Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ - Đọc tài liệu tổng hợp dàn ý chi tiết cảm nhận về bốn câu thơ cuối bài Thương vợ của Tú Xương, những bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo.
Có thể bạn quan tâm
: Chi tiết hướng dẫn soạn bài Thương vợ của Tú XươngDàn ý cảm nhận 4 câu cuối bài thơ Thương vợ
I. Mở bài
- Thương vợ được viết khoảng năm 1896 - 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giá rất quý trọng và có viết một số bài thơ về bà. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện ra phía trước, ỏng Tú khuất ở phía sau, nhìn kĩ mới nhận ra và hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ.
- Đặc biệt, bài Thương vợ thể hiện tấm lòng trân quý và biết ơn người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh cho chồng con.
II. Thân bài
1. Những đức tính cao đẹp của bà Tú
- Bà Tú là ngươi đảm dang, tháo vát, chu đáo với chồng con:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
- Trong hai câu 5 và 6, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
- Duyên một mà nợ hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng con.
+ Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo ("năm nắng mười mưa"), vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
2. Sự thương xót của ông Tú với vợ
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
- Trong hai câu 7, 8, giọng thơ như nguyền rủa thói ăn ở bạc bẽo của chính nhà thơ. Nhìn bề ngoài, quả thật ông chẳng những không chia sẻ với nỗi cực nhọc trong việc mưu sinh của gia đình, lại trở thành gánh nặng cho bà Tú, nên có cũng như không. Có vẻ như ông hờ hững, bạc bẽo đối với sự thật đáng chê trách.
- Lởi chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi "thói đời" bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân xâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng, tác giả lên án thói đời bạc bẽo nói chung.
III. Kết bài
- Xã hội xưa "trọng nam khinh nữ", coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là "quan ăn lương vợ", không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.
- Liên hệ với thực trạng đời sống hiện nay: người phụ nữ hiện nay, sự trân trọng của người đàn ông dành cho phụ nữ được cải thiện
Trên đây là dàn ý cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ , nhưng để các em học sinh hình dung ra được bài làm đầy đủ hơn với đề bài cảm nhận này, các em có thể tham khảo những bài văn hay được Đọc tài liệu tổng hợp dưới đây.
>> Xem thêm:
Văn mẫu Cảm nhận 4 câu cuối bài Thương vợ
Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.
Trong đó, ở 4 câu thơ cuối, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên - nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:
“Năm nắng mười mưa dám quản công”
Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm - một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một - hai và năm - mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết.
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời...” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.
>>Tham khảo thêm: Phân tích 2 câu kết bài Thương vợ - Tú Xương
Bài thơ độc đáo, đầy tình cảm “Thương vợ” dường như cũng đã lại thể hiện rõ phong cách nghệ thuật thơ Tú Xương cho dù nghiêm sang trọng nhưng vẫn hài hước, tự trào. Thông qua bài thơ người đọc như nhận thấy được một sự chân thành thấm thía của Tú Xương về cuộc đời về thời cuộc mà ông sống.
-----
Với đề bài Cảm nhận 4 câu cuối bài thơ Thương vợ bao gồm đầy đủ dàn ý chung và bài văn tham khảo, các em học sinh cần tìm hiểu kĩ càng để từ đó có thể xây dựng cho mình một bài văn cảm nhận chi tiết, độc đáo và ấn tượng.