Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học

Xuất bản: 27/03/2023 - Tác giả:

Top 7 bài văn hay bày tỏ cảm xúc của em về văn bản truyện đã học, hướng dẫn lập dàn ý cơ bản bài văn trình bày cảm xúc về một văn bản truyện mà em đã học

Cùng Đọc tài liệu tổng hợp một số mẫu bài văn bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học, gợi ý cách triển khai bài văn phát biểu cảm nghĩ của em về một văn bản, tác phẩm truyện đã học.

Dàn ý bài văn bày tỏ cảm xúc văn bản truyện đã học

a. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về văn bản truyện mà em muốn bày tỏ cảm xúc trong bài văn.

b. Thân bài

* Giới thiệu qua về văn bản truyện

- Thể loại truyện

- Nội dung truyện

- Ý nghĩa của truyện

* Cảm xúc của em đối với văn bản truyện

- Phê phán hay ca ngợi, khâm phục?

- Rút ra bài học về nhận thức và hành động.

c. Kết bài

- Khái quát cảm nhận chung của em về truyện.

Top 7 bài văn bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học

Dưới đây là một số bài văn, đoạn văn ngắn hay bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học sau đây để có thêm vốn từ ngữ và rút kinh nghiệm về cách trình bày cho bài làm của mình.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 1:

Câu chuyện ngụ ngôn về con ếch ngồi đáy giếng không chỉ mang lại sự giải trí cho độc giả mà còn cung cấp một bài học ý nghĩa cho những người có tầm nhìn hạn hẹp và thường xuyên bày tỏ thái độ hống hách, coi thường người khác.

Câu chuyện ngụ ngôn về con ếch ngồi đáy giếng là một câu chuyện dân gian cổ xưa, sử dụng hình ảnh các con vật và vật thể để mô tả và ám chỉ đến cuộc sống của con người, mang lại một bài học sâu sắc. Vì vậy, nó không chỉ là một câu chuyện ngụ ngôn được truyền tụng qua nhiều thế hệ mà còn trở thành một câu thành ngữ phổ biến trong văn hóa dân gian của dân tộc ta. Từ câu chuyện về chú ếch nhỏ sống dưới đáy giếng hẹp, chú ta đã sống quá lâu với niềm tin rằng chỉ có cua, ốc, nhái và bầu trời nhỏ như cái miệng giếng xung quanh, mà không nhận ra rằng đó chỉ là một phần rất nhỏ của cuộc sống và thế giới xung quanh .

Chính vì được làm chúa tể tại nơi mình sống, với các thần dân là những con vật nhỏ bé, chỉ cần nghe tiếng ộp ộp của chú ếch là đã khiếp sợ, mà chú đã trở nên kiêu căng và tự phụ. Tính cách đó đã ăn sâu vào ếch, khiến chú coi trời bằng vung, chủ quan và khinh đời, vì cho rằng ở rừng mình là to lớn nhất. Nhưng đến một ngày, khi trời mưa lớn và dòng nước dâng lên đẩy chú ếch ra khỏi cái đáy giếng hẹp, mọi chuyện đã thay đổi. Môi trường sống không còn giới hạn trong phạm vi nhỏ hẹp, đòi hỏi ếch phải thay đổi. Tuy nhiên, chú ếch vẫn nghĩ rằng mặt đất trên kia cũng giống như đáy giếng mà chú vẫn sống trước đó, và vẫn tự cho mình là chúa tể của nơi đó.

Câu truyện nhỏ ấy với tài nghệ ẩn dụ tinh tế của tác giả dân gian đã truyền đạt được bài học về cách nhìn nhận thế giới xung quanh cho con người. Ngoài ra, câu truyện cũng nhằm chỉ ra sự chỉ trích của những người có tính huênh hoang, khoác lác, và khuyên răn họ nên bỏ tính cách đó, mở rộng tầm nhìn hẹp của mình. Việc kiêu ngạo, không cẩn thận, và không coi ai ra gì đã dẫn đến việc ếch bị con trâu giẫm bẹp.

Mặc dù câu truyện ngụ ngôn ngắn gọn, nhưng chứa đựng đầy đủ ý nghĩa và được chia thành hai phần rõ ràng. Phần đầu tiên nhấn mạnh vào trình độ và cách sống của con ếch, trong khi phần thứ hai tập trung vào hậu quả của cách sống đó và đưa ra bài học có ý nghĩa cho mọi người.

Tác giả dân gian thông minh sử dụng nhân vật và bối cảnh để tạo ra những hình ảnh hiện thực mang ý nghĩa tượng trưng. Tiếng kêu ộp ộp của ếch vang vọng trong cái giếng nhỏ hẹp quá chật, không đủ để ếch nhận ra sự hống hách và sự thiếu hiểu biết của mình. Vì vậy, cơn mưa không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ếch, mà chính thói kiêu ngạo, chủ quan, không coi trọng ai khác của nó đã khiến nó sa vào tình cảnh đó.

Qua câu chuyện ngụ ngôn "Ếch ngồi đáy giếng", chúng ta rút ra được một bài học quý giá là không được tự cao tự đại và coi thường người khác dù trong hoàn cảnh nào. Chúng ta cần phải liên tục học hỏi vì cuộc sống còn rất nhiều điều chúng ta chưa biết, nếu không mở rộng kiến thức của mình thì sẽ gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 2:

Chúng ta vẫn truyền tai nhau câu "Đoàn kết là sức mạnh" và từ xa xưa, ông cha ta đã thấu hiểu đúng về tầm quan trọng của đoàn kết và mối liên hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Trong hình thức một câu chuyện ngụ ngôn dí dỏm, câu chuyện "Chân, tay, tai, mắt, miệng" đã truyền đạt cho chúng ta những bài học sâu sắc.

Truyện kể về các bộ phận trên cơ thể con người bao gồm chân, tay, tai, mắt và miệng. Chân, tay, tai, mắt cảm thấy miệng luôn được ăn ngon lành mà không phải làm việc nên đã phát sinh ghen tị và đồng loạt quyết định không làm việc nữa, để lão miệng tự tìm kiếm đồ ăn. Sự ganh đua của các bộ phận đã khiến chúng ngày càng suy nhược, mệt mỏi. Nhưng cuối cùng, chúng đã nhận ra vấn đề và hòa nhập với nhau để sống hòa thuận.

Suy nghĩ của em về truyện ngụ ngôn Chân tay tai mắt miệng là việc cơ thể chúng ta cần thức ăn để duy trì sức khỏe và nếu thiếu thốn, cơ thể sẽ trở nên yếu ớt và mệt mỏi. Như chân và tay sẽ trở nên bủn rủn, mắt thì mờ đục, tai thì luôn cảm thấy ồn ào và nặng trĩu. Tuy nhiên, câu chuyện còn chứa đựng một bài học sâu sắc. Giống như các bộ phận trên cơ thể con người, mỗi cá nhân trong xã hội đều có mối quan hệ với nhau và chúng ta cần đoàn kết và hòa thuận để tạo ra một cộng đồng đoàn kết và không thể tách rời được.

Truyện đã nhấn mạnh rằng, trong xã hội, mỗi người có một cá tính đặc biệt và khả năng riêng, vì vậy cách phân công và đóng góp công việc của họ cũng khác nhau. Tuy nhiên, mỗi cá nhân cần phải chịu trách nhiệm với cộng đồng và nếu họ chỉ quan tâm đến bản thân mình, thì không thể có một thể thống nhất. Ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, câu chuyện còn giáo huấn rằng không nên so sánh, ganh đua với người khác, vì điều đó sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm ảnh hưởng đến chính mình và những người xung quanh. Vì vậy, chúng ta cần sống, làm việc và đóng góp hết mình cho xã hội, chỉ có như vậy cuộc sống của chúng ta mới có ý nghĩa.

Cách kể chuyện vui nhộn, đặc trưng của ngụ ngôn đã giúp câu chuyện dễ tiếp cận với độc giả và mang lại cảm giác thân thiết. Mặc dù câu chuyện ngắn gọn, nhưng giá trị của nó sẽ còn tồn tại và ý nghĩa đến mãi sau này.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 3:

Trong cuộc sống, có những sự kiện đã xảy ra và không thể quay trở lại. Nhưng chính những sự kiện đó lại để lại trong chúng ta những kỷ niệm khó phai, khắc sâu vào tâm trí mỗi người mãi mãi. Đọc một tác phẩm cũng tương tự như vậy, có những câu chuyện ta chỉ đọc một lần nhưng nó lại ảnh hưởng đến tâm hồn ta mãi mãi. Đối với tôi, truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong tôi những dư vị và ấn tượng đặc biệt. Cụ thể, qua đoạn trích cùng tên, với nhân vật bé Thu và ông Sáu với những tình cảm cha con đầy tha thiết và xúc động, tôi vẫn nhớ mãi không quên.

Ông Sáu tham gia kháng chiến khi đứa con gái đầu lòng của ông chưa đầy một tuổi. Trong những năm tháng chiến tranh, vợ của ông đã đến thăm ông vài lần và mỗi lần, ông luôn yêu cầu mang theo con gái của mình. Tuy nhiên, vì chiến trường miền Đông rất đáng sợ nên vợ ông không dám mang theo Thu - tên con gái của họ. Vì vậy, ông chỉ được nhìn con qua những tấm ảnh nhỏ. Và giờ đây, khi ông trở về, tình cha con trong ông lại trỗi dậy, ông cảm thấy rất xúc động. Ngay khi xuống thuyền, ông nhận ra một đứa bé tóc ngang vai khoảng bảy, tám tuổi, và ông biết ngay đó là con của mình ngay trước khi xuồng cập bến. Ông nhún chân nhảy lên bờ ngay lập tức, bước nhanh và kêu gọi: "Thu! Con!". Hành động này thể hiện một tình cảm tự nhiên và quá xúc động của người cha.

Điều đó đã khiến tôi cảm thấy như lúc này, trái tim người cha tội nghiệp đang vang lên trong niềm hạnh phúc khi sau tám năm mới gặp lại con của mình, và ông mong con sẽ đáp lại tình cảm của mình. Nhưng đứa bé lại trông lạ lùng, không nhận ra ông. Trong khi đó, ông Sáu đầy xúc động và lắp bắp nói: "Ba đây con ơi"! Đó là lúc tình cảm của người cha phun trào lên đến đỉnh điểm, không thể bày tỏ bằng lời vì ông quá xúc động. Sau đó, Thu chạy vào nhà và ông Sáu đứng sững lại vì bất ngờ. Theo tôi thấy, thái độ và cách cư xử của Thu hoàn toàn đúng vì cô bé là một đứa trẻ và chưa bao giờ gặp người cha này. Tuy nhiên, ông Sáu thì thất vọng và bàng quan vì cách cư xử của con.

Sau đó, ông Sáu vẫn cố gắng để con nhận ra mình là cha. Suốt cả ngày, ông ở bên con, săn sóc và vỗ về. Tuy nhiên, mỗi lần ông cố gắng tiếp cận con thì con lại đẩy ông xa hơn. Ông chỉ mong được nghe con gọi mình là "ba". Đó là một điều đơn giản nhưng đối với ông Sáu thì rất quan trọng. Những hành động của ông Sáu để giúp con hay vỗ về con đều bị con bé phản đối. Nhưng tình cảm cha của ông giúp ông kiên trì vượt qua khó khăn. Một ngày, khi ông đang gắp trứng cá vàng bỏ vào bát, con bé đột nhiên hất nó ra, làm cơm văng tung tóe. Không kịp suy nghĩ, ông đã đánh một cái vào mông con. Điều này làm ông hối hận và ông có lẽ muốn nói với con: "Ba xin lỗi con, ba không muốn đánh con". Còn Thu thì có lẽ hối hận về hành động của mình.

Trong ba ngày nghỉ ngắn ngủi, ông đã dành thời gian ở bên con nhưng con không chịu nhận ra ông. Bây giờ đến lúc chia tay với bà con làng xóm, ông mang theo nỗi buồn đó. Nhưng đến lúc không ai ngờ đến, một tiếng kêu đầy xót xa đã vang lên: "Ba...a...a...ba". Tiếng "ba" ấy chạm đến lòng xót xa của ông. Đó là tiếng "ba" mà Thu đã dồn nén trong tám năm và bây giờ nó vỡ ra từ đáy lòng con bé. Đối với nó, tiếng "ba" là điều khát khao hơn cả đối với bất kỳ đứa trẻ nào khác, bởi từ nhỏ nó đã không có tình yêu thương của cha. Bây giờ, tiếng "ba" vang lên tự nhiên, ngỡ ngàng trong giây phút chia tay cuối cùng của cha con. Con bé muốn có ba, nó bật khóc vì hạnh phúc, nó hôn tóc, cổ và vết sẹo dài trên má của ba. Cuối cùng, con bé hiểu ra lý do tại sao nó không nhận ra ba là vì vết sẹo đó, khi nhìn thấy bức ảnh của ba đánh Tây thì nó mới hiểu được. Nhưng khi nó nhận ra, thì cũng là lúc phải chia tay. Ông và con bé đều vui và xúc động, ông ôm con và nói lời tạm biệt. Tuy nhiên, con bé không muốn ông đi, cho đến khi ông hứa sẽ mua cho nó một chiếc lược thì con bé mới đồng ý để ông đi. Trong chiến trường đầy ác liệt, ông vẫn cố gắng làm ra chiếc lược ngà.

Ông đã cảm thấy rất vui và hạnh phúc khi làm chiếc lược, như một đứa trẻ được tặng quà. Ông làm việc rất cẩn thận, tỉ mỉ như một người thợ bạc. Sau khi hoàn thành, ông đã khắc lên sống lưng của chiếc lược dòng chữ "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Ông luôn nhớ đến con, và mỗi đêm lại đem chiếc lược ra ngắm, chải để cho nó mượt mà. Tôi cảm động trước tình cảm thiêng liêng của người cha dành cho con. Tuy nhiên, một ngày không may, ông Sáu đã hy sinh. Trong giờ phút cuối cùng, dù không còn đủ sức, nhưng có lẽ tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong anh. Ông đã gửi chiếc lược đến cho anh Ba - một người đồng đội thân thiết và nhắn gửi rằng: "Hãy đưa chiếc lược này đến cho Thu".

Sau khi đọc đoạn văn đó, tôi cảm thấy như mình đang chung sống với nhân vật trong hoàn cảnh đầy áp lực đó. Cái nhìn của nhân vật đó là sự tin tưởng, gửi gắm cả tâm hồn ông qua đó... Tôi bị cuốn hút bởi tình cảm cha con đầy thiêng liêng và cao quý. Điều đó cho thấy rằng tình cảm này có thể hiện hữu ngay cả trong khi con người ta đang đối mặt giữa sự sống và cái chết. Khi nhân vật Ba nhận lời thì ông mới nhắm mắt tức ước nguyện xem như được chấp nhận. Sau đó, bác Ba đã gặp gỡ Thu - lúc đó đã là một cô gái dũng cảm và trao lại kỉ vật đó cho cô.

Từ tác phẩm này, chúng ta có thể thấy rằng tình cha con có thể thúc đẩy người ta làm mọi việc cho hạnh phúc của con người. Khi đối mặt với cái chết, tình phụ tử vẫn luôn hiện diện và trỗi dậy. Điều đó giúp tôi nhận thức được giá trị của tình cha con, một tình cảm thiêng liêng và đáng trân trọng. Từ đó, tôi muốn lan tỏa thông điệp rằng chúng ta cần phải giữ gìn và quý trọng tình phụ tử, vì đó là một phần không thể thiếu của cuộc sống.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 4:

Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) là một nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam, được biết đến với tác phẩm Vũ trung tùy bút. Ông là một danh nhân của thời kỳ cuối của triều đại Lê - Trịnh và đầu thời kỳ nhà Nguyễn, được coi là một ví dụ điển hình cho phẩm chất của những kẻ sĩ Bắc Hà. Bút pháp của ông tinh tế, tài hoa, và phong cách thư nhàn cao nhã, đã ghi dấu ấn đậm nét trong văn học Việt Nam.

Tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ đã vẽ lên một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, sang trọng trong phủ chúa Trịnh, và được rút gọn trong truyện ngắn Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh. Với tình cảm và tài hoa của một kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê - Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn, tác giả đã tùy bút một cách tinh tế và tùy hứng, lồng ghép các cảnh ăn chơi, bán hàng, tấu nhạc của cung đình tại chùa Trấn Quốc, cũng như sự nhũng nhiễu của hoạn quan khắp chốn dân gian. Chỉ cần đọc qua một lần, ta đã có thể nhớ mãi vẻ đẹp của tác phẩm này.

Chuyện cũ... xảy ra vào khoảng thời gian Giáp Ngọ - Ất Mùi (1774 - 1775), khi Đàng Ngoài đang "vô sự" và Thịnh Vương (Trịnh Sâm) đang ở đỉnh cao của sự thịnh vượng. Đại phi Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, thường đi chơi ngắm cảnh đẹp và ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Mỗi tháng ba bốn lần, chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ. Cảnh đón tiếp với các nghi thức tưng bừng độc đáo, có "binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ". Hội chợ cũng được tổ chức, quan nội thần cải trang "đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bán hàng hóa chung quanh bờ hồ".

Thuyền ngự đi đến đâu, các quan liên tục ghé vào bờ để mua bán các thứ, trong khi đó các quan lại tùy ý hô tụng đại thần. Chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi biểu diễn nhạc của các nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng "liên tục" để đáp ứng nhu cầu ăn chơi của vua chúa và các quan lại thời Lê - Trịnh. Số tiền, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân đã bị bọn quan tham nhũng cướp đoạt một cách vô tội vạ. Phạm Đình Hổ đã được nghe và thấy Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, vì thế cách kể, cách miêu tả của ông rất sống động.

Nhằm được sống trong hoa lệ và tận hưởng sự giàu sang, các quan chúa trong triều đã trở thành những kẻ cướp bóc, đàn áp dân chúng khắp nơi. Chúa cũng thu thập những vật phẩm quý giá như trân cầm, động vật kỳ quái, cổ vật và các loại cây cảnh để trang trí cho phủ. Có những cây cảnh có cành lá rậm rạp như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài hàng chục mét, phải dùng đến một nhóm người mới có thể kéo được từ bên bắc qua sông. Trong phủ chúa, khắp núi non và bờ sông đều được trang trí hoa mỹ. Vườn ngự uyển vào những đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn râm ran, nhưng cũng có những đêm tiếng ồn ào, như trận mưa lớn kèm theo gió mạnh, khiến tổ chim bị tan nát. Ngạc nhiên việc này, Lê Hữu Trác đã viết trong Thượng kinh kí sự.

Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.

Phạm Đình Hổ có ngại ngần: "Người trí thức biết rằng đó là dấu hiệu của sự sụp đổ". Cuộc sống xa hoa đó là nguyên nhân của việc ngai vàng đổ sập dần theo từng ngày. Năm 1782, khi Trịnh Sâm qua đời, loạn kiêu binh bùng nổ và Thăng Long bị phá hủy tan hoang. Vào năm 1786, Nguyễn Huệ lần đầu tiên dẫn quân ra Bắc Hà và cơ nghiệp của gia tộc Trịnh bị hủy hoại trong chốc lát! "Dấu hiệu sụp đổ" mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Cuộc đời luôn tuần hoàn và không thể tránh khỏi những biến cố cay đắng.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?

(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)

Trong phủ chúa, bọn hoạn quan thì vừa xảo quyệt vừa trắng trợn. Dân gian khinh bỉ chửi chúng là "cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan". Chúng tận dụng "gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm" để cướp chim tốt khiếu hay hay cây cảnh trong chậu. Chúng còn mưu đêm đến để sai lính lẻn vào "lấy phăng đi, rồi buộc tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền". Chúng ngang ngược "phá nhà phá tường" của dân để cướp được hòn đá hoặc cây cối gì. Với nhà giàu thì chúng lập mưu vu để hành hạ bằng cách "giấu vật cung phụng" hoặc bỏ ra kêu xin tiền. Nhiều gia đình phải "bỏ của ra kêu xin", phá bỏ núi non bộ hoặc cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.

Gia đình của tác giả là những quan lại, quý tộc thời Lê - Trịnh. Trong hoàn cảnh rối ren đó, mẹ của Phạm Đình Hổ, một bà cung nhân, đã phải giao việc cho người nhà chặt hai cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng" và hai cây lựu trắng, lựu đỏ "lúc ra quả trông rất đẹp". Những chi tiết này cực kỳ sống động và thực tế.

Trong tác phẩm của mình, tác giả đã kể lại một sự kiện có thật trong gia đình ở phường Hà Khẩu, nhằm mục đích vừa gieo niềm tin cho độc giả về tương lai, vừa lên án thái độ tham lam và đáng ghét của các quan lại thời Lê - Trịnh, đồng thời vạch trần sự thối nát trong phủ chúa.

Cuốn tùy bút "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" của Phạm Đình Hổ là một tài liệu lịch sử quan trọng, nó khắc họa chân thực cảnh vật và nhân vật, cuộc sống xa hoa của nhà vua và quan lại, những hành động ăn cướp, làm giàu không đàng hoàng của bọn hoạn quan trong phủ chúa.

Phong cách viết của Phạm Đình Hổ rất đặc trưng với sự trầm tĩnh và sâu sắc. Các cảm xúc và ý nghĩ về cuộc sống của ông được truyền tải qua những chi tiết, tình tiết và mẩu chuyện cực kỳ sống động và chọn lọc, tạo nên một tác phẩm đậm đà và nhã thú.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 5:

Chắc chắn trong tuổi thơ, chúng ta đều tò mò về quá trình sản xuất sô-cô-la và mong muốn được tham quan một nhà máy sản xuất sô-cô-la. Ước mơ đó đã được hiện thực hóa thông qua tác phẩm "Xưởng sô-cô-la" của Rô-a-đan, với những từ ngữ tinh tế và hình ảnh sống động.

Sác-li là một cậu bé nghèo sống với bố mẹ và ông bà nội, ngoại. Cậu đã tìm được tấm vé vàng thứ năm và được đưa đến thăm quan nhà máy của ông Quơn-cơ. Tại đây, ông Quơn-cơ trình diễn chùm chìa khóa và giới thiệu trung tâm thần kinh của nhà máy, trái tim của toàn bộ công việc và nơi sản xuất sô-cô-la.

Năm trẻ em và chín người lớn đều cảm thấy bất ngờ khi bước vào một thung lũng xinh đẹp với những cánh đồng cỏ xanh rì rào ở hai bên, và một dòng sông nâu chảy qua thung lũng. Một thác nước được tạo thành giữa dòng sông, và một đường ống thủy tinh mò vào sâu bên trong. Cây cối bao phủ cả hai bên sông, tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp. Quơn-cơ đã giải thích cho đám trẻ rằng dòng sông nâu đó chính là sô-cô-la được ông tạo ra từ rất nhiều nguyên liệu khác nhau, tất cả đều có thể ăn được. Ngoài ra, những người Um pơ - Lum pơ còn được làm việc tại xưởng sô-cô-la của ông Quơn-cơ.

Xưởng sô-cô-la của ông Quơn-cơ giống như một thế giới cổ tích mà tôi luôn mơ ước. Tất cả đều thật tuyệt vời khi mọi thứ đều có thể ăn được. Tôi ao ước mình có thể là một trong năm đứa trẻ may mắn được thăm quan xưởng sản xuất sô-cô-la của ông Quơn-cơ.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 6:

Hồ Chủ tịch không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà thơ nổi tiếng. Bài thơ "Cảnh khuya" của ông thể hiện tâm hồn tinh tế và tấm lòng cao cả của một chiến sĩ trong Bác. Tôi cảm thấy mê hoặc với cảnh đẹp hùng vĩ được miêu tả trong bài thơ về núi rừng Việt Bắc - nơi khai sinh của cách mạng. Tôi cũng rất ngưỡng mộ và tôn trọng lòng yêu nước vĩ đại của Hồ Chủ tịch.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Câu thơ đầu đã thể hiện bức tranh thiên nhiên đẹp của rừng Việt Bắc:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Bằng sự khéo léo và sáng tạo của các biện pháp so sánh, cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc đã trở nên mộng mơ, rực rỡ hơn.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Tiếng vang mới trong trẻo, du dương, vang lên bằng cách tài tình so sánh. Tiếng "a" ở cuối câu tạo ra hình ảnh tiếng suối đều đặn, miên man, gợi lên trong tâm hồn em một cảm giác thiết tha, ngọt ngào, sâu lắng.

Nghệ thuật so sánh đã tạo nên vẻ đẹp mới cho hình ảnh thơ. Bác đã biến dòng suối thành tiếng hát trong trẻo, tràn đầy sức sống. Tiếng suối như có hồn của một nghệ sĩ. Bác đứng dưới rừng Việt Bắc, thưởng thức tiếng suối và cảnh thiên nhiên của núi rừng khi đã buông tối. Chỉ khi say mê, hòa hợp thân thiết với thiên nhiên, Bác mới nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên tạo nên vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây, dù không phải là nghệ sĩ và không thân thiết với thiên nhiên như Bác, em cũng cảm thấy tâm hồn mình bị xúc động mãnh liệt. Em cảm thấy hạnh phúc và xúc động, và thấy con suối hiện ra trước mắt em rực rỡ, tuyệt vời.

Nếu âm thanh của suối mang lại cho cảnh vật một sự tĩnh lặng, sâu lắng, thì ánh trăng lại làm cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo hơn.

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Ánh trăng tròn vẹn phát ra ánh sáng lấp lánh trên cõi đất. Những lùm cây rậm rạp được ánh trăng chiếu xuống trông như những sợi tơ nhỏ lấp lánh trên tóc bồng bềnh của cô gái trẻ. Ánh trăng soi qua kẽ lá, chiếu xuống mặt đất, tạo thành những đốm trắng nhỏ li ti trên mặt đất như những bông hoa gấm. Ánh trăng, cây cổ thụ, bóng hoa, tất cả đều có mặt trong một bức tranh đẹp tuyệt vời, đan xen với nhau tạo nên một vẻ đẹp tuyệt vời. Từ "đan xen" khiến cho cảnh vật càng sống động hơn. Bức tranh tươi đẹp này làm cho tâm hồn em cảm thấy say mê và ngây ngất.

Bác chỉ vẽ lên một vài nét về cảnh rừng Việt Bắc nhưng tinh thần tinh tế, nhạy cảm của Người đã hình thành trong tâm hồn em một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp. Liệu Bác có thao thức, chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên đang quá đẹp?

Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ

Sử dụng nghệ thuật so sánh, tác giả đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Cảnh rừng Việt Bắc được mô tả như một bức tranh tươi đẹp và hoàn hảo, với ánh trăng, tiếng suối, bóng hoa và cây cổ thụ. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh hai lần trong bài, mang lại vẻ đẹp tươi khác nhau và giúp cho cảnh rừng Việt Bắc hiện ra rõ nét hơn. Điều đó cho thấy tâm hồn của Người với sự yêu thiên nhiên và yêu nước sâu sắc. Khác với người xưa, Người không chỉ yêu thiên nhiên mà còn lo lắng cho nước nhà, cho giang sơn tươi đẹp.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Trong tâm hồn em, cảm xúc khâm phục đối với Bác ngày càng trỗi dậy. Câu thơ ấy đã giải thích lý do vì sao Bác không thể ngủ: vì lo lắng cho nước nhà. Nhờ câu thơ này, em hiểu được hoàn cảnh của Bác lúc đó. Có lẽ đã nhiều đêm Bác thao thức không ngủ như vậy, bởi Bác lo cho dân, lo cho nước. Rồi đêm nay, giữa rừng Việt Bắc, bất ngờ chứng kiến khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp tột cùng, lòng Bác tràn đầy cảm xúc và đã phát sinh ra những câu thơ không phải do Bác tìm kiếm, mà do cảm nhận trực tiếp. Điều đó khiến em càng xúc động và kính phục tình yêu, tâm hồn vĩ đại của Bác.

Đọc bài thơ "Cảnh khuya", tâm hồn em vừa say mê với khung cảnh tươi đẹp vừa khâm phục phẩm chất và tâm hồn cao quý của Bác. Bài thơ cho em thấy được tâm hồn tinh tế của một người thi sĩ và tấm lòng vị tha của một người chiến sĩ, hai yếu tố này hoàn hảo kết hợp trong con người Bác. Bất kể trong những giây phút thư giãn với thiên nhiên hay trong những giờ làm việc vất vả, Bác không bao giờ quên nghĩ đến công việc cho nước, cho quân đội. Từ đó, em càng kính trọng và tôn kính Người hơn.

Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học mẫu 7:

"Tôi đi học" là một truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh, được đăng trong tập Quê mẹ và xuất bản năm 1941. Truyện ngắn này thể hiện rõ phong cách sáng tác đặc trưng của tác giả với những đặc điểm đậm nét của chất trữ tình, êm dịu, đằm thắm và tràn đầy chất thơ. Truyện đã chân thực và xúc động tái hiện lại tâm trạng bồn chồn, bỡ ngỡ của nhân vật chính là chú bé đi học lần đầu trong ngày khai giảng.

Cảm xúc của tôi bắt đầu từ cảnh lá rụng cuối thu hiện tại. Buổi sáng đầy sương và gió lạnh khiến tôi nhớ lại ngày tựu trường xa xưa, khi đó tôi còn là một cậu bé được mẹ âu yếm nắm tay và dẫn đi. Con đường dẫn đến trường là một con đường làng dài và hẹp mà tôi đã quen thuộc đi lại nhiều lần, nhưng lần này lại thấy lạ. Cảnh vật quê nhà có vẻ đã thay đổi, có lẽ do trái tim tôi đang trải qua một sự thay đổi lớn: tôi, một cậu bé bảy tám tuổi, đã cảm thấy mình đã khôn lớn hơn, không còn chơi bời như thằng Quý hay thằng Sơn nữa.

Kỷ niệm về buổi tựu trường xa xưa đó không thể phai nhòa. Cảm giác của chú bé thật trang trọng và đứng đắn khi mặc chiếc áo dài vải đen và cầm hai quyển vở mới. Chú nhớ đến những cậu học trò cùng tuổi, được mặc áo quần tươm tất, vui vẻ gọi tên nhau hoặc trao đổi sách vở mới. Dù chú cầm hai quyển vở mới với tay ghì chặt nhưng vẫn cảm thấy nặng nề, rồi một quyển vở vụt ra và chênh đầu chúi xuống đất. Nhìn thấy những đứa trẻ khác cầm nhiều sách vở và còn có bút thước, chú ngây thơ nghĩ rằng chỉ có người khéo tay mới cầm nổi bút thước. Tâm trí nhân vật tôi đã giữ lại ý nghĩ đó như một làn mây lướt qua trên ngọn núi, tôi cảm thấy so sánh tuyệt vời khi ý nghĩ "chỉ có người khéo tay mới cầm nổi bút thước" được so sánh với hình ảnh của một làn mây lướt qua trên ngọn núi, giúp nổi bật sự non nớt và ngây thơ của nhân vật tôi.

Khi đứng trước ngôi trường, chú bé trở nên càng hồi hộp và bỡ ngỡ hơn. Chú ngạc nhiên trước cảnh đông vui đông đúc của các học sinh trên sân trường: tất cả đều mặc áo quần sạch sẽ, gương mặt rạng rỡ và vui tươi. Chú từng đi bẫy chim quyên với thằng Minh và ghé thăm trường một lần, nhưng lần đó chú thấy trường xa lạ, cao ráo và sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Tuy nhiên, buổi tựu trường hôm nay khiến chú cảm thấy trường Mĩ Lí của mình thật xinh đẹp và oai nghiêm như cái đình làng Hòa ấp. Đứng giữa sân trường rộng lớn, chú bé bỗng nhiên trở nên lo sợ và bơ vơ. Có thể cảm xúc bồi hồi, bỡ ngỡ đó là thật, rất điển hình và thực tế đối với một đứa trẻ trong buổi tựu trường đầu tiên của đời mình.

Chú bé cũng giống như các học trò khác, đứng bên người thân, như một chú chim ở bên bờ tổ, muốn cất cánh bay cao tới những nơi xa xôi, nhưng lại còn do dự, sợ hãi. Hình ảnh so sánh rất đặc sắc! Tâm trạng của tuổi thơ trong buổi tựu trường vừa đầy khao khát học hành, ước mơ bay tới những chân trời xa xăm, vừa chứa đựng hy vọng và tương lai.

Tiếng trống khai giảng ngày nào cũng làm chấn động lòng người, hồi hộp kỳ lạ, và đối với chú bé, cũng không khác gì vậy. Tiếng trống trường Mỹ Lí đã vang lên và làm rung động tâm hồn của chú. Khi học sinh xếp hàng vào lớp, chú cảm thấy lẻ loi, không biết nơi nương tựa. Và tất cả các học trò đều bắt đầu lúng túng, vụng về. Họ bị kéo dìu đến trước, co chân lại duỗi chân, toàn thân run lên theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp. Khi thầy giáo gọi tên và các em vào lớp Năm, tình trạng lúng túng lại càng trở nên nghiêm trọng hơn. Nhiều em khóc, thút thít, nhưng chú bé chỉ biết nín thở, cố gắng đẩy tôi tới trước nhưng vẫn không thể kìm nổi nước mắt. Chỉ có bàn tay mẹ vuốt nhẹ trên tóc chú, làm chú cảm thấy yên lòng hơn. Dù được thầy giáo trẻ tuổi đón ở cửa lớp, chú vẫn cảm thấy lẻ loi và chưa bao giờ xa mẹ như lần này trong thời thơ ấu.

Khi ngồi trong lớp, chú bé cảm thấy hồi hộp và bồn chồn, và bị ám ảnh bởi một mùi hương lạ. Chú nhìn thấy các hình treo trên tường và cảm thấy thích thú với chúng. Chú cảm thấy ghế của mình là vật sở hữu riêng của mình và quan tâm đến người bạn cạnh bên của mình. Có lúc chú nhìn thấy một con chim và ao ước mình cũng bay như nó. Chú vươn tay lên bàn và viết tập "Tôi đi học" bằng cách lẩm nhẩm đánh vần. Tiếng phấn của thầy giáo đã đưa chú trở lại thực tế.

Thanh Tịnh đã sử dụng bản hồi ức của mình để miêu tả chuỗi sự kiện, những cảm xúc đầy hồi hộp và bỡ ngỡ của nhân vật chính "tôi" trong buổi khai giảng trường học theo thứ tự thời gian và không gian. Ban đầu là khi mẹ dẫn đi trên đường làng vào buổi sáng, sau đó là lúc đứng giữa sân trường, nghe tiếng trống vang lên, ông đốc đọc tên và dặn dò, cuối cùng là khi thầy giáo trẻ dẫn vào lớp học.

Tôi đi học là một bài văn đầy chất thơ, chất thơ của những ký ức về ngày tụ hội đầu năm học thơ ấu. Giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm, mang trong mình sự lắng đọng và khơi gợi tâm hồn kí ức của mỗi người. Tôi đi học là một lời thổ lộ man mác, bâng khuâng về một thời để nhớ, để yêu. Ký ức đó rất đẹp và sâu sắc, vì thế mỗi khi cuối thu về, lá rụng trên đường và trời xám xịt, lòng tôi lại đắm chìm trong những ký ức mơn man của ngày tụ hội đầu năm học.

-/-

Vừa rồi là nội dung chi tiết một số mẫu bài văn nêu cảm xúc về văn bản truyện đã học - Văn mẫu lớp 7 do Doctailieu tổng hợp và biên soạn chi tiết hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có một bài văn hay và sâu sắc.

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM