Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Xuất bản: 13/03/2024 - Tác giả:

Phân tich bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, cũng chính là bi kịch chung của những người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng

Cùng tham khảo gợi ý và một số bài văn mẫu hay phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp. Hi vọng bài viết sẽ giúp các em có thêm nguồn tư liệu tham khảo hữu ích trong quá trình tìm hiểu tác phẩm Chí Phèo để viết được một bài văn phân tích hay và sâu sắc.

Dàn ý phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Nam Cao (1917 - 1951) là nhà văn hiện thực lớn, nhà báo kháng chiến, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất đại diện cho khuynh hướng hiện thực.

+ Chí Phèo là một đại điện tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực ấy, giúp cho người đọc có cái nhìn khái quát hơn về một hiện tượng xã hội ở vùng nông thôn Việt Nam trước năm 1945.

- Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã khắc họa thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

2. Thân bài

a) Thế nào là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người?

- Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người

- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí Phèo

b) Bi kịch được thể hiện ngay trong tiếng chửi của Chí đầu truyện

- “Hắn vừa đi vừa chửi...”: sự xuất hiện tự nhiên.

- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:

+ Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi

+ Đằng sau đó thấy Chí Phèo la nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường.

=> Chí Phèo mong muốn được giao cảm với cuộc đời, nhưng không ai đáp lại, không ai coi hắn như một con người.

c) Bi kịch bị khước từ quyền làm người ngay từ khi sinh ra

- Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không được đối xử như một con người :

+ Không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, một tấc đất cắm dùi cũng không có

+ Bị bỏ rơi tại lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông

+ Tuổi thơ sống trong bất hạnh

+ Đã từng ước mơ lương thiện nhưng xã hội bóp chết ước mơ lương thiện ấy.

=> Chí Phèo đáng thương đã không được đối xử như một đứa trẻ bình thường, ngay từ khi mới sinh ra đã bị chối bỏ.

d) Bi kịch tha hóa là cơ sở dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

- Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

+ Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.

+ Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

- Hậu quả của những ngày ở tù:

+ Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” -> Chí Phèo đánh mất nhân hình.

+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.

- Quá trình tha hóa của Chi Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù -> Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Ba Kiến.

=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực.

e) Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo -> định kiến của xã hội.

- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:

+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở.

+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.

- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:

+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.

+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.

=> Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng

3. Kết bài

- Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.

- Đây cũng chính là bi kịch chung cho những người nông dân trong xã hội cũ.

TOP 5 bài văn phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo mẫu số 1

Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: "Khi chị Dậu, anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất". Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.

Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha, không mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó Cối. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.

Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo là một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng với một bộ dạng rất kì quái: "cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ".

Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn là chú trọng vẻ bề ngoài, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí Phèo lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khỏe mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã hội loài người.

Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh, mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức, một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị. "Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người ta sai hắn làm. Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện". Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc, lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và tội lỗi, trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con quỷ dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi qua.

Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo lưu manh, tha hoá bị đày đọa, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị đối xử như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo thời bấy giờ.

Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã dành cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và quá trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận, Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về. Đó là âm thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:

"Nhìn phía trước người thân chẳng có

Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người"

Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện. Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện và câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà cô - bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm hắn say. "hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành" - cái hương vị của tình người, tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi; hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.

Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến. Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình. Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và mãnh liệt.

Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?". Đó là một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là "Một câu hỏi lớn. Không lời đáp" thật ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.

Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.

Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo và với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo mẫu số 2

Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến. Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.

Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả...? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại... nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này... thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi... Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7-8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức : đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ... Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi đậy trong Chí Phèo.

Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp :Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm….Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò truyện...

Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo - Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những hết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.

Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.

Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến - kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn - một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.

Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo mẫu số 3

Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm tên tuổi: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động sâu sắc.

Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát (có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo.

Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. Lạ vì hắn chửi mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình.

Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ: Thái độ của người chửi: hằn học, hận thù; thái độ người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn: xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tò mò… Vậy Chí Phèo là ai?

Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp.

Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị: “Có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.

Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”. Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu, máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say "ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.

Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không có đôi cánh thiên thần nhưng có đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người.

Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ: ”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước người thân chẳng có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.

Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Kỳ diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, một liều tiên dược vừa giải cảm vừa giải độc. Cháo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như cha con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Khi mà cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã dang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.

Chí Phèo quen sống với một kiểu định nghĩa: Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ… Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn bằng cả tình thương yêu nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục sinh phần người trong Chí… Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về cuộc sống bình dị… Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả… Bát cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người…

Nhìn thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…”. Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần chính Thị Nở đã phải thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?… Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì ngờ nghệch, hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!

Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:

- Tao muốn làm người lương thiện?

- Ai cho tao lương thiện?

Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người, là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Tác phẩm Chí Phèo thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm Chí Phèo mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng: “Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống - Nào có dài chi một kiếp người - Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách - Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”. Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó.

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo mẫu số 4

Nam Cao, nhà văn “ưu việt”, người bạn đồng minh muôn thuở của những người nông dân khốn quẫn, những kiếp sống lao khổ, những linh hồn bị lãng quên trong thời đại khói lửa của dân tộc đã “chết non” ở tuổi ba mươi tư dưới nòng súng của giặc. Chuyến tàu chở tài năng Nam Cao đã dừng lại quá sớm, thế nhưng những tác phẩm nghệ thuật mà ông để lại cho đời thì trường tồn bất tử trong dòng vận động biến đổi không ngừng của thế giới văn học nghệ thuật đương đại. Khám phá ra bị kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên, nhà văn Nam Cao đã “soi gương thấy mặt đời” (thấy qui luật hiện thực tàn khốc của xã hội đương thời) và “soi tâm thấy cội người” (nhận ra cõi tinh thần cao đẹp của những linh hồn tưởng như đã chết).

Với Nam Cao, mỗi cái tên nhân vật là một biểu tượng cho tính cách: Hảo (Dì Hảo), Lão Hạc (Lão Hạc), Lang Rận (Lang Rận), Giáo Thứ (Lão Hạc) Từ (Đời Thừa), Điền (Trăng Sáng)… Chí Phèo - cái tên làm ta liên tưởng đến hình ảnh một kẻ trời đánh thất học vô đạo nào đó. Ấy chính là một tên lưu manh cô độc, đơn khó trong cái làng quê rệp mạt, đói khổ Hà Nam. Nhưng dưới ngòi bút độc đáo của nhà văn thì ẩn sau cái nhân cách nhàu nát đó là một “cõi tinh thần” thiện lương. Như hòn than hồng ủ dưới tàn tro, để đến lúc gặp ngọn gió “nhân tình” (tình người) thì lập tức vụt sáng sưởi ấm cho những kiếp người “phận mỏng cánh chuồn” sau lũy tre làng.

Gấp trang sách lại ta lạnh người vì ám ảnh đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là một câu hỏi lớn không lời đáp, mà “hắn” hỏi tận nơi linh thiêng màu nhiệm nhất của tạo hóa - Trời. Huy Cận từng viết:

“Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau

Quay theo tám hướng hỏi trời sâu

Một câu hỏi lớn. Không lời đáp.

Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.”

(Các vị La Hán chùa Tây Phương)

Thật ai oán và tuyệt vọng, một nỗi đau đến khoét thịt đúc xương của nhân vật. Nhưng cái chết của Chí Phèo trong tác phẩm không phải là cái chết của một kẻ cố cùng liều thân, mất hẳn nhân tính mà là sự ra đi đầy tự trọng và cả sĩ khí của một con người ý thức sâu sắc về nhân phẩm.

Chỉ có những ai trải qua nỗi đau khổ tột cùng mới có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc tột cùng mà Chí Phèo đã được nếm trải hai cảm giác tận cùng đó. Bóng tối đời Chí không phải huyễn hoặc, leo lét như của chị em Liên (Hai đứa trẻ - Thạch Lam), hay màn đêm đen khét như mực, mông lung vô lối của Chị Dậu (Tắt đèn - Ngô Tất Tố). Bóng tối mà Chí Phèo đang nếm trải như đêm đen địa ngục với tiếng chửi rủa hòa cùng tiếng chó cắn lao xao, như tiếng rít lên của một con vật bé nhỏ đang bị giết thịt. Sự gào thét của một cái xác sống đã bị mù điếc tâm hồn khiến người đọc đau se thắt và cảm nhận được sự “can tràng tấc đoạn” mà nhân vật đang phải gánh chịu.

Từ một anh canh điền lành như đất, giàu lòng tự trọng, biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn, Chí Phèo đã bị đẩy vào tù chỉ vì cớ ghen tuông vu vơ. Mỉa mai thay, nhà tù mang danh công cụ cải tạo con người của chủ nghĩa thực dân nhưng đã “nhai nát” một tâm hồn trong sáng nhân hậu và “nhả” ra một nhân cách quỷ dữ. Từ khi ra tù, Chí Phèo đã trở thành một con nhân sư lãnh đạm, bị xa lánh, căm phẫn và chối bỏ khỏi xã hội loài người. Giai cấp thống trị - những kẻ ăn thịt người ngọt xớt như đường, với phương châm róc đời của mình, Bá Kiến đã dụ dỗ Chí Phèo thành kẻ đâm thuê chém mướn đi ngược lại lợi ích của những lương dân.

Tiếng chửi, tiếng nguyền rủa rồ dại hay chăng tiếng ai rao nghĩa lý giữa đất trời? “Hắn” đang chửi trong sự hằn hoặc ghê tởm, “hắn” được đáp trả bằng sự dửng dưng khinh miệt và chỉ còn lại “hắn” cùng tiếng của kẻ khác loài. Sống với chó đôi khi cũng phải gào lên như chó, sống giữa cái xảo trá vô luân, cái độc ác bất nhân đó, hỏi sao không có những tiếng tru lên trong oằn oại đau đớn, tiếng người điên rao giữa chợ đời trong lưới bẫy của màn đêm mịt mùng tăm tối. Trong tiếng chửi có hàm chứa những hạt nhân của tính chất lưu manh nhưng cũng chứa đựng sự hô hét đòi sống, những kéo rút tuyệt vọng cuồng ngây trong tâm tưởng bật ra thành tiếng gào thét có hình sắc. Đói những kết nối, khát được kết nối nhưng giống loài đã quyết tuyệt quay lưng với Chí, đẩy chí vào lối tuyệt vọng vong thân.

May thay, giữa bóng đêm của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở. Tạo hóa đã lắp hai mảnh đời khốn cùng vào nhau:

“Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên. 
Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người!
Vườn suông trăng nở nụ cười
Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau.”

(Trăng nở nụ cười - Lê Đình Cánh)

Thị Nở đã tạo nên bước ngoặt cho cuộc đời của Chí Phèo. Khác với người dân trong làng Vũ Đại, Thị vẫn ngày ngày theo lối mòn ra sông kín nước nơi có “tấc đất” mà Chí Phèo “cắm dùi”, rồi còn lui tới “hang cọp” mà xin rọi lửa và rượu bóp chân. Thị không hiểu và cũng không cần hiểu vì sao người dân trong làng kinh hãi Chí. Cho nên Thị nhiều lần ngủ lại vườn chuối cạnh bờ sông, dưới ánh trăng tưới rười rượi nơi mà bước chân vật vờ đường khuya trong cơn ma men của Chí đi về. Và chuyện gì đến cũng đã đến…

Người đàn bà dưới bàn tay nhào nặn của Nam Cao xấu “ma chê quỷ hờn”. Nhưng sau “cái đẹp” mỉa mai của góa công đó là một tâm hồn có sinh khí. Thị vẫn có điều nhân dục như lẽ những người thường, vừa cưỡng lại, vừa dâng hiến. Thị vẫn ngượng đỏ và thinh thích khi nói đến hai tiếng “vợ chồng”; vẫn biết lườm, nguýt, e lệ và âu yếm một cách rất “bình dân” nhưng vẫn không kém phần tình tứ. Đó là cái “nữ tính” mà tạo hóa đã thổi vào trong thân xác ngô nghê, thô vụng. Phía Chí Phèo, anh cũng chả cần ý thức đến cái xấu xúc phạm mắt nhìn của Thị Nở và sự ngây đần của dòng mã hủi. Chí chỉ thấy một điều rằng “Thị thế mà có duyên”. Ngòi bút đầy nhân bản của nhà văn đã sắp đặt một cuộc “ngẫu nhiên tương phùng” với chiều sâu ý nghĩa và giá trị nhân văn.

Phút “hứng tình” ấy đã biến một kẻ mất hết nhân tính, chỉ quen đập phá, cắn xé điên cuồng thành tiếng khóc rít lên kêu đòi để trở về cuộc sống nhẹ nhàng như bao người bình thường? Đó là lần đầu tiên Chí Phèo biết đến người phụ nữ bằng tất cả cảm giác nguyên sơ của mình. Nhân vật AQ (AQ chính truyện của Lỗ Tấn) chỉ mới chạm vào tay Vú Ngò mà đã ngây ngất cái cảm giác về da thịt quấn thít của đàn bà thì mới hiểu rằng khoái hoạt giao hoan với Thị Nở sẽ là "cơn động địa” cực mạnh làm biến đổi toàn bộ đời sống sinh, tâm lý của Chí Phèo. Diễn biến nội tâm của Chí Phèo sáng hôm sau khi gặp Thị Nở là hệ quả của trận “kinh thiên động địa” đó. Quá trình tâm lý diễn ra một cách logic theo kiểu phản ứng dây chuyền. Ở đó, lần đầu tiên sau bao năm say sưa triền miên, các giác quan của Chí Phèo dần tỉnh lại để đánh thức những cảm xúc đã từng bị khỏa lấp phôi phai. Nam Cao đã miêu tả rất tỉ mỉ những diễn biến phong phú và tinh vi này, và điều đó cho thấy sự tế vi trong phong cách trần thuật của ông.

Tuy nhiên, để dẫn đến sự khát khao lương thiện ở Chí Phèo, cần nhiều chất xúc tác hơn nữa đó chính là bát cháo hành thơm thảo. Ban đầu, Chí rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên trong đời mình nhận được sự chia sẻ từ giống loài. Sau phút ngỡ ngàng là sự xúc động chân thành, nhờ đó Chí Phèo mới cảm nhận được cái ngon đặc biệt của món cháo hành. Bát cháo hành cũng buộc Chí Phèo phải đối mặt với quá khứ của chính mình bằng những vụ trộm cướp thường xuyên để có cái ăn - một kiểu ăn không khác gì súc vật. Rồi bất ngờ Chí so sánh cử chỉ ân tình và tâm hồn thuần khiết của Thị Nở với bản chất “dâm nhơ đắm nhiễm” của bà ba nhà Bá Kiến. Tất cả những điều đó đã khiến tâm trạng Chí Phèo xao động dữ dội. Những gốc rễ tốt đẹp từng bị bao bọc bởi cặn bã nay trỗi dậy “trinh nguyên”: "Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi, sao mà hắn hiền... Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!" Có phải người canh điền của tuổi đôi mươi lại hiện diện trong bộ dạng vốn đã thay đổi một cách đáng sợ chăng? Anh ta đang lên tiếng nhiệt thành yêu cầu được sống một cuộc sống đúng chất người. Đây là kết quả của sự chuyển biến tâm trạng Chí Phèo hết sức tinh vi, phức tạp nhưng cũng rất hợp lý. Miêu tả quá trình này, ngòi bút của Nam Cao đạt đến độ “vuông thành sắc cạnh”.

Một đêm trăng vườn chuối, một bát cháo hành đã đủ làm cho “anh” bừng tỉnh trong lương tri. Thị Nở, một người đàn bà với sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa đã mang đến “thang thuốc cháo hành” chữa khỏi cho Chí căn bệnh trầm kha tâm hồn đã di căn. Tình cảm đã chữa lành vết thương lòng và giúp Chí Phèo vượt qua đau khổ một cách dễ dàng. Tâm hồn cằn cỗi, tăm tối đó đã được tưới tắm, tẩy gội và xua đi những mây mù ngu tối. Từ đó Chí định vị được thời gian, hồi quang về quá khứ đã từng mơ ước về tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía, nhận ra hiện hữu trong tương lai gần về đói khát, bệnh tật và cô độc, nghe được những âm thanh quen thuộc của tự nhiên, xã hội và tiếng đổi chác mưu sinh đầu sông cuối bãi: “tiếng hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá tiếng của mấy bà đi chợ về”. Và hơn tất cả, giọt nước mắt làm người đã rơi xuống, hòa vào bốn bể nước mắt của kiếp nhân sinh, “hắn thèm lương thiện và muốn làm lành với mọi người”. Trong sinh quyển hiện thực bùng nhùng đen tối đó vẫn rạng lên cầu vồng bảy sắc của tình yêu cao thượng, nhân bản và không kém phần trong đẹp. Trong nhánh kênh đen của cuộc đời bỉ cực đó vẫn rạo rực một dòng trong xanh lưu động dưới chiều sâu tâm hồn.

Nhưng: “Một mình nàng Thị Nở/ đủ đền anh đó chăng/ ngoái nhìn lò gạch cũ/ thương biết sao cho vừa”. Nguyên Hồng đã từng nói rằng, nếu định kiến xã hội nó là một hòn đá ông sẽ gồng mình mà đẩy nó ra khỏi đường, là thủy tinh ông sẽ đập vỡ, nhai nát, nuốt tất, thế nhưng định kiến vô hình. Như một đàn mối ăn lẹm vào gỗ, hay một cây tầm gửi bám rễ sâu hủy hoại bức tường, định kiến xã hội đã không cho Chí Phèo một sự khoan hồng nào hết.

Tại sao khát vọng cứu chuộc cao đẹp của Chí Phèo lại bị từ chối? Những thay đổi ở Chí Phèo dù kỳ lạ đến đâu cũng chỉ dừng lại ở khát vọng thầm lặng trong đáy thẳm nội tâm. Người làng Vũ Đại ngoại trừ chứng kiến ​​một sự việc lạ lùng: Thị Nở đã sống với Chí Phèo một tuần trăng mật (vốn sẽ là đề tài hấp dẫn cho những câu chuyện phiếm kiểu quê mùa), họ vẫn chưa hề nhận được một dấu hiệu khả quan nào thông tin về sự thay đổi thái độ của Chí Phèo. Đường biên ngăn trở Chí Phèo đó là: hắn đã gieo rắc quá nhiều đau thương, bất hạnh cho cuộc đời vốn đã tuyệt lộ của những con người lương thiện yếu đuối. Bản năng tự vệ buộc họ phải tránh xa Chí Phèo. Vì vậy, để được chấp nhận trở lại trong xã hội thân thiện và phẳng lặng này, Chí Phèo phải trải qua những thử thách hòa nhập và trải qua những “sát hạch” của thời gian. Còn Chí Phèo không ý thức và không đủ kiên nhẫn để thực hiện. Đó là chưa kể đến sự chống trả từ những kẻ thường lợi dụng chất thú dữ hiện tại của Chí Phèo, hòng khống chế Chí trong trạng thái điên loạn. Bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy việc Chí Phèo trở về với cuộc đời lương thiện là một ước mơ đẹp nhưng “kém khả dụng”. Sự thật hiển nhiên đó Nam Cao hiểu, và với nhận thức của một nhà văn hiện thực triệt để, ông không thể nói “trái lẻ tạo hóa”.

Thị Nở đã khước từ tình cảm của Chí Phèo vì lời lăng mạ của bà cô: “sao mà đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Chí Phèo nhận thức được rằng bát nước đã đổ đi rồi không thể hốt lại tất. Tình yêu kết thúc thì hận thù ập đến đó qui luật đời sống. Chí đã tìm lại với rượu, nhưng rượu không còn làm hắn quên đời, rượu thức tỉnh Chí, giúp Chí nhận ra bao cơ sự của cuộc đời mình: “nhìn phía trước không người thân thích, ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Chí vác dao ra đi, trong đầu hắn định vị rõ hai kẻ thù của cuộc đời: kẻ thù tình ái và kẻ thù giai cấp. Trong giây phút sáng suốt nhất của một người nông dân thức tỉnh Chí Phèo đã vung dao lên đâm Bá Kiến và tự cướp đi mạng sống của mình. Sự thể hiện của Chí phèo hôm nay không phải của một kẻ lưu manh mà là hành động lấy máu rửa hờn của một người nông dân lương thiện bị đày ải trong ngục sâu tăm tối nơi trần gian đã xé rào thoát sáng và phân diện rạch ròi bộ mặt kẻ thù. Như cục than hồng ủ dưới lớp tro nguội, chất người trong Chí Phèo đã bừng sáng thiêu rụi cả lũy tre làng rửa sạch mối thù giai cấp từ ngàn đời. Cái chết của Chí Phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.

Cuối tác phẩm Thị Nở nhìn trộm Bà cô, mọi người xung quanh, nhìn “chồng mình”, giãy đành đạch giữa bao nhiêu máu tươi và nhìn xuống bụng thấy “còn tình yêu thương vô tình chợt gọi, lại thấy trong ta hiện bóng con người” (Một cõi đi về - Trịnh Công Sơn). Trong đầu thị thấp thoáng bóng hình chiếc lò gạch bỏ không… Từ chi tiết đó, Nam Cao đã khám phá và khẳng định một quy luật hiện thực mới mẻ, độc đáo: Lúc nào còn những kẻ thống trị độc ác, man rợ như Bá Kiến thì còn những người nông dân tha hóa và ngỗ ngược như Chí Phèo được sinh ra để “nối nghiệp”, đó cũng là bi kịch điển hình của người nông dân trong chế độ cũ. Và cuộc sống theo chu kì “đạp xe”, nối tiếp nhau cuộc giằng co thiện ác nhưng cuối cùng “bể dâu chớp mắt ngoảnh đầu thành mơ”.

Nam Cao đã đặt một dấu chấm kết thật tròn cho bi kịch một con người và cũng là số phận của hàng vạn con người trong buổi Thực dân Phong kiến, khi tình trạng người nông thôn bị “riết cổ bóp hầu”. Chí Phèo đã sống đời hôn ám đã thực hiện một cuộc chiến âm thầm tàn khốc và róng riết thét lên câu triết ngôn vĩ đại: “Ai cho tao lương thiện”. Từ đó đã mở ra cuộc khai chiến bất tử của cả dân tộc này, vùng lên trong đói nghèo rơm rác để rũ bụi sáng lòa…

Sáng tạo ra nhân vật Chí Phèo với gương mặt không tuổi chằng chịt đầy vết và một tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt. Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, cái nhìn vào cõi tinh thần và chiều sâu bi kịch. Và cũng chính những trang viết thấm đẫm nước mắt về người nông dân thức tỉnh đó, Nam Cao đã tự cắm cho mình cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của dòng văn học hiện thực phê phán và văn xuôi hiện đại Việt Nam thế kỉ XX.

(Nguồn: Trần Quốc Tuấn, GV Trường THPT Vĩnh Viễn)

Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo mẫu số 5

Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, ông cũng là nhà báo kháng chiến và là một những nhà văn tiêu biểu có nhiều đóng góp quan trọng trong nền văn học nửa đầu thế kỉ 20. Trong đó, Chí Phèo là tác phẩm có giá trị hiện thực cao và giúp cho người đọc hiểu hơn về con người và cuộc sống xã hội khi đó. Có một hiện thực mà không phải nhà văn nào cũng nhìn thấy được ngoài sự bần cùng, đói rét đó là sự tha hóa của một con người dưới guồng máy thống trị thối nát của xã hội phong kiến. Và Chí Phèo - nhân vật chính của truyện từ một người lương thiện trở thành kẻ bất lương trong mắt xã hội, nguyên nhân sâu xa chính là do xã hội đó đã đẩy Chí vào đường cùng. Để rồi, khi Chí Phèo muốn làm người, một mong muốn đơn giản mà lẽ ra không cần phải muốn mà Chí cũng không có được. Đây chính là bi kịch bị cự tuyệt làm người của Chí đau đớn và xót xa vô cùng.

Truyện Chí Phèo được Nam Cao viết vào năm 1941, đây là những năm nhân dân đói khổ, bần cùng, guồng máy chính trị thối nát. Tác giả đã dựa vào những cơ sở của việc thật, người thật và hư cấu, sáng tạo nên một bức tranh hiện thực sinh động về xã hội nông thôn Việt Nam thời bấy giờ. Một xã hội thối nát, ngột ngạt, tối tăm, đẩy con người vào bước đường cùng, tạo ra những bi kịch cuộc đời đau đớn và kinh tởm. Đặc biệt là thanh niên Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám bị đẩy vào tình trạng lưu manh hóa và đau đớn hơn là bị cự tuyệt quyền làm người.

Làm người là một quyền lẽ ra là bình đẳng, ai cũng như ai. Nhưng ở xã hội phong kiến thối nát ấy muốn làm người lại khó vô cùng. Đây chính là tấn bi kịch, là sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực sống và khát vọng, mơ ước, mong muốn sống như một con người bình thường. Chí Phèo đã rơi vào tấn bi kịch này, dẫn đến hành động giết Bá Kiến và tự sát. Đây không phải là hành động điên rồ mà là hành động đòi lại quyền làm người, hành động lên án xã hội phong kiến đã đẩy con người đến bước đường cùng, đã tước đoạt đi quyền làm người chân chính, quyền mà lẽ ra ai cũng có.
Đi sâu vào tác phẩm, ngay ở phần mở đầu, Nam Cao không vòng vo khi viết về Chí Phèo. Ông giới thiệu Chí Phèo bằng tiếng chửi quen thuộc mà cả làng Vũ Đại ngày nào cũng nghe. Đó là tiếng chửi say rượu của Chí nghe da diết, đau đớn nhưng đón nhận nó là sự thờ ơ của làng Vũ Đại, của xã hội. Chí càng chửi, người ta càng kệ. Nghe mãi cũng quen, coi như là Chí chửi trời, chửi đất chứ không phải chửi mình.

“Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.

Tiếng chửi của Chí không kể đêm ngày, khi nào hắn say là hắn chửi. Đây là một lời giới thiệu về hình ảnh rất lạ nhưng lại quá hiện thực và chân thật. Đây chính là bộ mặt thật của những thanh niên bị tha hóa ở xã hội phong kiến. Tại sao Chí lại lấy rượu làm bạn và chửi làng, chửi trời, chửi cả xã hội? Bởi vì, khi con người ta đã rơi vào bế tắc, khi con người ta không được công nhận, người ta càng đau đớn, càng phải chửi. Chửi để giải phóng sự uất ức đau đớn, bế tắc trong lòng. Nếu không chửi, Chí biết phải làm gì đây? Nếu cuộc sống hạnh phúc, bình yên thì Chí đâu có phải chửi, chỉ khi con người bị coi rẻ, bị quay lưng, không được công nhận thì mới dẫn đến ức chế và mượn chửi để nói lên tiếng lòng của mình. Chí còn chửi nghĩa là Chí còn khao khát được làm người, được mọi người để ý rằng mình cũng đang tồn tại, cũng đang là một con người.

Nhưng tất cả làng Vũ Đại đã quay lưng lại, đã không ai chấp nhận và coi Chí như một con người. Dù Chí có chửi cũng không ai nghe. Chỉ một chi tiết nhỏ này cũng cho thấy, quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt.

Không phải bây giờ Chí mới bị tước đoạt quyền làm người. Mà quyền làm người của Chí đã bị tước đoạt ngay từ khi Chí sinh ra. Chí không cha, không mẹ, không nhà, không cửa và không một tấc đất cắm dùi. Chí bị bỏ rơi ở lò gạch cũ giữa mùa đông lạnh giá, một tuổi thơ bất hạnh, cùng cực. Đây chính là kết quả của một xã hội thối nát hà khắc, sự ghẻ lạnh của người đời thật đáng sợ. Vậy mà khi ấy, Chí cũng đã từng mơ ước lương thiện và cũng đã là một người lương thiện. Nhưng Chí lại không được mọi người đối xử như một con người, như một đứa trẻ mình thường. Ngay cả khi sinh ra, Chí cũng bị chối bỏ quyền làm người.

Nếu chúng ta đã đọc qua tác phẩm hẳn đều biết rằng, dù là trẻ mồ côi, không tấc đất cắm dùi, nhưng khi lớn lên Chí cũng là một thanh niên cao to, sáng sủa, chịu khó, là người giàu lòng tự trọng và lương thiện. Nhưng bi kịch cuộc đời Chí là khi bị Bá Kiến ghen tuông và đẩy Chí đi tù. Bá Kiến đã tìm mọi cách đẩy Chí đi tù và biến Chí từ một người lương thiện trở thành một kẻ bất lương. Hắn đã lợi dụng Chí thành tay sai đâm thuê, chém mướn. Và Chí, vốn đã cô đơn trong cái xã hội loài người khinh rẻ nhau, giờ đây, khi đã là một người trưởng thành, bế tắc trước cuộc đời và nỗi cô đơn càng cao hơn, cuộc đời này còn gì để tiếc nuối nữa đâu. Chí sẵn sàng bán linh hồn mình cho Bá Kiến, làm việc cho Bá Kiến chỉ để được vài đồng bạc uống rượu và thành “con quỷ” làng Vũ Đại lúc nào không hay. Đây chính là bi kịch, là kết quả của một xã hội thối nát đã “nặn” ra một “con quỷ” mà “con quỷ” ấy trước đây cũng là một thanh niên lương thiện. Càng đọc càng thương Chí, càng hiểu sâu xa nguyên nhân đẩy Chí đến bước đường cùng càng thương Chí hơn.

Cuộc đời vốn đã không công bằng với Chí ngay từ nhỏ, vậy mà khi trưởng thành cũng không được sống bình an. Người xưa có câu “Khổ tận cam lai” nhưng có lẽ với Chí sẽ không bao giờ có tương lai, chỉ có khổ triền miên, đau khổ tận cùng mà thôi. Có lẽ, chỉ có Nam Cao - một nhà văn với trái tim nhân hậu, nồng ấm mới có thể viết lên những lời văn chân thật mà sâu cay như vậy. Chỉ có Nam Cao mới nhìn ra được nỗi đau tận tâm can của Chí, mới thấy được rõ bộ mặt của xã hội phong kiến thối nát, đó không chỉ là sưu cao, thuế cao, không chỉ là đói, là khổ mà nó còn là sự tha hóa trong mỗi con người, tấn bi kịch cuộc đời, một con người trở thành con quỷ và bị tước quyền làm người.

Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo - tấn bị kịch ấy đẩy lên đỉnh điểm là khi Chí gặp Thị Nở nhưng lại bị Thị từ chối. Trong lời văn của Nam Cao, Thị Nở xấu đến độ “ma chê quỷ hờn” có lẽ cả làng Vũ Đại không có ai xấu như Thị Nở. Không những xấu mà Thị lại còn dở hơi nên ế dài và chắc xác định ế cả đời. Vậy mà, số phận run rủi làm sao khi Thị Nở gặp được Chí, thương tình Chí và “cho” Chí. Sau đêm ở bụi chuối ấy, Chí như một người khác, Chí bừng tỉnh. Trái tim lương thiện của Chí khao khát được lương thiện, được sống. Mùi cháo hành của Thị Nở hay chính là liều thuốc tiên khiến cho đầu óc Chí tỉnh táo, Chí khóc. Đây là giọt nước mắt hạnh phúc mà đau khổ. Chí lúc này đây, một kẻ bị coi là “con quỷ” làng Vũ Đại lại biết yêu là gì và được một người đàn bà cho thì không còn gì hạnh phúc hơn. Thị Nở chính là sợi dây lương thiện kéo Chí lại với đời. Thị Nở khiến cho Chí khao khát làm người, Chí muốn làm người, muốn xây dựng tổ ấm với Thị, rồi sinh con đẻ cái như bao người khác.

Một khao khát thật giản dị biết chừng nào. Một khao khát mà những con người bình thường kia chẳng cần khao khát cũng có được. Thị Nở chính là đại diện cho trái tim thiện lương, cho khao khát, cho tình yêu trong Chí. Thị Nở chính là phần linh hồn nằm sâu trong “con quỷ” và khi được yêu thương thì linh hồn người bừng tỉnh. Nhưng đau đớn thay, bà cô của Thị lại không cho Thị lấy Chí. Tấn bi kịch được đẩy lên đỉnh điểm. Nam Cao thật khéo khi lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và bi kịch bị cự tuyệt tình yêu vào một thời điểm. Vậy là chiếc cầu nối đưa Chí đến với cuộc đời lương thiện đã bị gãy, cánh cửa cuộc đời đã tối sầm lại. Nếu trước đây, cuộc đời hắn cứ bế tắc triền miên vậy thì không sao, nhưng khi hắn mới bừng tỉnh, khao khát làm người thì lại bị chặt đứt nên nỗi khổ nhân lên thành nỗi thống khổ, chẳng còn ai trên cuộc đời này đón nhận hắn nữa rồi.

Khi con người ta sống, mà không có một ai công nhận, không ai đón nhận thì cuộc đời này còn ý nghĩa gì nữa không? Nếu sống trên đời không có ý nghĩa với một ai, bị cự tuyệt một cách tuyệt tình thì không chỉ riêng Chí mà ai trên đời này cũng đau khổ và bước vào đường cùng thôi. Sự đau khổ, níu kéo của Chí khi Thị Nở rời đi chính là sự níu kéo cuối cùng sợi dây làm người. Vậy mà Nở dứt khoát đi, dứt khoát đoạn tình chính là đã cầm dao đâm vào trái tim Chí một nhát kết thúc cuộc đời. Chí tìm đến rượu, càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau. Chưa bao giờ Chí tỉnh đến thế, mùi cháo hành cứ thoang thoảng đâu đây. Chí cầm dao tự nhủ sẽ đến nhà Nở để giết bà cô kẻ đã ngăn cản Chí đến với Nở, nhưng bước chân Chí lại đưa Chí đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, Chí đã tỉnh và hiểu ra rằng, đây mới là nguyên nhân gốc rễ đẩy Chí vào đường cùng, biến chí thành “con quỷ” làng Vũ Đại. Và trong lúc này đây, Chí mới thấm thía rằng bi kịch cuộc đời mình sẽ không thể thay đổi, Chí sẽ không thể trở thành một con người lương thiện như hắn mong muốn.

“Ai cho tao lương thiện?" - Một câu nói ai oán, đầy uất hận và thương tâm. Lương thiện và độc ác vốn là sự lựa chọn của một con người và lẽ ra không phải ai cho mà bản thân con người tự chọn. Vậy mà, Chí phải tự đặt câu hỏi ai cho hắn lương thiện, Chí khao khát lương thiện, trái tim hắn lương thiện, trái tim hắn là của một con người nhưng hắn lại không được công nhận là một con người. Xã hội thối nát đã cướp đi quyền làm người của hắn. Một câu nói đau đớn xoáy vào tâm can người đọc để lại một dấu nặng trong lòng, xót thương cho Chí vô cùng. Cuối cùng, Chí đã chém chết Bá Kiến rồi tự tử. Một cái kết có lẽ quá đau đớn nhưng lại quá hợp tình hợp lý.

Bá Kiến chính là đại diện cho sự thối nát của guồng quay thống trị xã hội phong kiến, chính xã hội này đã đẩy con người tha hóa và trở thành con quỷ. Chí chính là đại diện cho lớp thanh niên xã hội cũ bị tha hóa và khao khát sống thiện lương. Con người chỉ có thể là con người thật sự, được sống và được quyền lựa chọn cho cuộc đời mình khi bộ máy thống trị bị hạ bệ. Và Chí đã làm điều đó, thể hiện một khát khao trở về là con người. Cái kết Chí tự tử chính là sự hi sinh cho công cuộc đấu tranh làm người, có đấu tranh thì phải có đổ máu. Và chỉ có đổ máu thì mới có hạnh phúc, đó là lí lẽ rất đúng ở xã hội bấy giờ.

Con đường trở về làm người thiện lương của Chí thật quá đau đớn, nhiều chông gai, quá xót xa và từng tấn bi kịch liên tiếp dồn dập. Dưới ngòi bút hiện thực sắc sảo, miêu tả tâm lý nhân vật của mình, Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh hiện thực tàn khốc về những con người thời kỳ xã hội cũ. Qua tác phẩm Chí Phèo, chúng ta cũng cảm nhận rằng, trên con đường trở thành người và được thiên lương là cả một quá trình, là cả đau đớn, máu và nước mắt. Có lẽ, cái kết trong tác phẩm là sự bế tắc của con người trong xã hội ấy hay chính là sự bế tắc của tác giả. Và cái kết cũng chính là sự phản ánh hiện thực khắt khe, tàn khốc. Để khẳng định được quyền làm người của mình, Chí phải dùng đến cái chết. Đây cũng là lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, quyền sống và quyền được hạnh phúc của con người.

-/-

Các em vừa tham khảo gợi ý và một số mẫu bài văn phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do Đọc tài liệu sưu tầm và biên soạn. Xem thêm các bài văn hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 11 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn để tự rèn luyện kỹ năng làm văn. Chúc các em học tốt!

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM