nắng thì mờ ảo

Xin đừng lầm em với cố đô”

(Nguồn fanpage: Thích văn học)

2. Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ bài số 2

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là tác phẩm nổi bật nằm trong tập “Thơ Điên” đại diện cho hồn thơ mãnh liệt và luôn sáng tạo dẫu xa lạ với đời thực của Hàn Mặc Tử. Sự sáng tạo ấy thể hiện ngay ở phần mở đầu của bài thơ khi tác giả lại chọn một câu hỏi tu từ để dẫn dắt người đọc vào bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự của Vĩ Dạ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu thơ đầu là lời tự sự chạy theo dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Đôi chút trách móc, giận hờn cũng là nghệ thuật để tôn lên nét duyên của người con gái. Hoặc có chăng đây chính là lời tự vấn khi từ "anh” được dùng như đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất thể hiện sự nuối tiếc muốn giãi bày. Chính vì giọng thơ rất duyên Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được đượm chút buồn để rồi kết thúc bằng một dấu chấm hỏi lưng chừng.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ bắt đầu hiện lên rõ nét qua từng hình ảnh thơ cụ thể của tác giả. Từ “nắng” được lặp lại hai lần trong cùng một câu thơ khiến cả thôn Vĩ Dạ như được tắm mình trong màu nắng vàng ấm áp, ấm như chính lòng người nơi đây. Nhà thơ đã đặc biệt miêu tả về hình ảnh “nắng mới lên” như muốn gợi đến sự thanh khiết, tinh tươm của cảnh vật chốn quê nhà.

Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ không chỉ có “nắng hàng cau” trải dài từng vệt ấm mà còn tươi mới với màu xanh của cây cối nơi đây. Màu xanh được so sánh với màu ngọc như một phép nghệ thuật khéo léo tôn lên vẻ trân quý của bức tranh thiên nhiên xứ mộng mơ. Câu thơ thứ ba nổi bật lên nhờ vào giọng thơ đầy sắc thái ngạc nhiên pha lẫn thích thú của tác giả. Chính vì thế mà người đọc như được bước vào không gian nghệ thuật mà nhà thơ xây lên.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Thiên nhiên dẫu đẹp đến đâu thì cũng sẽ trở nên vô hồn nếu thiếu đi bóng dáng con người. Do đó mà câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hồn của cả đoạn thơ khi vẻ đẹp con người được miêu tả hòa quyện cùng cảnh vật thiên nhiên.

Ở đây, tác giả đã vô cùng tinh tế khi đưa hình ảnh con người vào bức tranh thiên nhiên một cách thấp thoáng, vừa thực vừa ảo với gương mặt chữ điền vốn là biểu tượng của sự phúc hậu và vừa gần gần vừa xa bởi sự che ngang của lá trúc. Tại sao lại là lá trúc mà không phải bất kì loại lá nào, vì trúc với dáng lá thanh mảnh tượng trưng cho cái đẹp nhẹ nhàng của thiên nhiên.

Có thể nói, khổ thơ đầu chính là một bức tranh thiên nhiên đẹp đúng với vẻ mộng mơ của xứ Huế. Từ đó, gợi lên nỗi niềm nhớ thương về quê hương của nhà thơ.

Khổ thơ thứ hai là sự chuyển biến nội tâm hoàn toàn của nhân vật trữ tình thông qua tứ thơ vận động theo cảm xúc.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ trên vốn tả cảnh nhưng lại nặng trĩu tâm tình khi tác giả mượn hình ảnh gió và mây để cụ thể hóa tâm sự nơi lòng mình. Gió và mây muôn đời vẫn quấn quýt bên nhau nhưng ở đây hai sự vật này lại chia đôi ngã “gió theo lối gió” để rồi bỏ lại “mây đường mây”. Tiếp đến là hình ảnh hoa rơi nước chảy càng khiến lòng người thêm não nề bởi cảnh vật sao mà vô tình thế khiến lòng người cũng chẳng mấy khá hơn. Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được mối tình đơn phương của chính chủ thể, chưa gặp đã vội chia lìa:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trăng với Hàn Mặc Tử là đôi bạn tri âm tri kỉ, trong thơ ông bao giờ cũng có cả một miền trăng như mượn hình ảnh đó để mà giải tỏa niềm đau, chất chứa tâm sự. Qua hình ảnh “sông trăng” độc đáo, dòng sông Hương được nhà thơ miêu tả với tất cả vẻ đẹp đằm thắm, thơ mộng. Bút pháp tả thực mà như ảo của nhà thơ đã khiến dòng sông quê hương không chỉ là một dòng nước mà đây chính là một dòng ánh trăng lấp lánh trải dài.

Kết thúc khổ thơ, Hàn Mặc Tử lại đặt một dấu chấm hỏi lưng chừng nhưng khắc khoải hi vọng. Từ “kịp” được tác giả sử dụng rất đắt, thể hiện tâm trạng lo âu của chính nhà thơ. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp vào tối nay thì sẽ còn những đêm khác, nhưng với nhân vật trữ tình này, đêm nào cũng có cảm giác là đêm cuối và nếu không kịp thì có lẽ ông sẽ ra đi mãi trong sự nuối tiếc.

Qua đó thể hiện rõ nét bi kịch của chính cuộc đời ông, đó là nỗi lòng khắc khoải tìm kiếm sự tri âm, thèm muốn được giao cảm với đời nhưng lại phải chống chọi với nỗi đau thể xác trong quỹ thời gian hạn hẹp còn lại của đời mình.

Bút pháp lãng mạn tượng trưng của ông không chỉ dựng lên không gian nghệ thuật độc đáo mà qua ngôn ngữ điêu luyện ông còn gửi gắm tâm trạng của chính mình.

Từ giọng thơ man mác, khắc khoải của khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử đã chuyển thành giọng gấp gáp ở khổ thơ cuối cùng.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá, nhìn không ra”

Bị cuộc đời tuyệt giao nhưng nhà thơ quyết không bao giờ chịu tuyệt tình, càng bị bỏ rơi ông càng tha thiết níu giữ dù đớn đau muôn phần. Lời gọi “Khách đường xa” được lặp lại như tiếng nấc nghẹn ngào đầy hụt hẫng của tác giả. Ông chơi vơi khi nghĩ về người thương nơi quê nhà để rồi phải mặc cảm trong sự chia li, tưởng chừng dáng người vừa hiện lên nhưng lại vội biến mất.

Hàn Mặc Tử đã cho người đọc cùng ông chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong quan niệm thơ mới của mình. Nếu như sắc trắng ở văn học trung đại là màu của sự tang thương, mất mát thì trong văn học hiện đại, nhà thơ đã nhắc đến nó như màu của sự tươi mới, tinh khôi.

Quan niệm văn chương mới mẻ này đã tạo nên một vẻ đẹp “nhìn không ra”, rất đẹp nhưng xa vời chẳng dễ dàng nắm bắt. Đây vốn là cái đẹp đáng để tôn thờ nhưng bi kịch thay lại tưởng chừng như sắp tuột khỏi tầm với của ông.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

Đắm mãi trong giấc mơ về con người Vĩ Dạ, nhà thơ cuối cùng cũng phải quay về với thực tại đầy “sương khói”. Đây là sương khói của Huế thương hay là sương khói của dòng thời gian khiến mọi thứ trở nên “mờ nhân ảnh”. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng dễ dàng cảm nhận được rằng nhà thơ vẫn muốn thoát mình khỏi nỗi cô đơn, sự đau đớn giày xéo mãi một thân xác bệnh tật.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” kết thúc bằng câu hỏi đầy khắc khoải vô cùng thương xót. Động từ phiếm chỉ “ai” vang lên khiến lòng người lắng đọng bởi cảm giác hụt hẫng của cô gái ấy hoặc cũng có thể của chính nhà thơ. Dù bài thơ khép lại bằng nỗi buồn mênh mang nhưng lại cháy lên mãnh liệt ngọn lửa yêu đời, yêu người nhà thơ.

Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận bằng một hồn thơ mãnh liệt nặng tình với cuộc đời, với cái nhìn mới mẻ của mình Hàn Mặc Tử đã mang một góc Huế thân thương dệt cùng nỗi lòng đầy tâm sự của mình. Trong cơn giằng xé giữa tâm hồn và thể xác đớn đau, nhà thơ đã mang đến cho chúng ta những vần thơ đầy xúc cảm, rung lên từng hơi thở nghẹn ngào từ sự đồng điệu của nhà văn và bạn đọc.

Xem hướng dẫn chi tiết cách lập dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để có định hướng nội dung tốt hơn cho bài văn của mình.

3. Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ bài số 3:

Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho "trường phái thơ loạn" xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín…

Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ anh có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn có pha chút ân hận.

Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Rồi con người xuất hiện:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình người.

Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, li tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (Nguyễn Du).

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên không khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.

Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm nhận.

Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện, áo em trắng quá nhìn không ra.

Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái "không đi đến đâu" trong tình yêu của Hàn Mặc Tử:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên bấy nhiêu.

Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sỹ tài hoa nhưng đa tình, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy.

Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.

So sánh liên hệ hai đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ và Tây Tiến để thấy những đặc sắc khác biệt trong hai tác phẩm ở cách miêu tả thiên nhiên và cách thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước.

4. Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ bài số 4

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Các sáng tác thơ của ông là tiếng lòng của một tâm hồn thiết tha yêu cuộc sống, mang khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khi tác giả đang phải điều trị bệnh phong. Bài thơ đã thể hiện nổi bật và sâu sắc một hồn thơ tha thiết với đời.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh vườn thôn Vĩ sáng trong nắng mai với cảnh sắc đẹp một cách bình dị:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi tu từ đầu tiên đặt ra cho độc giả nhiều thắc mắc. Có người cho rằng, câu thơ này xuất phát từ lời trách móc, nhưng đó hay chăng cũng là một lời mời nhẹ nhàng mà tình tứ. Câu hỏi gợi ra hình ảnh thôn Vĩ bình dị, tràn đầy sức sống trong tâm thức của nhà thơ. Đây cũng như là câu hỏi mà nhà thơ đã phân thân ra để hỏi chính bản thân mình. Hình ảnh nắng mới tràn đầy sức sống, khu vườn được hứng trọn những tia sáng tinh khôi nhất của đất trời. Màu sắc của khu vườn được lột tả qua từ “mướt”, qua đó gợi những sức sống mạnh mẽ của cảnh vật.

Không gian được tràn ngập ánh sáng, ánh sáng như mang sự sống gieo vào tất cả cảnh vật, cảnh vật đơn sơ mà lại vô cùng lộng lẫy. Hình ảnh thơ ở cuối khổ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” gợi lên hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Khuôn mặt ai duyên dáng sau cành lá trúc, gợi một chất tạo hình cho thơ đậm chất cổ điển, tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người nơi thôn Vĩ. “Mặt chữ điền” thường được nhắc tới khi nói về người có khuôn mặt phúc hậu, cũng có thể được hiểu đó là khuôn mặt trở về thăm thôn Vĩ, đang say đắm trước vẻ đẹp thiên nhiên của khu vườn và cảnh vườn thôn Vĩ cũng là hình ảnh cuộc đời, như một thiên đường trần gian.

Cảnh trời mây buồn và sông nước đếm trăng vừa thực, vừa ảo cứ chập chờn chuyển hóa trong khổ thơ thứ 2:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Những mặc cảm chia lìa đã hiện ra qua từng câu chữ. Hai câu thơ diễn tả thực trạng chia lìa, không có sự ràng buộc, không có sự gắn kết. Nỗi buồn chia lìa của gió mây đôi ngả đã thấm vào dòng nước và hoa bắp lay. Trong tâm trí của thi sĩ lại xuất hiện một khao khát. Ông coi trăng như một tri âm, một niềm tin cậy. “Thuyền” và “trăng” là những hình ảnh đầy chất thơ, ảo huyền trong cõi mộng.

Câu thơ cuối là một câu hỏi đầy tâm sự. Tại sao lại dùng từ “kịp”? Có phải không kịp thì tất cả sẽ trở thành muộn màng, phải chăng thi sĩ đã dự cảm về một kết thúc đau thương của mình, chữ “kịp” như chất chứa bi kịch tâm hồn của tác giả. Nó hé mở cho người đọc về cảm nhận và tâm thế sống của Hàn Mặc Tử: cảm nhận về một hiện tại ngắn ngủi và sống là chạy đua với thời gian.

Nỗi niềm khắc khoải đã hiện rõ trong khổ thơ cuối của bài:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Giấc mơ ấy là niềm mong ước, tận cùng là hình bóng của “khách đường xa” đã trở nên xa xôi quá. Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra”, mới đọc ta cảm giác khó hiểu, trắng quá là cách nói đầy cảm xúc để tả sắc trắng của áo em, tạo nên một cách nói ấn tượng để cực tả sắc trắng, màu trắng đã trở thành ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Trong bài thơ này, vẻ đẹp của chiếc áo trắng tinh khôi như một vẻ đẹp đang tôn thờ, hình ảnh người con gái càng đẹp, càng tinh khiết thì lại càng xa vời. Cuối bài thơ xuất hiện từ để hỏi và đại từ “ai”, như khép lại bài thơ một cách ngậm ngùi, bởi tình người quá mong manh và xa vời. Câu thơ nhuốm màu hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ai đó. Đây là sự hoài nghi của một người rất yêu đời, yêu cuộc sống, cũng chính là uẩn khúc của một người có tấm lòng thiết tha với đời.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã giúp người đọc cảm thông với khát vọng và nỗi đau của tác giả. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng nhưng lại phải chịu một cuộc đời ngắn ngủi, một số phận bất hạnh. Nhưng, ông vẫn luôn giữ một niềm yêu đời, khát khao sống và thiết tha với cuộc sống.

5. Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ bài số 5:

Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử, được sáng tác vào năm 1938, in lần đầu trong tập “Thơ điên”. Khi viết bài thơ này Hàn Mặc Tử đang trong giai đoạn bệnh nặng, cả thể xác lẫn tinh thần bị đau đớn và bệnh tật giằng xé. Nhưng thể hiện qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” ta chỉ thấy một chất thơ nhẹ nhàng, một hồn thơ khao khát yêu thương, bệnh tật dường như không thể chạm đến tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, hình ảnh gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, “Đây thôn Vĩ Dạ” vẽ lên một bức tranh đẹp về một miền quê Việt Nam cũng như qua đó gửi gắm tiếng lòng tha thiết yêu đời, yêu người của tác giả.

Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn ở thôn Vĩ Dạ. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi vừa như lời trách cứ nhưng lại nhẹ nhàng, dịu ngọt như một lời mời. Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo, uyển chuyển, ngọt ngào như nét duyên của người con gái. Qua lời mời gọi dịu dàng, tác giả đưa ta đến với một bức tranh thiên nhiên nhiên tuyệt mĩ của thôn Vĩ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Thôn Vĩ Dạ là một thôn làng thơ mộng nằm kề sát thành phố Huế bên bờ sông Hương. Qua ngòi bút tinh tế của tác giả, vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ hiện lên càng lấp lánh hơn, như một điểm nhấn của thiên nhiên. Đến với bức tranh thôn Vĩ Dạ, cảnh đầu tiên hiện ra trong tầm nhìn chính là “hàng cau”. Nhà thơ nói đến hàng cau trước tiên vì cau là một loài cây thanh nhã, ngay thẳng gợi lên sự bất khuất, thủy chung. Cau trồng thành hàng lối tạo nên vẻ đẹp chuẩn mực, ngay ngắn, giàu tính tạo hình, gây ấn tượng đẹp trong tâm trí người đọc.

Vẻ đẹp của hàng cau còn có thêm một chi tiết đẹp hơn tô điểm, đó là “nắng hàng cau”, “nắng mới lên”. Những hàng cau trồng theo hàng lối đón ánh nắng lấp lánh khiến cho ánh nắng dường như cũng trải dài, trải dài thành từng tầng sáng theo từng ngọn cau bao phủ lấy thôn làng ngõ xóm. Từ “nắng” ở đây lặp lại hai lần làm ta dường như cảm nhận được ánh nắng ấm áp lan tỏa khắp nơi, tạo nên sức sống cho bức tranh thôn Vĩ Dạ. Câu thơ thứ ba bật lên như một sự ngạc nhiên thích thú: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.

Bức tranh thiên nhiên không chỉ có ánh vàng của nắng mà còn có màu xanh tràn nhựa sống của cây lá hoa cỏ. “Mướt quá” gợi lên cho ta thấy sự tràn trề sức sống của cây cối xanh tốt. Màu “mướt quá” làm dịu đi trong ta những bụi bặm, khiến tâm hồn cảm thấy như tươi trẻ hơn. Màu xanh được so sánh với “ngọc” càng khiến cho bức tranh thiên nhiên dường như cao quý, thuần khiết hơn, không nhiễm bụi trần. Câu thơ cũng thoáng hiện lên hình bóng của ai đó qua thông tin “vườn ai” mà tác giả còn để ngỏ. Và để đến câu thơ tiếp theo, hình bóng ấy hiện ra một các rõ ràng hơn:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Hình bóng con người hiện lên làm cảnh vật dường như sinh động hẳn lên. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Thấp thoáng trong khu vườn xanh mướt lá, hiện ra một gương mặt “chữ điền” phúc hậu vừa thực, vừa ảo, vừa gần nhưng lại vừa xa bởi “lá trúc che ngang”. Gương mặt trong câu thơ như đang dõi theo bước chân người khách nhưng lại vô cùng dịu dàng, e ấp. Câu thơ đẹp vì có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Như vậy chỉ với vài nét chấm phá, Hàn Mặc tử đã phác họa được cảnh vật và con người ở thôn Vĩ Dạ một cách vô cùng sinh động, vừa quen thuộc gần gũi lại thi vị độc đáo. Đoạn thơ gợi lên trong tâm hồn người đọc bao nỗi niềm, cảm xúc về quê hương yêu dấu.

Khổ thơ thứ hai cho ta thấy một thế giới khác của Huế, một sự chuyển biến hoàn toàn về tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng ta dường như ta thấy nặng trĩu tâm tình. Hai câu thơ gợi cảnh chia li sầu não buồn đến não nề. Gió thổi mây bay thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Còn nữa, hoa rơi nước chảy còn sự việc nào vô tình hơn? Phải chăng là một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ yêu thương đã sớm chia li buồn tủi nên cảnh mới hòa vào lòng người mà sầu khổ, phân li. Điệp từ “gió” và “mây” càng nhấn mạnh thêm khoảng cách, sự xa cách. Hai câu thơ mang một nhịp điệu rất Huế, êm đềm, lững lờ mà trầm tư, man mác buồn.

Đặc biệt viết về Huế không thể thiếu ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Hình ảnh trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Ẩn dụ của tác giả thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng có thể không? “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi vô vọng không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng phập phồng.

Khổ thơ cuối có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại dường như cái vô vọng của mối tình đơn phương xa vời. Lúc này ở thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp với xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng tha thiết. Tác giả không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhòa đi: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo” chứ “nhìn không ra”. Chỉ biết đây là một hình ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, còn xa xôi là vì khoảng cách thời gian, không gian. Câu thơ còn có nét đặc sắc riêng khi nhắc đến chiếc áo trắng gợi cho ta nhớ đến những nữ sinh Huế mặc áo dài. Nét thanh khiết này làm ta hình dung rõ hơn về cô gái trong mộng tưởng.

Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Ở nơi tình cảm chỉ mờ như sương khói, cái tha thiết mong đợi của tác giả như đọng lại tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng vẫn để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ mà con là nỗi lòng của một con người với những tâm sự sâu lắng, với những khát khao yêu đời, yêu người. Hiện nay, theo nhiều đánh giá, bài thơ xứng đáng được xếp vào một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại.

Xem thêm:

Trên đây là những hướng dẫn làm bài chi tiết và một số bài văn hay trình bày cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Các em có thể tìm đọc thêm những bài văn mẫu lớp 11 đặc sắc khác tại mục tài liệu Văn mẫu 11 để mở rộng vốn từ ngữ và tự rèn luyện các kĩ năng làm văn. Chúc các bạn học tốt và đạt được điểm cao !

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM