Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Xuất bản: 14/06/2023 - Tác giả:

Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi bao gồm dàn ý và những bài văn mẫu bình giảng bài thơ Đất nước giúp học sinh có thêm tư liệu tham khảo.

Dàn ý Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

I. Mở bài

- Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Thi

- Ý nghĩa bài thơ: Bài thơ là những lời đúc kết suy ngẫm, cảm xúc của tác giả trong những năm tháng kháng chiến và những cảm xúc trân trọng, yêu thương của tác giả dành cho đất nước thân yêu.

II. Thân bài

1. Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của tác giả

- Từ cảnh của thu Việt Bắc, tác giả nhớ về thu Hà Nội

+ "Mát trong": trong lành, se se lạnh

+ So sánh hiện tại với quá khứ: đồng hiện

- "Hương cốm mới": Đặc trưng của mùa thu Hà Nội, len lỏi trong từng làn gió (so sánh với "hương ổi" trong thơ Hữu Thỉnh)

- "Nhớ": Hoài niệm về những năm tháng mùa thu còn ở Hà Nội

- "Chớm lạnh": vừa chạm khẽ vào cái lạnh, cái se se, hiu hắt đặc trưng của mùa thu.

+ Nghệ thuật sử dụng từ tinh tế, đậm chất mùa thu Hà Nội

- "Những con phố dài": đây là con phố Hà Nội cổ kính, "hơi may": từ Hán Việt nghĩa là gió lạnh: Cách sử dụng từ tinh tế, bơi nếu sử dụng từ "gió lạnh" sẽ làm mất đi không khí của mùa thu.

- Sự quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông của người con Hà Nội "đầu không ngoảnh lại"

+ Sự lưu luyến quê hương của người con Hà Nội: "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".

⇒ Ẩn trong là nỗi nhớ tha thiết quê hương cùng tình yêu Hà Nội nồng nàn

2. Mùa thu ở chiến khu Việt Bắc: Sự thay đổi tâm trạng của tác giả giữa quá khứ và hiện tại

- Câu thơ khẳng định: "Mùa thu nay đã khác rồi": thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi trước cuộc sống mới.

- "Tôi đứng nghe vui giữa núi đồi": ba động từ liên tiếp trong câu, thể hiện sự chú ý cao độ, đặt trọng tâm tuyệt đối hướng về đất nước.

- Hình ảnh "rừng tre" xuất hiện: biểu trưng cho con người Việt Nam

+ "phấp phới": từ láy tả hình ảnh, thường gợi lên hình ảnh của những vật mỏng, nhỏ bay trong gió

- Hình ảnh "trời thu" "trong biếc": mùa xanh của hi vọng, tự do cùng với âm thanh "nói cười tha thiết": niềm vui lan tỏa, tâm thế của những con người làm chủ đất nước

- Nhà thơ khẳng định niềm tự hào dân tộc, tự hào về đất nước giàu đẹp của mình. (so sánh với Bình Ngô đại cáo).

+ Lời thơ là sự khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định độc lập đất nước.

+ Điệp ngữ "đây"

+ Biện pháp liệt kê: khẳng định đất nước này mãi mãi là của dân tộc Việt

+ Điệp ngữ "chúng ta": khẳng định tinh thần đoàn kết dân tộc, lời tuyên ngôn chắc nịch.

⇒ Đoạn thơ mang cảm hứng sử thi, khẳng định chủ quyền dân tộc, nhân vật trữ tĩnh trong tâm thế tự do ngẩng cao đầu.

3. Hình ảnh của đất nước trong chiến tranh đau thương

- Niềm tự hào về truyền thống bất khuất của cha ông "nước những người chưa bao giờ khuất": những người con Việt cứ lớp này đến lớp khác đứng lên vì tự do dân tộc ⇒ Nhắc chúng ta nhớ về đạo lý "Uống nước nhớ nguồn".

- "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất": tiếng hồn của dân tộc "vọng nói về", mỗi đếm trải suốt bốn nghìn năm.

- Hình ảnh của đất nước trong đau thương, tang tóc:

+ Đối lập với hình ảnh thanh bình bên trên - hình ảnh dây thép gai

+ Nghệ thuật nhân hóa: cảm giác đau thương, căm phẫn nghẹn ngào

+ Hình ảnh "đêm dài hành quân" trở nên thi vị vì "nhớ mắt người yêu" ⇒Tình yêu đôi lứa hòa quyện cùng tình yêu đất nước, trở thành động lực phấn đấu cho Tổ quốc.

⇒ Hình ảnh đất nước trong chiến tranh đầy đau khổ

- Nhưng đau khổ hơn khi tác giả diễn tả sự độc ác, tàn bạo của quân thù "Bát cơm ... lột da"

⇒ Hoàn cảnh ấy đã rèn giũa lên những người anh hùng.

⇒ Sự tương phản giữa tội ác của giặc và sự đau thương, sức sống mãnh liệt của dân tộc ta góp phần khẳng định phẩm chất anh hùng. Khẳng định chân lý: yêu hòa bình, lòng yêu nước của dân tộc.

- Tiếp theo, Nguyễn Đình Thi khẳng định lại tinh thần chiến đấu kiên dũng, anh hùng của người dân Việt Nam, khẳng định lòng yêu nước nồng nàn.

4. Hình ảnh đất nước với khát vọng hướng tới tương lai

- Hình ảnh tương lai tươi sáng của dân tộc được xây đắp từ những đau thương

- Hình ảnh "trời đất mới", "bát ngát ánh bình minh": tượng trưng cho ngày mai tươi sáng của dân tộc

- Tác giả mượn hình ảnh "tức nước vỡ bờ" để miêu tả sự dữ dội của những con người đứng lên từ máu và nước mắt

- Kết bài thơ là "Nước Việt Nam ... sáng lòa": đây là hình ảnh so sánh đối chiếu tinh tế (bùn - sáng lòa): ngời lên ý chí và tinh thần của người Việt.

5. Kết luận chung

- Hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc lồng trong tinh thần yêu nước

- Lời thơ chứa chan niềm tự hào, tươi vui, tự hào truyền thống dân tộc.

- Mạch cảm xúc chuyển biến tinh tế, khi vui khi buồn

III. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề

Tham khảo thêm: Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Top 3 bài văn mẫu
Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

"Đất nước" là bài thơ thể hiện tình yêu của Nguyễn Đình Thi với một đất nước kiên cường, dũng cảm, về cuộc đấu tranh nhiều đau thương nhưng đầy huy hoàng, vẻ vang của dân tộc. Với những bài văn mẫu tuyển chọn dưới đây, hy vọng các em sẽ hiểu hơn về tình cảm của tác giả Nguyễn Đình Thi.

Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi - Bài mẫu 1

Nguyễn Đình Thi là một người có nhiều tài năng như là vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn, làm thư… Và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc nhưng đáng kể đến nhất đó chính là thơ ca. Trong thơ ông chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc về chiến tranh, về con người tình yêu đất nước. Đặc biệt ông có bài thơ đằm thắm và thiết tha khi viết về quê hương đất nước trong đau thương đã vùng lên chiến đấu và giành thắng lợi. Và Đất Nước là một bài như thế.

Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau.

Trước hết tới với những câu thơ đầu tiên nói về cảm xúc của mùa thu Hà Nội, đó là những câu thơ mang chan chứa tình cảm yêu thương và gắn bó của nhà thơ đối với quê hương mình:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi màu thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thèm nắng lá rơi đầy”

Câu thơ mở ra với không gian buổi sáng sớm tinh khôi. Tác gỉa đang đứng ở chiến khu Việt Bắc và nhớ tới những tháng năm xưa ở Hà Nội. Mùa thu Hà Nội hiện lên có cả cảnh vật và cả con người. Cảnh vật lúc đó có cái chớm lạnh, chớm ở đây có nghĩa là chỉ mới se lạnh thoảng những cơn gió. Đây chính là khoảnh khắc giao mùa và phải chăng đây chính là cái lạnh tỏa ra từ lòng người? Đến với câu thơ “ Những phố dài xao xác hơi may”, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp cộng với từ láy tượng thanh, từ “xao xác” thể hiện cái buồn nhẹ của buổi chiều heo may.

Con người ở đây cũng hiện lên với một hình ảnh vô cùng đẹp, đó là tư thế “người ra đi đầu không ngoảnh lại” thể hiện được sự dứt khoát từ giã phố cũ trường xưa để đi chiến đấu. Bước đi đó dứt khoát nhưng vẫn có thể cảm nhận được sau lưng có tiếng lá rơi, không khỏi sự bịn rịn vấn vương.

Sang ở đoạn thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện cảm xúc của mình về mùa thu hiện tại ở chiến khu việt Bắc:

“Mùa thu nay đã khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc tiếng nói cười thiết tha”

Câu thơ giống như lời chuyển đọan về cảm xúc của mùa thu. Cùng là một mùa thu nhưng ở chiến khu Việt Bắc tác giả cảm thấy lòng mình vui đến là, đó là tiếng vui reo của mùa thu đất trời tự do. Nó thể hiện được sự phấn chấn của thi nhân trước những đổi thau của đất nước. Ba câu thơ sau tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa,nhà thơ đã khoác lên mùa thu một chiếc áo mới được dệt bằng niềm hạnh phúc và sự tự do.

Ở câu cuối cùng có sự kết hợp giữa âm thanh và giai điệu để có thể mở ra một không gian rộng lớn hơn.

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về”

Bằng các điệp ngữ cùng với các thủ pháp điệp,nhà thơ đã khẳng định được chủ quyền của đất nước. đó là đất,là trời, là dòng sống đỏ nặng phù sa…tất cả đều là truyền thống chiến đấu quý báu của dân tộc ta. Và ở đoạn thơ này đã khắc họa rõ nét nhất về khí thế mới tươi vui của dân tộc và náo nức phấn chấn tự hào về đất nước

Sang phần đoạn thơ sau đó là hình ảnh về đất nước ta từ trong đau thương tiến lên đấu tranh giành được chiến thắng.

Đầu tiên đó là hình ảnh đất nước ở trong đau thương, tác giả bắt đầu bằng những câu thơ có sức gợi tả cao:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Bọn thực dân đã làm cho những cánh đồng quê của chúng ta chảy máu, đó là máu của hoàng hôn hay là tội ác của quân giặc làm nhuốm máu của đồng bào ta. Con đường hành quân của chúng ta đầy rẩy những bẫy của kẻ thù, những đồn bốt của địch. Những đồn ấy có những hàng thép gai đâm nát cả trời chiều, nó in đậm lên cả nền trời. Rồi những đêm dài trên đường hành quân làm cho những người chiến sĩ yêu nước nhớ tới mắt người yêu của mình.

Đất nước hiện lên khi đau thương nhưng từ cái đau thương ấy đất nước ta lại vùng lên để chiến đấu anh dũng hơn:

“Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn”

Đất nước nhân dân ta phải chịu nhiều đắng cay tủi nhục

“bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta”

Đó là những tiếng khóc, tiếng than xé đau lòng, sự ngang tàng ấy đã làm cho dân ta thấy căm hờn, căm hờn đó nhân rộng ra cả một dân tộc, cả dân tộc đó đang rên xiết ở dưới mũi giày của chúng. Nhân dân ta quanh năm chỉ biết đến với lũy tre làng nhưng khi chúng đã xâm phạm tới thì những gốc lúa bờ tre ấy cũng quật lên để khởi nghĩa.

Và những người áo vải đã đứng lên thành anh hùng:

“Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”

Dẫu biết rằng có thể hi sinh ngoài mặt trận nhưng mà nghĩ đến đất nước độc lập thì ý chí của những người chiến sĩ lại rực sáng lên soi sáng ngọn lửa đấu tranh. Đoạn thơ cuối chính là hình ảnh quật khởi chiến thắng của nhân dân ta. Một loạt việt Nam đau thương đứng lên khởi nghĩa có âm thanh của tiếng súng và tức nước thì vỡ bờ, người áo vải đã rũ bùn đứng dậy sáng lòa:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Qua đây chúng ta có thể thấy được Nguyễn Đình Thi đã mang tới cho chúng ta một hình ảnh về đất nước vô cùng tươi đẹp, đó là một đất nước trải qua nhiều thương đau nhưng cuối cùng cũng thành công, mang đến niềm hi vọng vào tương lại tươi sáng hơn.

Tham khảo thêm: Cảm nhận bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi - Bài mẫu 2

Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài. Ở lĩnh vực nào của nghệ thuật văn, thơ, nhạc, kịch, ông cũng đều có những tác phẩm vang dội. Trong thi ca, bài “Đất nước” rất được bạn đọc mến mộ, đã từng được đưa vào giảng dạy trong nhà trường ngót nửa thế kỉ nay.

Phần đầu là tâm trạng của thi nhân khi đứng giữa chiến khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ một buổi “sáng mát trong”, tác giả nhớ “những ngày thu đã xa”ở Thủ đô:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Hà Nội hiện lên rất đẹp và cũng phảng phất buồn. Một thoáng “hơi may” lan toả mà đã thấm vào tận từng mái nhà, góc phố, từng hàng cây bờ hồ và cả trong hồn người. Nhạc điệu trầm lắng, lơ lửng làm cho thi phẩm càng thêm gợi cảm.

Ở đây có câu thơ xuất thần:

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Có hai cách ngắt nhịp khác hẳn nhau:

Sau lưng thềm / nắng lá / rơi đầy

Sau lưng / thềm nắng / lá rơi đầy

Ngắt theo cách thứ nhất thì tạo nên một vẻ đẹp kì lạ (nắng và lá cùng rơi); ngắt theo cách thứ hai thì tạo nên một vẻ đẹp giản dị (chỉ có lá rơi đầy trên thềm nắng).

Tùy thị hiếu nghệ thuật mà thích cách này hay cách kia. Những áng thơ hay thường gợi ra những cách hiểu khác nhau mà vẫn có lí như thế.

Cảnh thu ở đây là những ngày trước Cách mạng tháng Tám. “Người ra đi” là những chiến sĩ đang rời Hà Nội yêu dấu để lên chiến khu cách mạng.

Mùa thu nay ở Việt Bắc thì khác hẳn:

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Nhạc điệu thơ thay đổi: những câu thơ ngắn tạo nên một sự rộn ràng. Hình ảnh thơ trong trẻo, tươi sáng lạ thường. Có cảm tưởng như trời xanh hơn, cao hơn, âm thanh như cũng vang xa hơn.

Từ mùa thu mới, nhà thơ nghĩ về đất nước:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Điệp ngữ “của chúng ta” nói lên niềm tự hào của con người khi được làm chủ đất nước. Ai đã sống những năm dài dưới thời nô lệ mới hiểu hết nỗi đau xót, nhục nhã của người dân mất nước:

Giặc cướp hết non cao, biển rộng

Cướp cả tên nòi giống, tổ tiên

Tố Hữu

Mở rộng tầm mắt nhìn về tám hướng phương trời, nhà thơ sung sướng reo lên:

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Điệp ngữ “những” như muốn khẳng định rằng nói bao nhiêu, kể bao nhiêu cũng không hết cái đẹp, cái giàu của đất nước thân yêu, giang sơn gấm vóc nghìn đời do tổ tiên ông cha để lại.

Nhà thơ còn lắng nghe cả tiếng dội của lịch sử:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

“Đất” tượng trưng cho sự bền vững. “Rì rầm” là âm thanh không vang dội nhưng kéo dài không dứt. Đó chỉ có thể là tiếng của cha ông từ ngàn xưa nhắc nhở con cháu hãy sống anh hùng, bất khuất.

Sang đoạn thơ thứ hai, tác giả cảm nhận về đất nước từ trong đau thương đứng lên chiến đấu và chiến thắng.

Mở đầu là những câu thơ thể hiện sự căm thù:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Cánh đồng quê là hoán dụ để chỉ Tổ quốc. Cơ thể Tổ quốc đang chảy máu vì bom đạn quân thù. Câu thơ nói về nỗi đau vật chất. Câu tiếp theo nói về nỗi đau tinh thần. Bầu trời chiều êm ả gợi lên một cuộc sống thanh bình. Vậy mà giặc đến, dây thép gai tua tủa nơi đồn bốt chúng đâm nát tất cả. Sự man rợ của kẻ thù đã đến tột đỉnh. Đọc câu thơ tưởng như được xem một đoạn phim quay chậm làm nổi rõ những đường nét và màu sắc tương phản, gây ấn tượng nhức nhối trong lòng độc giả.

Hai câu tiếp theo là tâm trạng người chiến sĩ:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Hình ảnh đôi mắt người yêu như ngôi sao sáng trong trời đêm soi tỏ con đường cho anh đi tới. Tình cảm riêng chung đã hòa làm một trong anh. Trước đây, trong bài Nhớ, Nguyễn Đình Thi cũng đã gợi lên điều đó:

Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần.

Những khổ thơ tiếp theo ca ngợi đất nước đã đứng lên kháng chiến. Đoạn thơ có những yếu tố chính luận làm cho ngôn ngữ trở nên rắn chắc:

Xiềng xích chúng hay không khoá được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Kẻ thù đang thất bại vì bị bao vây trong biển cả chiến tranh nhân dân. Và điều quan trọng nhất là chúng ta có những người anh hùng kiểu mới, “những người áo vải” đang gánh cả cuộc kháng chiến trên vai. Họ có ba phẩm chất cao cả: Một là bất khuất (Đã đứng lên thành những anh hùng), hai là có nhiều suy nghĩ sâu sắc (Trán cháy rực nghĩ trời đất mới) và ba là lạc quan cách mạng (Lòng ta bát ngát ánh bình minh).

Mấy câu kết rất xuất sắc:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Theo lời tác giả thì đoạn này được viết dựa vào một cảnh thực mà anh đã thấy ở chiến dịch Điện Biện Phủ năm 1954: Trong tiếng đại bác dồn dập vang rền, chiến sĩ ta từ các chiến hào đầy bùn đỏ ào ạt xông lên như thác lũ đánh chiếm những cứ điểm cuối cùng của giặc.

Nhịp điệu thơ ngắn, dồn dập như bước chân của người anh hùng xung kích. Câu thơ cuối cùng đã phác họa ba tư thế tuyệt đẹp của chiến sĩ và cũng là tượng trưng cho dân tộc Việt Nam:

Rủ bùn: vất bỏ quá khứ đau thương,

Đứng dậy: Kiên quyết tiêu diệt kẻ thù,

Sáng loà: Chiến thắng huy hoàng.

Bài thơ đã tạo tác thành công một tượng đài hùng vĩ về đất nước ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ Nguyễn Đình Thi mang một phong cách hiện đại: Kết hợp cảm xúc và chính luận, vận dụng cả những thủ pháp của điện ảnh để gây ấn tượng, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ gợi cảm.

Đất nước là thi phẩm mang dáng dấp của một bản hùng ca có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn bạn đọc. Nó là bài thơ tuyệt tác của thi ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp viết về đề tài đất nước quê hương.

Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi - Bài mẫu 3

Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài trên văn đàn Việt Nam. Ông không chỉ đóng góp to lớn cho nền thơ ca Việt mà còn cho cả nền âm nhạc nước nhà với bài hát Người Hà Nội vô cùng nổi tiếng. Trong sự nghiệp thơ ca của mình, ông để lại tác phẩm nổi tiếng nhất là bài thơ Đất nước. Bài thơ được viết trong tám năm ròng, đó là những cảm nhận về đất nước Việt Nam tươi đẹp, giàu có, trải qua những năm tháng đau thương đã quật cường đứng lên chiến đấu với sức mạnh phi thường. Qua đó, cũng thể hiện hi vọng về một tương lai tươi sáng, rạng rỡ của dân tộc Việt Nam - "những người áo vải".

Bài thơ Đất nước được ra đời gắn liền với chiều dài lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai của quân và dân ta. Tuy bài thơ chỉ có bốn mươi chín dòng thơ ngắn ngủi nhưng trong đó là kết tinh của cảm xúc, trải nghiệm của tác giả trong tám năm dài. Chính vì thế, bài thơ hòa quyện bởi sư sâu lắng suy tư, nhưng cũng chứa chan niềm hân hoan tự hào về dân tộc ta, đất nước ta.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi viết:

"Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới"

Đất nước là tác phẩm được hòa quyện bởi hai tác phẩm khác của Nguyễn Đình Thi là "Sáng mát trong như sáng năm xưa" và tác phẩm "Đêm mít tinh" có lẽ chính vì vậy, mở đầu bài thơ ông đã giới thiệu như thế. Không khí mùa thu phảng phất ngây ngất ngay từ những dòng đầu tiên, đây hẳn là mùa thu của Hà Nội trong tâm trí ông bởi khi đó ông đang công tác trên chiến khu Việt Bắc. Là người con của Hà Nội, vậy nên ông nhớ nhất là những buổi sáng mùa thu trong mát, với gió hiu hắt thổi, không khí se se lạnh. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã đặt một phép so sánh "sáng mát trong như sáng năm xưa". "Năm xưa" là những năm Hà Nội trước thời chiến, hay là năm xưa của mùa thu lịch sử khi Hồ Chủ tịch đứng trước quảng trường Ba Đình đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập? Dù là năm nào thì đó cũng là một mùa thu trong mát, thật êm dịu, mát lành trong tâm trí của nhà thơ. Và trong làn gió ấy, phảng phất hương cốm thơm, mùi hương đặc trưng nhất của thu Hà Nội. Ai cũng biết, Hà Nội vào thu nổi tiếng nhất là món cốm làng Vòng, xanh mát và thơm nồng. Cái hương cốm mới ấy quyện lại làm nên hương vị đặc trưng rất riêng của mùa thu Hà Nội. Cũng cũng suy nghĩ như thế, nhưng Hữu Thỉnh lại nhớ mùa thu trong hương ổi nồng nàn:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về"

Mỗi người thi sĩ đều có cách cảm khác nhau, nhưng Nguyễn Đình Thi thật đặc biệt, bởi ông cảm thấy nó, cảm thấy mùa thu ấy, hương cốm ấy trong tâm trí của mình. Có thể nói rằng chính tình yêu Hà Nội tha thiết đã khiến ông chẳng thể nào quên được những đặc trưng riêng của quê hương mình, rộng hơn là đất nước mình.

Trong khổ thơ đầu, ông cũng rất đặc biệt sử dụng nghệ thuật "đồng hiện", tái hiện quá khứ và hiện tại trong cũng một đoạn thơ. Bên trên là hiện tại thì ngay ở bên dưới, quá khứ trong suy tưởng của ông đã hiện ra:

"Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những con phố dài xao xác hơi may"

Cả một bầu trời kỉ niệm cuộn trào trong tâm trí ông, tất thảy đều là hình ảnh của mùa thu Hà Nội. Ông nhớ những ngày đầu thu Hà Nội, trong cái không khí se se lạnh, gió hiu hắt, bước chân trên những con phố dài, lòng người lẫn lộn biết bao cảm xúc suy tư. Mùa thu Hà Nội thật đẹp và phải là người tinh tế mới nhận ra nét đẹp ấy từ những con phố dài cổ kính, dưới những tán lá cao, trong cái khí "chớm lạnh" se của đất trời. "Chớm lạnh" chứ chưa phải lạnh, nó là cái không khí đặc trưng nhất của mùa thu. Nguyễn Đình Thi đã thật tinh tế khi chọn từ này bởi cái lạnh mới chớm kia mới gợi ra cho lòng người biết bao nỗi nhớ, se sắt mà đầy hoài niệm. "Hơi may" là một từ Hán Việt, được Nguyễn Đình Thi khéo léo đặt ở trong câu thơ và nghĩa của nó là gió lạnh. Nghe từ "gió lạnh", người ta thấy cả mùa đông, nhưng "hơi may" lại khiến người ta nhận ra cái cảm giác bình yên, nhẹ nhàng của mùa thu trong mát. Và cái "hơi may" ấy đang xao xác trên "những con phố dài". "Xao xác" là từ tượng thanh, thường dùng để chỉ âm thanh của lá rơi. Nhưng ở đây, tác giả đã đặc cách sử dụng nó để tả "hơi may" của mùa thu, khiến cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Mùa thu không chỉ hiện ra hình khối, màu sắc, mà còn có cả âm thanh nữa.

Nhớ mùa thu Hà Nội da diết là thế, nhưng việc ra đi là điều chẳng thể tránh khỏi, vậy nên, kết lại khổ thơ thứ nhất, Nguyễn Đình Thi viết:

"Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".

Đó là lòng quyết tâm của một người con Hà Nội, yêu quê hương đến cháy lòng. Yêu quê hương, yêu đất nước nên mới quyết tâm ra đi "không ngoảnh lại". Biết là lưu luyến đấy, nhưng chí lớn của non sông vẫy gọi, sao có thể không ra đi chứ? Đó là nỗi ngập ngừng giữa lý trí và tình cảm trong lòng những lứa trí thức ra đi vì non sông, lòng người ly biệt vẫn đầy những luyến lưu với quê hương, với cả mùa thu nữa. "Đầu không ngoảnh lại" thể hiện một quyết tâm kiên cường, để lại đằng sau lưng là những nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi. Nhịp thơ ở đây thật nhẹ nhàng, nhưng sau đó là biết bao giằng xé của nội tâm, để đến cuối cùng, họ vẫn quyết tâm bỏ lại cái tôi ở lại, ra đi vì đất nước thân yêu của mình.

Đoạn thơ đầu tiên được viết trong nỗi nhớ Hà Nội, trong tâm tưởng của nhà thơ. Đó là sự hoài niệm về quá khứ với bao yêu thương, say mê. Thế nhưng, không đắm chìm mãi trong hoài tưởng suy tư, Nguyễn Đình Thi trở lại với hiện tại với niềm vui phơi phới, với mùa thu của chiến khu Việt Bắc:

"Mùa thu nay đã khác rồi

Tôi đứng nghe vui giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha"

Vừa mới hoài niệm về một mùa thu Hà Nội với bao nỗi niềm thế mà ngay câu thơ thứ hai, Nguyễn Đình Thi đã khẳng định "mùa thu nay đã khác rồi". Đó là một lời khẳng định chắc nịch của nhà thơ về mùa thu của đất nước đã đổi thay. Nhịp thơ ở đoạn này nhanh hơn, mạnh mẽ và rộn ràng hơn. Nó như một khúc ca ngợi ca vậy bởi "khác" ở đây không chỉ là mùa thu mà còn là tâm thế, vị thế của con người nữa. Chẳng thế mà ông đã ngân nga, vui sướng giữa đất trời:

"Tôi đứng nghe vui giữa đất trời"

Ba động từ liên tiếp "đứng nghe vui" được đặt cạnh nhau trong một câu thơ, người ta mới thấy cái rộn ràng vui sướng của tác giả dường như đã lây sang cả người đọc chúng ta. Ba động từ liền sát, thể hiện sự tập trung cao độ vào một hướng duy nhất "đất trời" - hay chính là đất nước quê hương ta. Đất nước hiện lên trong niềm vui rộn rã, thế nên chẳng thể thiếu được hình ảnh của những cây tre quen thuộc - loài cây biểu tượng của non sông ta. Cây tre ấy như Nguyễn Duy đã nói:

"Tre xanh

Xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh"

Phải, hình ảnh ấy là vô cùng thân thuộc với mỗi con người Việt Nam. Bởi nó là biểu tượng cho ý chí kiên cường của con người, của dân tộc ta, luôn vươn dậy mạnh mẽ. Từ "phấp phới" được đặt ở đây mang một ý nghĩa thật đặc biệt. Bởi nó thường để tả những vật có kích thước nhỏ, mỏng và dẹp, nhưng Nguyễn Đình Thi lại nói "gió thổi rừng tre phấp phới". Phải chăng sau rừng tre xanh ấy là lá cờ Tổ quốc đang tung bay trong gió thu se lạnh?

Và hơn thế nữa, trời thu ở đây chẳng còn xám xịt, mang vẻ buồn rầu lặng lẽ như những ngày còn ở "những con phố dài" Hà Nội nữa. Mùa thu đã "thay áo mới", khoác trên mình tấm áo"xanh biếc" thiết tha. Bầu trời thu thay đổi hay là vì tâm thế con người thay đổi đã khiến mùa thu có thêm sắc màu rực rỡ? Những âm thanh "nói cười" cũng rộn rã biết bao nhiêu. Không khí thu chẳng còn "hơi may" se lạnh nữa, nó ấm áp hơn, trời thu trong xanh, cao rộng hơn, con người cũng hân hoan hơn. Bởi giờ đây chúng ta đã làm chủ đất nước, đã được tự do rồi.

Tiếp sau, Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tự hào của mình trong niềm vui hân hoan, tự hào về một đất nước giàu đẹp với "trời xanh", "núi rừng", "những cánh đồng thơm ngát", "dòng sông đỏ nặng phù sa". Tác giả đã liệt kê một loạt những hình ảnh giàu đẹp của quê hương để thể hiện niềm vui được làm chủ đất nước, khẳng định ý thức về quyền làm chủ quê hương. Điệp từ "đây", "của chúng ta" được lặp lại liên tục như một lời khẳng định chắc chắn, đất nước này là của chúng ta, của dân tộc ta.

"Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa"

Đọc tới đây, chúng ta hẳn thấy được tính sử thi đậm nét trong đoạn thơ này. Tác giả đã mượn lời của nhân dân để khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc. Và giờ đây, với tâm thế của một kẻ tự do, nhân vật trữ tình đang ngẩng cao đầu tuyên bố sự tự do dân chủ ấy. Hình ảnh ấy chúng ta cũng bắt gặp một vài lần trong thơ ca Việt, đặc biệt trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Ta không thể quên những lời tuyên bố đanh thép của ông:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"

Trong niềm vui tự hào ấy, tác giả đã trầm ngâm suy tư về truyền thống của dân tộc ta từ bao đời nay. Với bốn ngàn năm lịch sử dựng và giữ nước, dân tộc đã đã làm nên nhiều trang sử anh hùng. Nhịp thơ ở đây cứ chậm rãi như suy tư suy tưởng:

"Nước chúng ta

Nước những con người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về"

Chúng ta, một dân tộc chân lấm tay bùn, cuộc sống vất vả, lam lũ là thế nhưng chúng ta "chưa bao giờ khuất". Sau lớp bùn nâu là một trái tim yêu nước nhiệt thành, sẵn sàng hi sinh vì đất nước non sông. Lớp này ngã xuống, lớp khác sẽ đứng lên, chưa bao giờ chúng ta chịu khuất phục trước bất kì kẻ thù nào. Truyền thống đánh giặc của dân tộc ta được truyền qua bao thế hệ, từ những thời bà Trưng bà Triệu, đến buổi ba lần dẹp quân Mông - Nguyên, có hy sinh, gian khổ trong quá khứ mới có được ngày hôm nay. Những lời nói của cha ông dạy bảo "đêm đêm" cứ vang vọng lên "vọng nói về" từ trong "tiếng đất", gợi nhắc chúng ta về truyền thống anh hùng của dân tộc cũng như đạo lý "uống nước nhớ nguồn".

Thế nhưng giờ đây, đất nước chúng ta đang bước vào giai đoạn nguy nan, những "cánh đồng thơm ngát" đang bị quân thù giày xéo đến "chảy máu". Những hình ảnh về chiến tranh thật đau thương biết mấy:

"Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều"

Chẳng còn mùa thu yên bình dịu dàng như trước, đất nước đang rơi vào đau khổ. Bức tranh buổi chiều của Nguyễn Đình Thi vẽ lên sao mà ám ảnh thế! "Những cánh đồng quê chảy máu" - ánh mặt trời rọi xuống không gian một màu đỏ ối, nhuộm đỏ cả cánh đồng chiều hôm, Đây là một buổi chiều được vẽ lên trong buổi hành quân. Sự nhân hóa ấy như muốn nói lên sự tang thương, sự đau đớn của mỗi miền quê Việt đang phải oằn mình trong chiến tranh. Biết bao máu xương sẽ phải đổ xuống để giành lại được độc lập đây? Rồi "Dây thép gai đâm nát trời chiều" - quả là một hình ảnh ám ảnh. "Dây thép gai" - thứ mà quân xâm lược dựng lên để chống lại quân và dân ta, đó là biểu tượng của chiến tranh, của đau khổ. Những sợi dây thép tua tủa ấy đâm thẳng vào bầu trời chiều, "đâm nát" cả trời chiều êm ả, nó gợi lên sự đau thương mà chiến tranh gây ra cho quê hương Việt Nam. "Đâm nát" là một động từ mạnh, thể hiện sự tàn bạo, dã man kết hợp với nghệ thuật nhân hóa càng khiến cho hình ảnh đất nước thêm đau thương. Chúng ta cảm nhận thấy ở đây có một sự căm hận đến nghẹn ngào.

Thế nhưng, trong những buổi hành quân ấy cũng có chút thi vị để át đi cái đau thương đang hiện hữu. Một chút bâng khuâng, nhớ nhung "mắt người yêu" khiến cho lòng người chiến sĩ thêm dư vị ngọt ngào, để khiến anh thêm động lực lên đường chiến đấu. Nhắc tới người yêu, tưởng như là chuyện riêng tư đó, thế nhưng cái tình yêu đôi lứa ấy đã hòa quyện trong tình yêu lớn của đất nước, chuyển hóa thành hành động khiến chàng trai có thêm niềm tin yêu, động lực để chiến đấu vì mục tiêu chung của đất nước.

"Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu"

Người ta cũng đã từng bắt gặp nỗi niềm tương tư ấy trong một bài thơ khác cũng của một người con Hà Nội - đó là chàng trai Quang Dũng trong "Tây tiến":

"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Đọc đến đây, người đọc chợt nhận thấy cái sức mạnh chiến đấu đang dần mạnh mẽ lên gấp bội bởi sự căm hờn lũ giặc ngoại xâm, tình yêu đôi lứa, tình yêu đất nước đã quyện lại trở thành động lực thúc đẩy người chiến sĩ:

"Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn".

Lũ giặc cướp nước đã dày xéo quê hương ta, nhân dân đã đã trải qua bao năm tháng chiến đấu, chống lại kẻ thù. Những nỗi đau xót mà kẻ thù gây nên đã khiến những gì hiền hòa nhất, "hồn hậu" nhất cũng phải "bật lên nỗi căm hờn" khôn xiết. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã liệt kê một loạt những hành động tội ác của kẻ thù:

"Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da..."

Những hình ảnh gợi tả ấy thật khiến chúng ta day dứt. Cuộc sống của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của kẻ thù thật khiến người ta phải căm hờn. "Thằng giặc Tây, thằng chúa đất" - những kẻ tàn bạo xâm lăng, lũ bán nước và lũ cướp nước đang dày xéo quê hương ta, làm khổ đau nhân dân ta.

Vậy nên trong cái gian khổ, cái đau xót ấy, dưới sự tàn bạo, độc ác ấy của kẻ thù đã tôi luyện lên những người anh hùng, tôi luyện lên lòng yêu nước mạnh mẽ:

"Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng".

Lời khẳng định chắc nịch của Nguyễn Đình Thi trước sự tàn bạo của kẻ thù. Chúng bay có thể cướp được đất, được ruộng, thóc lúa của chúng ta, nhưng chúng bay sẽ chẳng thể khóa được cánh chim tự do của dân tộc ta, khóa được hoa thơm của dân tộc ta. Chúng ta có thể giết được dân ta nhưng không thể nào giết được "lòng dân ta yêu nước thương nhà". Chúng bay chỉ khiến dân tộc ta thêm căm hờn, thêm yêu nước, cho chúng ta thêm động lực để vươn dậy thành "những anh hùng". Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hai bức tranh tương phản giữa tội ác dã man của giặc và sức sống mãnh liệt của dân tộc ta, từ đó ông khắc họa rõ nét hơn phẩm chất anh hùng của dân tộc, đất nước ta. Qua đó, ông cũng muốn khẳng định chân lý rằng: Sự tàn bạo của kẻ thù không thể tiêu diệt được tình yêu, khát vọng sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam mà chỉ góp phần tôi luyện chúng ta trở thành những người anh hùng.

Tội ác của kẻ thù gây nên chỉ khiến chúng ta có thêm sức mạnh, động lực để gây dựng lên một tương lai tràn đầy tự do và hạnh phúc. Tương lai ấy, ngày mai ấy được dựng lên từ chính hôm nay, những gian khó sẽ được bù đắp:

"Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh"

Đọc bài thơ mà ta cảm nhận được, những người anh hùng đã làm nên độc lập chính là những người áo vải. Họ là những người vô danh, nhưng vì tình yêu Tổ quốc đã cống hiến cả xương máu của mình cho độc lập tự do của đất nước. Nhà thơ cũng khẳng định: "Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh", phải hi sinh, phải mất mát thì mới có được tự do, mới trân trọng sự tự do ấy. Tuy là mất mát đấy, đau thương hi sinh đấy, nhưng họ vẫn luôn hướng về một "trời đất mới", nơi mà "bát ngát ánh bình minh". Đêm tối đau khổ sẽ lùi dần về phía sau, trước mắt chúng ta sẽ là một chân trời mới rực sáng màu "bình minh".

Kết lại bài thơ, chúng ta bắt gặp một hình ảnh vô cùng hoành tráng:

"Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".

Đây như lời miêu tả cuộc tổng tiến công của quân đội nhân dân Việt Nam, nơi súng đạn và những người chiến sĩ đang tiến lên giành lấy tự do, nơi âm vang cuối cùng của cuộc chiến. Để đến cuối cùng kết lại là một hình ảnh tươi sáng, rực rỡ hơn bao giờ hết. Nước Việt Nam ta kết thúc chiến tranh, bước ra "từ máu lửa" đau thương nhưng sẽ "rũ bùn" để "đứng dậy sáng lòa", trở thành một đất nước độc lập tự do, giàu mạnh. Hai hình ảnh thơ đối lập "máu lửa - sáng lòa", đó là lời kết đầy khẳng định về hình ảnh con người Việt Nam hiên ngang, bất khuất.

Bài thơ được viết trong suốt tám năm, suốt chặng đường quân và dân ta đang đứng lên chống thực dân Pháp trở lại, vậy nên nó có một sức khái quát vô cùng lớn. Khái quát hình ảnh con người dân tộc Việt Nam suốt cuộc kháng chiến, có đau thương, có mất mát, nhưng cũng có anh hùng bất khuất, hướng tới tương lai. Ngôn từ trong bài thơ cũng mang tình hàm súc và giản dị. tác giả đã thổi vào mỗi từ ngữ trong bài thơ một nỗi lòng của mình, một tình yêu nước sâu nặng. Cũng phải kể tới sự linh hoạt trong ngôn từ, cách diễn tả, sự biến đổi tinh tế cảm xúc giữa các dòng thơ đã góp phần tạo nên thành công cho bài thơ này.

Bằng nỗi lòng tràn đầy tình yêu và cảm xúc, với một hồn thơ tinh tế xúc cảm, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên hình tượng đất nước từ những hình ảnh vô cùng quen thuộc. Đó là một đất nước êm đềm, thanh bình, chịu những đau thương của chiến tranh nhưng vẫn quyết tâm, kiên cường, bất khuất giành lại tự do, hướng tới một tương lai tươi sáng. Hình ảnh đất nước đó khiến chúng ta không thể nào quên.

-/-

Hy vọng với những bài văn mẫu "Bình giảng bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM