Bài dự thi tìm hiểu về truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân các tỉnh

Xuất bản: 13/03/2018

Doctailieu xin gửi tới các bạn bài viết bài dự thi tìm hiểu truyền thống lực lượng vũ trang các tỉnh để cùng tham khảo và áp dụng đối với các bài dự thi tìm hiểu khác của tỉnh mình. Tải bản DOC bài dự thi nêu rõ về truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang nhân dân tại các tỉnh thành trên cả nước.

Bài dự thi tìm hiểu về truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân các tỉnh

bai du thi tim hieu ve truyen thong luc luong vu trang nhan dan cac tinh

Bài dự thi tìm hiểu về truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Tuyên Quang

Bài dự thi tìm hiểu lực lưỡng vũ trang nhân dân

Câu hỏi 1: Tại sao ngày 17/4/1947 được xác định là ngày truyền thống của Lực lượng vũ trang tỉnh Tuyên Quang?

Trả lời:

Đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng; thực hiện nghị quyết của Đảng về tổ chức, xây dựng, huấn luyện, hoạt động và phát triển Lực lượng vũ trang nhân dân; thực hiện nghị quyết kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I và sắc lệnh số 230/SL ngày 30/11/1946 của Chủ tịch nước về việc thành lập các Ban chỉ huy Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội dân quân, thực hiện thông tư của Bộ Quốc phòng và hướng dẫn của Bộ Tư lệnh Chiến khu X, ngày 17/4/1947 Tỉnh đội Tuyên Quang được thành lập (nay là Bộ CHQS tỉnh Tuyên Quang) với 30 cán bộ, chiến sĩ, cơ cấu tổ chức gồm có: Ban Chính trị, Ban Quân sự, Ban Tổ chức và một số cán bộ làm công tác quân báo; đồng chí Phạm Cương làm Tỉnh đội trưởng, đồng chí Vũ Tuấn làm Chính trị viên. Đồng thời, chi bộ Đảng Tỉnh đội được thành lập, gồm 20 đảng viên do đồng chí Vũ Tuấn làm Bí thư. Chi bộ chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Tuyên Quang, đồng thời chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy Khu X về công tác quân sự - quốc phòng. Và được Bộ Tư Lệnh Quân khu 2 quyết định công nhận ngày 17/4 là ngày truyền thống của LLVT tỉnh, Qua 70 năm xây dựng và trưởng thành, LLVT tỉnh đã không ngừng lớn mạnh, lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương.

Câu hỏi 2: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhiều trận đánh của Quân và dân tỉnh Tuyên Quang đã đi vào lịch sử, đồng chí hãy cho biết thời gian, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của những trận đánh tiêu biểu đó?

Trả lời:

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp LLVT Tuyên Quang đã tham gia đánh 48 trận, trong đó có 30 trận độc lập, 18 trận phối hợp với bộ đội chủ lực, tiêu diệt 1.289 tên địch, làm 240 tên bị thương; bắn chìm, bắn cháy 10 ca nô, tàu chiến, phá hủy 01 máy bay, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự của địch. Quân Pháp không những bị đánh thiệt hại nặng mà còn phải chịu những nỗi kinh hoàng và sự khiếp đảm khi dấn thân vào đất Tuyên Quang, lính Pháp đã gọi Tuyên Quang là "Nghĩa địa khổng lồ". Một số trận đánh tiêu biểu diễn ra trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang là:

* Trận Bình Ca (12/10/1947) - Chiến thắng “mở đầu cho những chiến công rực rỡ khác trên Sông Lô”.

* Trận Địa lôi Km 7 (22/10/1947) - Nỗi kinh hoàng của quân Pháp.

* Trận Đèo Gà - Cầu Cả (05/11/1947) - Trận đánh thể hiện ý chí quyết tâm tiêu diệt địch của quân dân ta.

* Trận Khe Lau (10/11/1947)- Bể lửa thiêu đốt quân giặc.

* Trận Bình Ca (12/10/1947) - Chiến thắng “mở đầu cho những chiến công rực rỡ khác trên Sông Lô”

Ngày 12/10/1947, đoàn tàu chiến của địch từ Đoan Hùng ngược Sông Lô lên đến Bình Ca, từ trận địa mai phục phía tả ngạn, bộ đội tiểu đoàn 42, trung đoàn 174 dùng súng Ba-zô-ca bắn chìm một pháo thuyền địch. Sáng ngày 13/10/1947, quân Pháp đổ bộ lên bến Bình Ca định tiến vào Sơn Dương. Bộ đội cùng với du kích địa phương đồng loạt nổ súng, ném lựu đạn, giật mìn địa lôi và nhất tề xông lên đánh giáp  lá cà với địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Quân Pháp buộc phải tháo lui xuống tàu rút chạy về thị xã Tuyên Quang. Chiến thắng Bình Ca là chiến thắng đầu tiên của quân và dân ta trên mặt trận Sông Lô. Sau đó, vào ngày 03/11/1947, cũng tại Bình Ca, quân ta   đã phục kích đánh thắng một cuộc đổ bộ của 200 quân Pháp, diệt hơn 100 tên, thu nhiều vũ khí. Trận Bình Ca (12/10/1947) và các trận đánh sau đó ở khu vực này đã góp phần bảo vệ vững chắc cửa ngõ phía tây An toàn khu của Trung ương. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã khen ngợi: "Trận Bình Ca Tiểu đoàn 42 đã đánh lui 1 trận đổ bộ của giặc, xung phong cướp súng, bắn chìm pháo thuyền ghi một chiến công đầu tiên, mở đầu cho những chiến công rực rỡ khác trên sông Lô".

* Trận Địa lôi Km 7 (22/10/1947) - Nỗi kinh hoàng của quân Pháp

Ngày 22/10/1947, đội tự  vệ Thành Tuyên cùng du kích Yên Sơn và bộ đội tổ chức phục kích tại km 7 đường Tuyên Quang đi Hà Giang, thuộc địa phận xã Trung Môn - Yên Sơn. LLVT tỉnh đã sử dụng bốn quả bom câm (thu được của địch) được cải tạo thành những trái địa lôi. Khi đoàn quân địch gồm 500 lính, nhiều lừa, ngựa thồ lọt vào trận địa, tự vệ ta giật dây điểm hỏa. Ba quả địa lôi nổ tung, xé tan đội hình quân địch, gần 100 tên chết tại chỗ và bị thương. Địch bị thiệt hại nặng phải quay lại thị xã Tuyên Quang. Bộ đội, du kích ta lại cắt rừng đón đánh tiếp ở km 5 diệt thêm 30 tên nữa. Trận địa lôi km 7 là trận đánh điển hình về tinh thần mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, dùng vũ khí địch đánh địch của LLVT Tuyên Quang. Địch kinh hoàng gọi trận này là "Tiếng nổ của hỏa ngục".

* Trận Đèo Gà - Cầu Cả (05/11/1947) - Trận đánh thể hiện ý chí quyết tâm tiêu diệt địch của quân dân ta

Bị quân ta chặn đánh liên tiếp, mất sức chiến đấu, không thực hiện được kế hoạch hợp điểm, quân Pháp buộc phải bỏ Chiêm Hoá rút lui về thị xã Tuyên Quang. Nắm được ý đồ của địch, ngày 05/11/1947 du kích các xã Hoà Phú, Yên Nguyên phối hợp với bộ đội bố trí phục kích địch suốt từ Đèo Gà tới cầu Cả. Tại trận địa phục kích chính ở cầu Cả, bộ đội, du kích đã tiêu diệt gần 100 tên địch, thu nhiều vũ khí, sau đó tiếp tục truy kích địch trên suốt dọc đường chúng rút chạy về thị xã Tuyên Quang.

* Trận Khe Lau (10/11/1947)- Bể lửa thiêu đốt quân giặc

Bị thua đau ở nhiều nơi, quân Pháp không còn đủ sức chiến đấu buộc phải tháo chạy khỏi Chiêm Hoá theo đường sông. Ta chọn Khe Lau, nơi gặp nhau của sông Gâm và sông Lô thuộc ba xã Phúc Ninh, Thắng Quân, Tân Long làm trận địa phục kích. Quân và dân Yên Sơn đã cùng bộ đội đào hầm hào, bí mật khênh pháo, bố trí trận địa cả hai bên bờ sông. Chiều ngày 10/11/1947, đoàn tầu địch xuôi về tới Khe Lau. Hai khẩu sơn pháo 75 và Ba-Zô-Ca đồng loạt phát hoả. Cả ba tầu chiến và ca nô địch bị trúng đạn, bốc cháy. Binh lính địch liều chết nhảy xuống sông bơi vào bờ, đều bị bộ đội và dân quân ta tiêu diệt. Xăng dầu loang trên mặt sông bắt lửa cháy ngùn ngụt. Sông Lô trở thành dòng sông máu lửa đối với quân thù. Trận Khe Lau ta đã nhấn chìm một ca nô, hai tầu chiến, diệt gần 300 tên địch, thu nhiều vũ khí.

Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đánh giá: Đây là một trong 10 trận đánh thắng lớn của ta trong chiến dịch Việt Bắc - Thu đông năm 1947. Chiến thắng Khe Lau góp phần đánh quỵ giang đoàn Kéc-Ga-Ra-Vát của địch trên sông Lô. Là trận phát huy được yếu tố chủ động, bí mật, bất ngờ, sáng tạo trong lựa chọn cách đánh, đồng thời thể hiện rõ quyết tâm chiến đấu, chiến thắng và sự phối hợp tác chiến chặt chẽ của quân và dân Tuyên Quang với bộ đội chủ lực.

Đến cuối tháng 12 năm 1947, bị tổn thất nặng nề, giặc Pháp phải rút khỏi Tuyên Quang, rút khỏi Việt Bắc. LLVT Tuyên Quang đã góp phần quan trọng vào chiến thắng sông Lô oai hùng, bẻ gẫy gọng kìm phía Tây của quân Pháp, đập tan cuộc tấn công lên Việt Bắc của chúng, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến, làm phá sản kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của ta sang giai đoạn mới. Đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng đánh giá: "Những trận đánh vô cùng anh dũng của quân và dân ta trên sông Lô và trên con đường Tuyên – Hà, tuy chỉ tiêu diệt, trên 1.000 quân tinh nhuệ của địch nhưng đã khiến cho lính địch hoảng sợ mất tinh thần. Chẳng những nó làm sai lệch kế hoạch của địch mà còn phá một phần lớn kế hoạch tiến công Việt Bắc. Giá trị của trận Sông Lô chính là ở đó".

Câu hỏi 3: Đồng chí cho biết Đảng bộ Quân sự tỉnh Tuyên Quang đã tổ chức mấy kỳ Đại hội? Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân sự tỉnh nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác định phương hướng, mục tiêu gì để xây dựng LLVT tỉnh vững mạnh trong thời gian tới?

Trả lời:

Từ khi thành lập tỉnh đến nay, LLVT tỉnh đã tổ chức 17 kỳ Đại hội.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ I, nhiệm kỳ 1967 - 1968.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ II, nhiệm kỳ 1968 - 1970.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ III, nhiệm kỳ 1970 - 1971.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ IV, nhiệm kỳ 1971 - 1972.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ V, nhiệm kỳ 1973 - 1974.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, nhiệm kỳ 1974 - 1976.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ VII, nhiệm kỳ 1977 - 1979.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1980 - 1982.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ IX, nhiệm kỳ 1982 - 1986.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ X, nhiệm kỳ 1986 - 1989.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, nhiệm kỳ 1989 - 1991.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, nhiệm kỳ 1991- 1995.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII, nhiệm kỳ 1996 - 2000.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2001- 2005.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ XV, nhiệm kỳ 2005- 2010.

* Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2010 - 2015.

 * Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân sự tỉnh nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác định:

* Phương hướng, mục tiêu chung

- Tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò nòng cốt tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trọng tâm là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện ngày càng vững chắc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh từ cơ sở, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

- Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT tỉnh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, sẵn sàng đối phó thắng lợi với mọi tình huống, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

- Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân khu lần thứ VIII. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

            * Mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020

  1. Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. 100% cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh theo quy định; tuyển quân hằng năm đạt 100% chỉ tiêu.
  2. Trong nhiệm kỳ, tham mưu tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh 1 lần; diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập phòng, chống cháy rừng, bảo vệ rừng hoặc diễn tập phòng chống lụt bão, phòng chống cháy nổ mỗi huyện, thành phố 1 lần; hằng năm chỉ đạo luyện tập, diễn tập 20% cấp xã, kết quả đạt khá trở lên. Tổ chức luyện tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, luyện tập chỉ huy cơ quan trên bản đồ theo quy định.
  3. Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ, tiếp tục xây dựng đường hầm trong sở chỉ huy cơ bản cấp tỉnh (công trình A-04) và xây dựng thao trường huấn luyện khu vực; triển khai quy hoạch sở chỉ huy cơ bản, thao trường huấn luyện cấp huyện. 100% đất quốc phòng có quy hoạch và thao trường huấn luyện được hợp thức đúng quy định.
  1. 100% cán bộ, chiến sỹ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
  2. Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ, theo đúng Luật, nâng tỷ lệ đảng viên trong dân quân tự vệ tăng từ 2 đến 3%, 100% Chỉ huy trưởng quân sự xã, phường, thị trấn có trình độ trung cấp quân sự trở lên; đăng ký, sắp xếp quân nhân dự bị đạt 90%, tỷ lệ đảng viên đạt 13% trở lên.
  3. Bảo đảm quân số các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu đạt 95% trở lên. 100% cán bộ huấn luyện được theo phân cấp, kết quả kiểm tra các nội dung huấn luyện hàng năm có 100% đạt yêu cầu, trong đó 75% trở lên đạt khá, giỏi.
  4. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm chế độ, nền nếp chính quy, không để xảy ra vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, vi phạm kỷ luật thông thường dưới 0,3%, hạn chế thấp nhất các vụ mất an toàn khi tham gia giao thông.
  5. Hàng năm, Bộ CHQS tỉnh và các cơ quan, đơn vị đạt vững mạnh toàn diện; 100% đơn vị có môi trường văn hoá tốt, 100% cơ quan, đơn vị an toàn tuyệt đối về chính trị; 100% tổ chức quần chúng đạt vững mạnh, trong đó 75% trở lên đạt vững mạnh xuất sắc.
  6. Thực hiện tốt dự án trồng rừng tại công trình A-04 và thao trường bắn; hoàn thành 100% các dự án xây dựng doanh trại, các công trình quốc phòng được phê duyệt, bảo đảm chất lượng, hiệu quả.
  7. Hàng năm, 100% bếp ăn tập thể đạt “Bếp nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”; 100% đơn vị quản lý tài chính tốt; quân số khoẻ đạt 99% trở lên.
  8. Bảo đảm hệ số vũ khí, trang bị kỹ thuật cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu Kt =1, cho các nhiệm vụ khác Kt = 0,8; không để cháy nổ, mất vũ khí trang bị. Đơn vị an toàn tuyệt đối.
  9. Xây dựng Trường Quân sự tỉnh chính quy, mẫu mực, chỉ đạo hoàn thành nghiên cứu, biên soạn Lịch sử đảng bộ cơ sở.
  10. Hàng năm, Đảng bộ Quân sự tỉnh và 100% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; 100% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, trong đó trên 90% hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. 14. Đến năm 2020 tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học đạt 95% trở lên, tỷ lệ cán bộ là dân tộc ít người đạt trên 25%; sắp xếp sỹ quan dự bị đạt 90% chỉ tiêu giao, có trên 95% đúng chuyên nghiệp quân sự. Hàng năm, phân loại có 100% cán bộ phẩm chất tốt, 85% trở lên năng lực khá.
  11. Hàng năm kiểm tra, giám sát từ 25% - 30% tổ chức đảng và đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng, kịp thời phát hiện và kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết đơn, thư khiếu nại tố cáo đúng quy định.

Câu hỏi 4: Nêu những phần thưởng cao quý mà LLVT tỉnh đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng. Kể tên những tập thể, cá nhân trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã được nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Tính đến hết năm 2016 trên địa bàn tỉnh có bao nhiêu mẹ Việt Nam anh hùng được nhà nước phong tặng, truy tặng? Thời gian nào?

Trả lời:

Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, LLVT tỉnh đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý đó là:

- Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, tặng năm 1985 cho quân và dân tỉnh Hà Tuyên.

- Huân chương Sao Vàng, tặng năm 1985 cho quân và dân tỉnh Hà Tuyên.

- Huân chương Hồ Chí Minh, tặng năm 1985 cho quân và dân tỉnh Hà Tuyên.

- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì, tặng năm 2007 cho Lực lượng vũ trang tỉnh Tuyên Quang.

- Huân chương Chiến công hạng Ba, tặng năm 2000 cho quân và dân tỉnh Tuyên Quang.

- Năm 2010, được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện công tác Quốc phòng và xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.

- Năm 2011, được tặng Bằng khen của Bộ Quốc phòng trong 10 năm thực hiện công tác giáo dục quốc phòng, an ninh.

- Năm 2012, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất.

- Năm 2016, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba.

- 20 danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 16 đơn vị và 04 cá nhân

- 23.349 huân chương, 16.023 huy chương các loại và hàng nghìn bằng khen, giấy khen tặng cán bộ chiến sỹ Lực lượng vũ trang và nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

Ngoài những phần thưởng trên, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh còn được Bộ Quốc phòng, Tổng Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Quân khu 2 và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen trong thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua và các nhiệm vụ khác như:

- Cờ thưởng luân lưu của Bộ Quốc phòng, tặng 1997 cho Lực lượng vũ trang Tuyên Quang.

- Năm 1999, được tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về thành tích thực hiện công tác Dân vận.

- Năm 2001, được tặng Bằng khen của Bộ Quốc phòng về thành tích Huấn luyện giỏi 5 năm (1996 - 2001).

- Năm 2008, được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen về thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

- Năm 2009, được tặng Bằng khen của Bộ Tư lệnh Quân khu 2 về thành tích trong phong trào Thi đua quyết thắng 5 năm (2004 - 2009).

- Các năm 2000, 2001, 2009, 2016 được UBND tỉnh Tuyên Quang tặng Cờ thi đua.

- Các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2002, 2003, 2004, 2005, 2010, 2011 được Bộ Tư lệnh Quân khu 2 tặng Cờ thi đua.

- Năm 2014, 2016, được Bộ Quốc phòng tặng Cờ đơn vị dẫn đầu phong trào Thi đua quyết  thắng.

* Các tập thể trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang được Đảng và Nhà nước tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân:

  1. Quân và dân huyện Chiêm Hoá (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  2. Quân và dân huyện Sơn Dương (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  3. Quân và dân huyện Yên Sơn (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  4. Quân và dân thị xã (nay là thành phố) Tuyên Quang (Tuyên dương ngày 28/4/2000).
  5. Quân và dân xã Kim Bình - Chiêm Hoá (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  6. Quân và dân xã Yên Nguyên - Chiêm Hoá (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  7. Quân và dân xã Minh Thanh - Sơn Dương (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  8. Quân và dân xã Tân Trào - Sơn Dương (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  9. Quân và dân xã Mỹ Bằng - Yên Sơn (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  10. Quân và dân xã Kim Quan - Yên Sơn (Tuyên dương ngày 31/7/1998).
  11. Cán bộ, chiến sĩ phòng bảo vệ chính trị nội bộ Công an tỉnh Tuyên Quang (Tuyên dương ngày 22/7/1998).
  12. Cán bộ, chiến sĩ Công an huyện Chiêm Hoá (tuyên dương ngày 22/7/1998).
  13. Cán bộ, chiến sĩ Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang (Tuyên dương năm 2000).
  14. Quân và dân xã Kiên Đài huyện Chiêm Hóa (tuyên dương 16/12/2014)
  15. Quân và dân xã Vinh Quang huyện Chiêm Hóa (tuyên dương 16/12/2014)
  16. Quân và dân xã Hợp Thành huyện Sơn Dương (tuyên dương 16/12/2014)

            * Các cá nhân được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân:

 

TT

Họ và tên

Dân

tộc

Chức vụ, đơn vị

khi tuyên dương

Quê quán

Ngày tháng năm

tuyên dương

01

Lương Sơn Tuyết

Kinh

Tiểu đội trưởng BB c5, d1, e147, f316

Kỳ Lâm, Sơn Dương,

Tuyên Quang

25/8/1970

02

Triệu Tiến Xuân

Dao

Pháo thủ số 1 c3, d1 e204, BTL Pháo binh

Đức Xuân, Na Hang,

Tuyên Quang

20/9/1971

03

Hoàng Thế Cao

Tày

Tiểu đoàn phó d2, e1, f5, Bộ Tư lệnh Miền

Đà Vị, Nà Hang,

Tuyên Quang

20/12/1973

04

Phạm Đình Chiến

Kinh

Phòng Cảnh sát hình sự, Công an tỉnh Hà Giang

Đông Thọ, Sơn Dương,

Tuyên Quang

03/8/1995

 

* Bà mẹ Việt Nam Anh hùng:

Tính đến hết năm 2016, tỉnh Tuyên Quang có 178 mẹ được Nhà nước phong tặng, truy tặng Danh hiệu bà mẹ Việt nam anh hùng, trong đó có 3 mẹ có 3 con là liệt sỹ, 5 mẹ có 2 con là liệt sỹ, 57 mẹ có 1 con duy nhất là liệt sỹ.

Câu hỏi 5: Bằng tình cảm sâu sắc của mình, đồng chí hãy trình bày cảm nghĩ của bản thân về truyền thống của LLVT tỉnh Tuyên Quang 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành; sự thay đổi của quê hương Tuyên Quang thời kỳ đổi mới.

Trả lời:

Lịch sử  dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước . trong thời kì khó khăn gian khổ ấy , hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh tuổi trẻ và  cuộc đời mình để bảo vệ độc lập cho tổ quốc. Một trong sô đó là hình ảnh người chiến sĩ lực lượng vũ trang  của tỉnh Tuyên Quang mang những phẩm chất cao đẹp của  bộ đội Cụ Hồ mà chúng ta cần học tập và  noi theo.

- Phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ lược lượng vũ trang tỉnh Tuyên Quang được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chiến đấu, công tác , những mối quan hệ  với dân nhân  trên địa bàn “ đi dân nhớ , ở dân thương ” , tình quân dân gắn bó keo sơn.

- Thật vinh dự, tự hào là những người con của mảnh đất Tuyên Quang , chúng tôi luôn nhận thức sâu sắc rằng: Truyền thống của LLVT tỉnh  Tuyên Quang là sự kết tinh của lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí quyết tâm, sự phấn đấu, cống hiến, hy sinh vô cùng to lớn của lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sỹ và nhân dân tỉnh trong suốt 7 thập kỷ qua. Truyền thống đó sẽ mãi mãi là động lực to lớn, là hành trang của thế hệ trẻ trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Từ khi Chi bộ Tỉnh đội, tiền thân của Đảng bộ Quân sự tỉnh được thành lập vào tháng 4-1947, trải qua 69 năm xây dựng và trưởng thành, đến nay, tổ chức Đảng và lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh đã không ngừng lớn mạnh. Tham gia vào 2 cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn và thử thách, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ, LLVT tỉnh luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

LLVT tỉnh đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ hậu phương, lập nên những chiến công xuất sắc trong chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947, Chiến dịch Pô - môn năm 1949… góp phần đập tan các cuộc hành quân càn quét vào chiến khu Việt Bắc của thực dân Pháp. Đồng thời, bảo vệ vững chắc An toàn khu - Thủ đô cuộc kháng chiến, nơi ở và làm việc của Bác Hồ, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành…

Sau 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, giai đoạn 1976 - 1991, LLVT tỉnh đã làm tốt nhiệm vụ tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; củng cố lực lượng, xây dựng tuyến phòng thủ biên giới, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch và trực tiếp chiến đấu bảo vệ biên giới của Tổ quốc. LLVT tỉnh tham gia hiệu quả nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, bước đầu thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng. 

Qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc, Đảng bộ Quân sự tỉnh, LLVT tỉnh đã từng bước phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ từng thời kỳ. Vượt mọi khó khăn, gian khổ, LLVT tỉnh luôn xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Đảng, chính quyền, nhân dân.

- Trong suốt 70 năm qua, cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. QĐND Việt Nam đã xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Cùng với trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Tuyên Quang trong những năm qua đã tổ chức khai thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.

Phát huy truyền thống 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt nam Anh hùng và truyền thống của quê hương cách mạng Tuyên Quang, Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô Kháng chiến, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang tỉnh Tuyên Quang đã và đang tiếp tục phát huy tốt bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, ra sức phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó, góp phần xây dựng tỉnh Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp, văn minh, có quốc phòng, an ninh ngày càng vững chắc.

Sự thay đổi của quê hương Tuyên Quang thời kỳ đổi mới.

- Bước vào thời kỳ đổi mới, quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước, với phương châm: "Ổn định hài hòa, tập trung đột phá, khai thác tiềm năng, hội nhập phát triển" và tinh thần "Dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, năng động, sáng tạo, tập trung, quyết liệt", Tỉnh  Tuyên Quang đã lựa chọn 4 khâu đột phá về phát triển giao thông, công nghiệp, du lịch và nguồn nhân lực để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Tuyên Quang đã vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, phát huy tiềm năng, thế mạnh và đạt được những thành tựu to lớn. Đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 14,08%/năm; thu nhập bình quân đạt 1.368 USD/người/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và các ngành dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản. Hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là về giao thông được chú trọng; Đề án bê tông hóa đường giao thông nông thôn theo phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đã mang lại hiệu quả thiết thực, tạo diện mạo mới ở khu vực nông thôn. Công nghiệp của Tỉnh duy trì tốc độ phát triển khá, với 28 dự án, tổng số vốn đầu tư trên 13.200 tỉ đồng, đưa giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 ước đạt 6.500 tỉ đồng, tăng bình quân 25%/năm (tính theo giá so sánh năm 1994). Việc phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực; an ninh lương thực được đảm bảo, bình quân đạt 440kg/người/năm. Du lịch có nhiều khởi sắc cả về tuyên truyền, quảng bá, hợp tác, bảo tồn, phát triển, thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước; trong đó, Lễ hội Thành Tuyên là nét độc đáo của Tuyên Quang. Công tác giáo dục - đào tạo được chú trọng, nhất là công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, giáo dục trung học cơ sở; quy mô, mạng lưới trường, lớp học tiếp tục được đầu tư, chú trọng xây dựng trường chuẩn quốc gia, trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú, tạo bước phát triển mới trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Tỉnh. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, lao động, việc làm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội,... đạt kết quả quan trọng; tỷ lệ giảm nghèo bình quân 5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo còn 9,7%, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân có chuyển biến tích cực. Quốc phòng - an ninh được tăng cường. Hệ thống chính trị luôn được quan tâm củng cố; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao. Tuyên Quang đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Là người con của mảnh đất Thành Tuyên anh hùng, bản thân tôi thấy mình cần phải có trách nhiệm   đối với việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới bằng những việc làm cụ thể thiết thực; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo tiến công làm chủ những lĩnh vực khoa học công nghệ hiện đại; tích cực đổi mới phương pháp, tác phong công tác để thực hiện tốt công tác đực giao. Đồng thời góp phần tích cực hơn nữa xây dựng quê hương  Tuyên Quang ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Bài dự thi tìm hiểu về truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Hòa Bình

CUỘC THI TÌM HIỂU TRUYỀN THỐNG

“Lực lượng vũ trang tỉnh Hòa Bình - 70 năm một chặng đường vẻ vang”

Câu 1: Bạn hãy cho biết: Ngày,tháng, năm thành lập Tỉnh đội – Ngày truyền thống LLVT tỉnh Hòa Bình; ai là Chỉ huy trưởng; Chính trị viên đầu tiên của tỉnh đội Hòa Bình?

Trả lời:

Sau cách mạng tháng tám năm 1945, chính quyền nhân dân các cấp ở Hòa Bình vừa được thành lập đã phải đối phó quyết liệt với 3 thứ giặc “ giặc đói,giặc dốt và giặc ngoại xâm”.

Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Tháng 2/1947, Bộ Quốc phòng ra thong tư quy định : vào dân quân là nghĩa vụ của công dân từ 18 đến 45 tuổi. Ở thôn và xã có 2 lực lượng là dân quân và du kích, đây là những lực lượng chiến đấu cho nhân dân trang bị và đảm bảo bằng cách dựa vào sự đóng gop của dân. Tháng 3/1947, chính phủ quyết định xây dựng các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc Ủy ban kháng chiến hành chính các câp. Tháng 4/1947, Trung ương Đảng ra quyết định về xây dựng lực lượng dân quân du kích, tự vệ.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, Chính phủ và Bộ Quốc phòng, để đáp ứng yêu cầu kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện chống thực dân pháp xâm lược ngay 16/8/1947, đồng chí Lê Đông, Bí thư Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị Tỉnh ủy tại xóm Khị, xã Nhân Nghĩa, Huyện Lạc Sơn để kiểm điểm tình hình hoạt động của các ngành, các địa phương, về phát triển đảng viên và phong trào dân quân du kích trên các xá, tuyến đường huyết mạch; Hội nghị quyết định thành lập Tỉnh đội dân quân hòa Bình.

Sau Hội nghị Tỉnh ủy, cơ cấu tổ chức Tỉnh đội dân quân bước đầu được hình thành. Đồng chí Vũ Hoàng Diệp giữ chức Tỉnh đội trưởng, đồng chí Lê Thi giữ chức Chính trị viên. Tỉnh đội dân quân Hòa Bình đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Tỉnh ủy, chịu sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến khu 2. Tỉnh đội dân quân có nhiệm vụ chỉ huy LLVT địa phương thực hiện nhiệm vụ quân sự, chiến đấu và tham gia vào các nhiệm vụ kháng chiến của địa phương.

Ngày 24 tháng 5 năm 2017 Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 có Quyết định số 2153/QĐ- BTL, quyết định lấy ngày 16/8/1947 là ngày thành lập Tỉnh đội Hòa Bình- Ngày truyền thống LLVT tỉnh Hòa Bình.

Câu 2: Bạn hãy cho biết trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tỉnh Hòa Binh có mấy chiến khu kháng chiến; Là những chiến khu nào? Ở đâu và ngày, tháng, năm thành lập từng chiến khu ?

Trả lời:

Tháng 2/1945, Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, quyết định thành lập các chiến khu trên cả nước và chỉ thị cho các tỉnh chuẩn bị tích cực công tác khởi nghĩa. Thực hiện chủ trương của Trung ương, Ban Cán sự Đảng tỉnh phối hợp với Ban Cán sự Đảng tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình thành lập chiến khu Hò- Ninh Thanh(Chiến khu Quang Trung): đồng thời quyết định xây dựng 4 chiến khu cách mạng trên địa bàn tỉnh và đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang.

  1. Căn cứ cách mạng Tu Lý- Hiền Lương: Nằm trên hai xã Tu Lý và Hiền Lương, Châu Mai Đà (nay là huyện Đà Bắc). Đây là chiến khu cách mạng đầu tiên của Tỉnh Hòa Bình được thành lập tháng 2/1945, với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng LLVT địa phương của tỉnh. Tại đây, tổ chức vũ trang đầu tiên chính thức ra mắt và hoạt đông, đó là lớp Huấn luyện quân sự, do đồng chí Vũ Thơ trực tiếp huấn luyện sau 7 ngày (từ 16 dến 22/02/1945) lớp học kết thúc, sau đó phong trào cách mạng trong vùng phát triển mạnh mẽ và lan rộng nhanh chóng ra các khu vực xung quanh. Trong khởi nghĩa tháng 8/1945, lực lượng cách mạng căn cứ Tu Lý và Hiền Lương đã đóng vai trò quan trọng giành chính quyền ở tỉnh lỵ ngày 23/8/1945.
  2. Căn cứ cách mạng Mường Diềm: Thuộc xá Hào Tráng huyện Đà Bắc (nay đã bị ngập dưới long hồ sông Đà). Được Ban Cán sự Đảng Tỉnh Hòa Bình thành lập tháng 4/1945, với nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng và huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng. Xây dựng thành công chiến khu Mường Diềm là thắng lợi lớn của phong trào cách mạng ở Hòa Bình; lôi kéo được quan lang, có quần chúng nhân dân, có lực lựng vũ trang.
  3. Căn cứ cách mạng Cao phong – Thạch Yên: Thuộc 2 xã cao Phong và Thạch yên huyện Kỳ Sơn,(nay thuộc xã yên Lập và Yên Thượng, huyện Cao Phong) được thành lập tháng 4/1945, với nhiệm vụ xây dựng và huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng. Kết thúc khóa huấn luyện các học viên tỏa về các xóm, mỗi người tự lo tìm người vận động; tổ chức huấn luyện một tiểu đội. Thanh thế của Việt Minh đã đọng viên tinh thần cách mạng của Nhân dân trong vùng. Trong khởi nghĩa tháng 8/1945, lực lượng cách mạng chiến khu Cao Phong – Thạch Yên đã đóng vai trò quan trọng đã hỗ trự đắc lực cho khởi nghĩa dành chính quyền tỉnh lỵ Hòa Bình thắng lợi vào ngày 23/8/1945.
  4. Căn cứ cách mạng Mường Khói: Thuộc 2 xã Hoài Ân và Hiếu Nghĩa (nay thuộc Ân Nghĩa và Tân Mỹ, huyện Lạc Sơn), được thành lập sau Hội nghị tháng 4 và thang 7/1945 của Ban Cán sự Đảng tình Hòa Bình, nhằm nối liền phong trào cách mạng Hòa Bình với chiến khu Quỳnh Lưu, Ninh Bình, với nhiệm vụ xây dựng và huấn luyện lực lượng cách mạng ở địa phương. Cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định chọn Mường Lọt (thuộc chiến khu Mường Khói) để mở lớp huấn luyện quân sự; Lớp học được mang tên “ Trường Sơn du kích kháng nhật học hiệu”. Trong khởi nghĩa tháng 8/1945, lực lượng cách mạng chiến khu Mường Khói đã đóng vai trò quan trọng giành chính quyền ở tỉnh lỵ ngày 23/8/1945.

Câu 3: hãy nêu những đóng góp, thành tích tiêu biểu của nhân dân các dân tộc tinhe Hòa Bình trong khởi nghĩa dành chính quyền tháng 8/1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ? Nêu khái quát một số trận dánh tiêu biểu của quân dân tỉnh Hòa Bình trong thời kỳ này?

Trả Lời:

Thành tích tiêu biểu của nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình trong khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945:

Ngày 18/8/1945, lệnh khởi nghĩa cửa Xứ ủy được truyền tới Hòa Bình. Ngay ngày hôm đó đồng chí Vũ Thơ, trưởng ban chỉ huy khởi nghĩa tỉnh đã kịp thời phát lệnh khởi nghĩa, giáo nhiệm vụ cụ thể cho từng căn cứ, chi bộ thị xã va các cơ sở khác trong tỉnh với phương án tập trung lãnh đạo khởi nghĩa ở một điểm chắc thắng rồi từ đó giành chính quyền và các châu khác. Ban chỉ huy khởi nghĩa quyết định chọn châu Lạc Sơn là điểm đầu tiên.

Theo đúng kế hoạch đã định, ngày 20/8/1945, đơn vị vũ trang tập trung, tự vệ chiến đấu và quần chúng từ khu căn cứ Mường Khói  cùng với cán bộ, hội viên cứu quốc, nhân dân thị trấn Vụ Bản và các xóm xã xung quanh được vũ trang bằng nỏ,dao,gậy,… Biểu tình vũ trang tiến hành chiếm châu lỵ Lạc Sơn. Việc giành chính quyền châu Lạc Sơn diễn ra thuận lợi, nhanh gọn.

Ngày 22/8/1945 đông đảo nhân dân thị xã, nòng cốt là vệ cứu quốc đã biểu tình vũ trang chiếm trụ sở Hội đồng thị xã, Châu đường Kỳ Sơn một cách nhanh gọn.

Ngày 23/8/1945 với lực lượng cách mạng hung hậu của thị xã và các khu căn cứ Mường Khói, Cao phong - Thạch Yên, Tu Lý – Hiền Lương cuộc khởi nghĩa giành chính quyền bù nhìn đầu sỏ ở tỉnh diễn ra thuận lợi, nhanh gọn và không gặp sự phản ứng nào. Quân đội Nhật hoàn toàn án binh bất động. Ủy ban quân sự cách mạng tỉnh đã ra mắt quần chúng trong niềm vui vô hạn của đông đảo nhân dân các dân tộc. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ thành công là thắng lợi có ý nghĩa quyết định thúc đấy mạnh mẽ và tạo điều kiện giải quyết tiếp việc giành chính quyền những nơi còn lại.

Ngày 25/8/1945 khởi nghĩa dành chính quyền chấu Mai Đà thắng lợi. Sau đó lực lượng khơi nghĩa Mai Đà theo lệnh Xứ ủy Bắc Kỳ đã tiến lên Sơn La, phối hợp cùng nhân dân địa phương giành chính quyền ở Mộc Châu thắng lợi.

Tại Lương Sơn, theo mối chỉ đạo từ Chương Mỹ, Mỹ Đức (tỉnh Hà Đông cũ –nay thuộc Hà Nội) và Ban chỉ huy khởi nghĩa tỉnh, việc giành chính quyền ở châu lỵ Lương Sơn giành thắng lợi nhanh gọn vào sáng ngày 26/8/1945.

Châu Lạc Thủy thời gian này vẫn thuộc tỉnh Hà Nam, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở đây diễn ra thắng lợi ngày 22/8/1945 do Đảng bộ tình Hà Nam chỉ đạo.

Như vậy, từ ngày 20 đến ngày 26/8/1945, bằng lực lượng từ các khu căn cứ kết hợp với lực lượng nhân dân vũ trang khởi nghĩa nổi dậy, nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã hoàn thành thắng lợi việc giành chính quyền ở châu, tỉnh, thị trấn và một số xã có cơ sở cách mạng.

* Những đóng góp, thành tích tiêu biểu của nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945- 1954:

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tỉnh Hòa Bình trở thành một trong những  căn cứ vững mạnh của chiến trường Liên khu III; chi viện sức người, sức của đến mức cao nhất phục vụ chiến trường chung; Đặc biệt là đã bảo vệ thành công con đường giao lưu có ý nghĩa chiến lược giữa căn cứ địa Việt Bắc với Liên khu III, Liên khu IV.

Toàn tỉnh có 955 thanh niên các dân tộc tham gia quân đội, chiến đấu trên khắp mọi miền Tổ quốc; cử 1.169 lượt người đi dân công, thanh niên xung phong phục vụ chiến trường với tổng số 2.543.620 ngày công; ủng hộ 708 con trâu bò, 4.720kg thịt lợn, 39.517 tấn thực phẩm khác, 600 tấn thóc gạo, 905 xe đạp thồ, cung cấp hàng chục triệu cây gỗ, bương, tre, nứa; vận chuyển 4.900.000 tấn hàng, 170.000 người xay giã 545 tấn thóc cho bộ đội và cung cấp cho mặt trận, có 414 Liệt sĩ, 58 thương binh.

Trên lĩnh vực chiến đấu, quân dân trong tỉnh đã đánh 1.831 trận lớn nhỏ tiêu diệt 2.370 tên xâm lược; phá hủy 18 khẩu trọng pháo, trung đại lien, 56 xe vận tải, 3 kho quân trang, quân dụng; thu 529 súng các lọa trong đó có 40 trung đại lien, 120.000 viên đạn các loại.

Cùng với thắng lợi về quân sự, Đảng bộ, quân dân trong tỉnh còn giành được những tháng lợi to lớn trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc biệt là từng bước đã hạn chế, đi đến xóa bỏ về cơ bản chế độ lang với những đặc quyền tuyệt đối của giai cấp phong kiến lang đạo, giải phóng nông dân thoát khỏi ách bóc lột, trói buộc nghiệt ngã của chế độ lang đạo tồn tại đã bao đời.

* Những đóng góp, thành tích tiêu biểu của nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược 1954- 1975:

Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hòa Bình đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện xuất sắc nhiệm vụ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên quê hương, chi viện sức người, sức của cho Miền Nam giành  chiến thắng, góp phần vao sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.

Toàn tỉnh có 11.460 con em các dân tộc tỉnh Hòa Bình nhập ngũ, trong đó có 1.440 gia đình có từ 2 con nhập ngũ trở lên, 15.670 thanh niên xung phong, đóng góp nghĩa vụ cho nhà nước 162 tấn lương thực, 14.336 tấn thực phẩm … Có 3.623 liệt sỹ 670 thương binh, 624 bệnh binh. 14 Huân chương quân công, 25 Huân chương chiến công, 32 Huân chương lao động, 705 đơn vị Quyết thắng, 29 chiến sĩ Quyết thắng, 396 cán bộ, chiến sĩ thi đua các cấp.

02 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là: Đồng chí Bùi Văn Nê, xã Hưng Thi huyện Lạc Thủy, hy sinh năm 1972 và được  truy tặng 20/12/1973 và đồng chí Bùi Văn Hợp, xóm Tầm xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi hy sinh năm 1972 và được truy tặng ngày 15 / 01/ 1976.

01 Anh hùng lao động là chị Nguyễn Thị Khương, xã Thịnh Lang, huyện Kỳ Sơn(nay thuộc thành phố Hòa Bình).

Quân và dân Hòa Bình bắn rơi 49 máy bay, bắn sống hàng chục giặc lái.

Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đã có bước trưởng thành to lớn. Năm 1954, toàn Đảng bộ có 2.218 đảng viên sinh hoạt ở 124 chi bộ, năm 1975 đã có 12.223 đảng viên sinh hoạt ở các chi, đảng bộ hầu khắp xã, phường, xí nghiệp, công, nông lâm trường, trạm, trại, trường học, bệnh viện.

*Một số trận chiến đấu tiêu biểu của quân dân tỉnh Hòa Bình(1954- 1975)

- Khởi nghĩa cướp chính quyền tỉnh lỵ Hòa Bình, ngày 23/8/1945.

- Trận mai phục tiêu diệt Đảng trưởng Lý Đông A (tức Trần Khắc Tường) và sào huyệt của tổ chức phản động Đại Việt duy dân tại Bến Chương của quân và dân Châu Mai Đà (nay thuộc huyện Đà Bắc), ngày 02/5/1946.

- Trận phục kích tiêu diệt địch tại dốc Cha của trung đội du kích xã Toàn Sơn, châu Mai Đà(nay thuộc huyện Đà Bắc) ngày 10/9/1947.

- Trận phối hợp đánh 3 tàu địch trên song Bôi của du kích xã Khoan Dụ, xã Xích Thổ và bộ đội chủ lực, ngày 05/11/1947

- Trận đánh cả Đội du kích yên Lương – Phú Lẫm huyện Lạc Sơn (nay là xã Phú Lương) tiêu diệt 250 tên địch bằng rượu cần lá Ngón, ngày 30/10/1948.

- Trận chiến đấu bên dòng thác Mu (Lạc Sơn) của Đại đội 121 – Trung đoàn 52 Tây Tiến, ngày 20/11/1948.

- Trận chiến đấu tập kích tiêu diệt địch tại Đồn Máy của du kích xã Hòa Bình ngày 25/11/1949.

- Trận chiến đấu tập kích tiêu diệt địch tại Đồ Bò của quân  du kích xã Lũng Vân, huyện Tân Lạc, ngày 10/12/1949.

- Trận tập kích tiêu diệt bộ máy ngụy quân, ngụy quyền Quận hành chính châu Lương Sơn, ngày 19/5/1950.

- Trận đánh tập kích địch tại Bình Hẻm của lực lượng du kích, bộ đội địa phương huyện Lạc Sơn, ngày 5/9/1950.

- Trận phối  hợp phục kích tiêu diệt gọn 1 đoàn xe quân sự 34 chiếc của địch tại cầu Mè (Mông Hóa – Kỳ Sơn) của quân và dân huyện Kỳ Sơn cùng Trung đoàn 66- Sư đoàn 304, ngày 02/12/1951.

- Trận Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Kỳ Sơn (huyện Cao Phong ngày nay) tiêu diệt và bắt sống hơn một Đại đội lính Âu Phi, phá hủy nhiều xe cơ giới và xe tang địch, ngày 13/12/ 1951.

- Trận phục kích đánh tàu chiến địch trên sông Đà của quân và dân xã Yên Mông, huyện Kỳ Sơn (nay là thành phố Hòa Bình), ngày 22/12/1951.

- Trận chiến đấu bắn rơi máy bay phản lực F.4H không quân Mỹ của dân quân xã Liên Hòa (nay là xã Yên Nghiệp), huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, ngày 31/5/1965

- Trận chiến đấu bắn rơi máy bay RF101 Mỹ của quân và dân xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình ngày 29/4/1966

- Trận chiến đấu bắn rơi máy bay F. 105 không quân Mỹ của dân quân xã Thu Phong, Kỳ Sơn (nay là huyện Cao Phong) ngày 20/7/1966

- Trận chiến đấu bắn rơi máy bay F. 105 không quân Mỹ của dân quân xã  Mường Chiềng, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình ngày 30/4/1967.

- Trận chiến đấu tại Đồi Bù của quân và dân xã Hợp Hòa, Huyện Lương Sơn, từ ngày 22- 29/12/1972.

Câu 4: Tính đến tháng 12 năm 2016, tỉnh Hòa Bình đa có bao nhiêu Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng, có bao nhiêu cá nhân và tập thể Anh hùng LLVT nhân dân, Anh Hùng lao động được nhà nước phong tặng (hoặc truy tặng)? Hãy giới thiệu về một tập thể hoặc cá nhân Anh Hùng mà bạn tâm đắc nhất?

Trả lời:

Tính đến tháng 12 năm 2016, số lượng tập thể cá nhân là Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng của tỉnh Hòa Bình gồm:

- 73 tập thể được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- 05 tập thể được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.

- 10 cá nhân được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- 03 cá nhân được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.

- 235 bà mẹ được Nhà nước phong tặng (hoặc truy tặng) danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, hiện nay còn 12 mẹ còn sống.

Đơn vị mà tôi tâm đắc nhất đó là;

* Xã Nật Sơn vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Danh Hiệu Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước năm 2003

Câu 5: Bạn hãy cho biết quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ Quân sự tỉnh?

Trả lời:

Sau Hội nghị tỉnh ủy, ngày 16/8/1947, Tỉnh đội dân quân Hòa Bình được thành lập. Để đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với LLVT địa phương, chi bộ Tỉnh đội Hòa Bình cũng được thành lập. dưới sự lãnh đạo của Đảng, LLVT tỉnh Hòa Bình cùng Nhân dân các địa phương trên địa bàn chiến đấu, công tác giành nhiều thắng lợi vẻ vang, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân toccj và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.

  1. Chi bộ Tỉnh đội Hòa Bình (8.1947 - 5.1949)

- Bí thư:

+ Đồng chí Lê Thi – Chính trị viên (8.1947 - 5.1948)

+ Đồng chí Ngô Môn  - Chính trị viên (1.1949 – 5. 1949)

- Phó bí thư:

+ Đồng chí  Vũ Hoàng  Diệp – Tỉnh đội trưởng (8. 1947 – 12. 1948)

+ Đồng chí Lê Văn Long  - Tỉnh đội trưởng (1.1949 – 5. 1949)

- Nhiệm vụ : Làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác quân sự, tổ chức quản lý huấn luyện và chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chính quyền cơ sở.

  1. Liên Chi bộ Tỉnh đội Hòa Bình (6.1949 – 02. 1951)

Bí thư:

+ Đồng chí Ngô Môn – Chính trị viên (6.1949 – 5.1950)

+ Đồng chí Huy Thanh – Chính trị viên (5. 1950 – 2. 1951)

Phó bí thư :

+ Đồng chí Lê Văn Long  - Tỉnh đội trưởng (6.1949 – 2.1951)

- Nhiệm vụ: Củng cố phát triển lực lượng vũ trang, cả bộ đội địa phương và dân quân du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh địch khăp mọi nơi, làm cho địch bị tiêu hao, mất thế ổn định, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, tiến tới dành thế chủ động về quân sự, giải phóng đất đai. Về xây dựng Đảng, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên đi đôi với củng cố chi bộ.

  1. Đảng bộ Trung đoàn 12(3.1951 – 7. 1954)

- Bí thư:

+ Đồng chí Nguyễn Đình Khanh – Phó bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên Trung đoàn (3.1951 – 9. 1953).

+ Đồng chí Lê Thành Công – Phó bí thư Tỉnh ủy, Chính trị viên Trung  đoàn. (10.1953 – 7. 1954).

Phó bí thư:

+ Đồng chí Võ An Khang – Trung đoàn trưởng (3.1951 – 7.1954)

- Nhiệm vụ : Tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh về công tác quân sự vừa trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang tỉnh tác chiến, chiến đấu.

  1. Đảng bộ tỉnh đội Hòa Bình (8.1954 – 12.1970)

- Bí thư:

+ Đồng chí Đặng Xuân Dung – Chính trị viên (8.1954 – 10.1955)

+ Đồng chí  Bùi Tiến Dũng – Chính trị viên (11.1955 – 12.1970)

- Phó bí thư:

+ Đồng chí Nguyễn Văn Chí – Tỉnh đội trưởng (8.1954 – 12.1957)

+ Đồng chí Nguyễn Văn Ngôn – Tỉnh đội trưởng (01.1958 – 12.1963)

+ Đồng chí Bạch Bá Năng – Tỉnh đội trưởng (01.1964 – 12.1966)

+ Đồng chí Hoàng Thế Chúc – Tỉnh đội trưởng (01.1967 – 12.1970)

Nhiệm vụ:

+ Từ  1954 đến năm 1960: Tham mưu cho cấp ủy địa phương xây dựng, củng cố

Quốc phòng và lãnh đạo xây dựng LLVT, tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa trên địa bàn.

Từ 1961 đến 1968: Tham mưu cho Tỉnh ủy Hòa Bình xây dựng thế trận phòng không nhân dân, tang cường tiềm lực hậu phương, đồng thời lãnh đạo xây dựng LLVT, thực hiện nhiệm vụ sẵn sang chiến đấu bảo vệ địa phương và chi viện chiến trường miền nam chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.

Từ 1968 đến 1970: Tập trung xây dựng LLVT tỉnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; lãnh đạo LLVT tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương, xây dựng hậu phương vững mạnh SSCĐ đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; chi viện đắc lực sức người sứ của cho Nhân dân miền Nam đánh Mỹ và đánh thắng Mỹ.

  1. Đảng bộ quân sự tỉnh Hòa Bình (01.1971- 9.1975)

- Bí thư: Đồng chí Nguyễn Hữu Ích – Chính ủy (01.1971- 9.1975)

- Phó bí thư:

+ Đồng chí Bạch Bá Năng – Chỉ huy trưởng (01.1971- 01.1973)

+ Đồng chí Hoàng Thế Chúc – Chỉ huy trưởng (02.1973- 4.1975)

Nhiệm vụ:

+ Từ 01/1971 đến 4/1971: Sẵn sang chiến đấu và chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc địa bàn tỉnh; hết long, hết sức tăng cường lực lượng cho miền Nam, cùng quân và dân miền Nam đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam; tham gia tích cực các phong trào cách mạng ở địa phương; xây dựng Đảng bộ Tỉnh đội và LLVT tỉnh vững mạnh về mọi mặt.

+ Từ 5/1972- 9/1975: Tổ chức thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, chông chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ; công tác phòng không sơ tán bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; về chuyển địa phương sang thời chiến; đồng thời, quyết định mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong LLVT toàn tỉnh, nhằm làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận rõ âm mưu, thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ, nâng cao ý chí chiến đấu với mọi khó khăn thử thách, hy sinh, cùng với quân dân cả nước kiên trì đẩy mạnh cuộc khàng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Sơn Bình (10.1975- 9.1991)

*Từ tháng 10.1975- 5.1977

- Bí thư: Đồng chí Nguyến Ngọc Diệp  - Chính ủy

- Phó bí thư : Đồng chí Lê Hiền Hữu – Chỉ Huy trưởng.

- Nhiệm vụ: Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, đồng thời lãnh đạo LLVT sẵn sang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.    

* Từ tháng 5.1977- 6.1984

Ngày 12 và 13/5/1977, Đại hội đại biểu Đảng bộ quân sự tỉnh Hà Sơn Bình đã bầu ra Ban chấp hành Đảng ủy bao gồm 15 đồng chí, trong đó:

Bí thư :

+ Đồng chí Nguyễn Ngọc Diệp – Chính ủy

Phó bí thư:

+ Đồng chí Lê Hữu Hiền – Chỉ huy trưởng

+ Đồng chí Nguyễn Hữu Ích – Phó chính ủy

Nhiệm vu:

Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, chi viện mặt trận biên giới Tây Nam và phí Bắc, làm nhiệm vụ quốc tế; đồng thời lãnh đạo LLVT sẵn sang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Từ tháng 6.1984 – 10.1985

Thực hiện Nghị quyêt 07 của Bộ Chính trị(Khoá V) thành lập Hội đồng Chính trị thay Đảng ủy Quân sự tỉnh

Đồng chí Phạm Lê Điện – Chủ nhiệm Chính trị - Chủ tịch Hội đồng Chính trị (6.1984- 10.1985)

Đồng chí Nguyễn Ngọc Diệp – Chỉ huy trưởng

- Nhiệm vụ: Tăng cường thế trận phòng thủ, nâng cao trình độ SSCĐ của LLVT Nhân dân; giáo dục cán bộ chiến sĩ nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyêt và chủ động đánh thắng các thế lực thù địch; củng cố, kiện toàn, xây dựng LLVT ba thứ quân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Từ tháng 11.1985 – 7.1988

- Bí thư

+ Đồng chí Nguyễn Ngọc Diệp – Chỉ huy trưởng (11.1985- 01.1986)

+ Đồng chí Nguyễ Văn Chí – Chỉ huy trưởng (02.1986- 7.1988)

- Phó bí thư:

+ Đồng chí Nguyễn Hữu Ích – Phó chỉ huy trưởng về Chính trị (11.1985- 3.1986)

+ Đồng chí Phạm Lê Điện – Phó chỉ huy trưởng về Chính trị - Phó bí thư thường trực (4.1986- 5.1987).

+ Đồng chí Lưu Văn Đúng – Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị - Phó bí thư thường trực (6.1987- 9.1991).

- Nhiệm vụ: Kiện toàn các tổ chức Đảng; quán triệt tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quốc phòng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn đảng, toàn dân và toàn quân trên địa bàn, kiên trì, nghiêm chỉnh, chủ động sáng tạo, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược theo đúng quan điểm “ toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc,” “ Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng  quốc phòng với an ninh. Thường xuyên nâng cao cảnh giác SSCĐ, phối hợp với các lực lượng kiên quyêt đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ vững ổn định tình hình địa bàn.

* Từ tháng 8.1988- 01.1989

Do yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ quân sự địa phương và thực hiện chức năng làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp, ngày 05/8/1988, Tỉnh ủy Hà Sơn Bình ra Nghị quyết số 103 chỉ định Đảng ủy Quân sự tỉnh gồm 12 đòng chí.

- Bí thư: Đồng chí Nguyễn Đình Sở - Bí thư Tỉnh ủy

- Phó Bí thư: Đồng chí Lưu Văn Đúng – Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị - Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh

- Nhiệm vụ: Kiện toàn các tổ chức Đảng các cấp; tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I, Nghị quyết số 02 của Bộ Chính trị. Kết hợp chặt chẽ kinh tế quốc phòng, quốc phòng với an ninh. Thường xuyên nâng cao cảnh giác SSCĐ, phối hợp với các lực lượng kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giữ vững ổn định tình hình địa bàn.

* Từ tháng 01.1989 - 9.1991

Trong 2 ngày 19 đến 20/5/1989, Đại hội Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Sơn Bình lần thứ V đã bầu ra Ban chấp hành Đảng ủy gồm 14 đồng chí.

- Bí thư: Đồng chí Nguyễn Đình Sở - Bí thư Tỉnh ủy

- Phó Bí thư: Đồng chí Lưu Văn Đúng – Phó chỉ huy trưởng về Chính trị - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh.

- Nhiệm vụ: Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn Đảng bộ, nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan quân sự các cấp và làm tham mưu cho  các cấp và làm tham mưu cho cấp ủy triển khai xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc. nâng cao năng lực của LLVT địa phương, cùng toàn dân đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều  mặt của địch, chuẩn bị thế trận SS chống chiến tranh quy mô lơn. Đẩy mạnh sản xuất làm kinh tế đạt hiệu quả cao, thực hiện cơ chế lãnh đạo của đảng đối với sự nghiệp quốc phòng. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình (Lâm thời)

Theo Quyết định số 19a- QĐ/TU ngày 22/10/1991 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình.

- Bí thư: Đồng chí Nguyễn Nhiêu Cốc – Bí thư Tỉnh ủy

- Phó bí thư: Đồng chí Nguyễn Kiều Bào – Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị - Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh.

- Nhiệm vụ: Phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, tinh thần chủ động khắc phục khó khăn, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, củng cố lực lượng, ổn định nơi ăn ở, làm việc bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ không gián đoạn.

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình nhiệm kỳ 1992 – 1995

Thực hiện quy định của Điều lệ Đảng và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hòa Bình, tháng 6/1992 Đảng bộ Quân sự tỉnh tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1992 – 1995, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 12 đồng chí và 02 đồng chí (đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh) tham gia Đảng ủy Quân sự tỉnh theo quy định của Điều lệ Đảng.

- Bí thư: Đồng chí Nguyễn Nhiêu Cốc – Bí thư Tỉnh ủy

- Phó bí thư: Đồng chí Nguyễn Kiều Bào – Phó Chỉ huy trưởng về Chính trị - Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh.

+ Đồng chí Bùi Thanh Điếm – Chỉ huy trưởng

+ Đồng chí Bùi Thế Lực – Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh (từ tháng 01.1996)

+ Đồng chí Nguyễn Hồng Chiến – Phó Chỉ huy trưởng Chính trpj – Phó bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh(từ tháng 11.1994).

Nhiệm vụ: Nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch vững mạnh về Chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng và nâng cao chất lượng tổng hợp của các LLVT; phát huy  sức mạnh quân và dân trong tỉnh, tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng KVPT ngày càng vững chắc; kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với an ninh, kiên quyết cùng với toàn dân đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù.

  1. Đảng bộ quân sự tỉnh Hòa Bình nhiệm kỳ 1996 – 2000

Tháng 3/1996 Đảng bộ Quân sự tỉnh tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1996 – 2000, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí và 02 đồng chí (đồng chí Bí Thư Tỉnh ủy và đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh) tham gia  Đảng ủy Quân sự tỉnh theo quy định của Ban Bí thư trung ương.

- Bí thư: Đồng chí Hoang Văn Hon – Bí thư Tỉnh ủy

- Phó bí thư:

+ Đồng chí Nguyễn Hồng Chiến – Phó Chỉ huy trưởng Chính trị  - Phó bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh.

+ Đồng chí Bùi Thế Lực – Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh.

Nhiệm vụ: Tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh cả về chính trị lẫn tư tưởng và tổ chức. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy chính quyền địa phương, tiếp tục tang cường tiềm lực quốc phòng xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng QPTD gắn với thế trận ANND, nâng cao chất lượng các LLVT lên một bước mới, phát hiện, đánh bại các âm mưu hành động “ Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn, góp phần phát triển KT- XH ở địa phương.

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình nhiệm kỳ 2001 – 2005

Từ ngày  05 đến 10/10/2000, Đảng bộ Quân sự tỉnh tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2001- 2005 bầu Ban Châp hành Đảng bộ gồm 11 đồng chí và 02 đồng chí (đồng chí Bí thư Tỉnh ủy bà đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh) tham gia Đảng ủy Quân sự tỉnh theo quy định của Ban Bí thư Trung ương.

- Bí thư: Đồng chí Hoàng Văn Hon – Bí thư Tỉnh ủy

- Phó bí thư:

+ Đồng chí Nguyễn Hồng Chiến – Phó Chỉ huy trưởng Chính trị - Phó bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh(10.2000- 3.2005)

+ Đồng chí Lê Hùng Mạnh – Phó Chỉ huy trưởng Chính trị (4.2005), Chính ủy Bộ CHQS tỉnh(5.2006)- Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự (từ tháng 5.2005).

+ Đồng chí Bùi Thế Lực – Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh (10.2000- 6.2001)

+ Đồng chí Bùi Đình Phái – Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh (7.2001- 6.2013)

Nhiệm vụ: Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh về mọi mặt, xây dựng cơ quan, đơn vị VMTD, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tham mưu cho cấp ủy chính quyền địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị tự lực tự cường, phát huy tiềm lực của địa phương, xây dựng nề QPTD, gắn với thế trân ANND vững chắc,kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng – an ninh với kinh tế, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương lên một bước mới.

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình nhiệm kỳ 2005 - 2010

Tháng 9/2005 Đảng bộ Quân sự tỉnh tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2005 - 2010, bầu BCH Đảng bộ gồm 13 đồng chí và 2 đồng chí (đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh) tham gia Đảng ủy Quân sự tỉnh theo quy định của Bộ Chính trị.

- Bí thư:

+ Đồng chí Hoàng Văn Hon - Bí thư Tỉnh ủy;

+ Đồng chí Trần Lưu Hải - Bí thư Tỉnh ủy (1/2006 - 11/2007);

+ Đồng chí Hoàng Việt Cường - Bí thư Tỉnh ủy.

- Phó Bí thư:

+ Đồng chí Lê Hùng Mạnh - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh (9/2005 - 5/2007);

+ Đồng chí Vũ Văn Hiển - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh (6/2007 - 9/2009);

+ Đồng chí Nguyễn Thế Dân - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh (9/2009 - 7/2012);

+ Đồng chí Bùi Đình Phái - Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh.

Nhiệm vụ: Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Từng bước củng cố xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với an ninh trong khu vực phòng thủ đi vào chiều sâu vững chắc. Nâng cao chất lượng tổng hợp của LLVT tỉnh lên một bước mới, nhất là chất lượng chính trị, thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh ....

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình nhiệm kỳ 2010 - 2015

Trong 2 ngày 1-2/7/2010, Đại hội Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình được tiến hành, Đại hội bầu 15 đồng chí, trong đó 2 đồng chí (đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh) tham gia Đảng ủy Quân sự tỉnh theo quy định của Bộ Chính trị.

- Bí thư:

+ Đồng chí Hoàng Việt Cường - Bí thư Tỉnh ủy;

+ Đồng chí Bùi Văn Tỉnh - Bí thư Tỉnh ủy (từ tháng 1/2013).

- Phó Bí thư: Đồng chí Nguyễn Thế Dân - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh;

+ Đồng chí Nguyễn Văn Hùng - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh (7/2012 - 5/2014);

+ Đồng chí Bùi Văn Hùng - Chính ủy Bộ CHQS tỉnh - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh (từ tháng 6/2014);

+ Đồng chí Bùi Đình Phái - Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh;

+ Đồng chí Bùi Trọng Quỳnh - Chỉ huy trưởng (7/2013 - 6/2015).

Nhiệm vụ: Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của Đảng bộ và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức vững mạnh, hoạt động có hiệu quả; tập trung xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ. Nêu cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu , tăng cường kỷ luật, giữ vững kỷ cương; lãnh đạo đơn vị hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phòng chống âm mưu "Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch .....

  1. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hòa Bình nhiệm kỳ 2015- 2020

Đại hội  Đảng bộ Quân sự tỉnh nhiệm kỳ 2015- 2020,  diễn ra từ ngày 27 đến ngày 28/7/2015, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 16 đồng chí và 02 đồng chí (đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh) tham gia Đảng ủy Quân sự tỉnh theo quy định của Bộ Chính trị.

- Bí thư:

+ Đồng chí Bùi Văn Tỉnh – Bí thư Tỉnh ủy

- Phó bí thư :

Đồng chí Bùi Văn Hùng – Chính ủy Bộ CHQS tỉnh- Phó bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh.

Đồng chí Hà Tất Đạt – Chỉ huy trưởng

Nhiệm vụ: Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân,tích cực xây dựng các tiềm lực khu vực phòng thủ tỉnh ngày càng vững chắc; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; Thực hiện có hiệu quả quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh, quốc phòng- an ninh với kinh tế; Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng LLVT tỉnh có chất lượng chính trị, sức chiến đấu cao; Đấu tranh phòng chống có hiệu quả âm mưu thủ đoan DBHB, bạo loạn lật  đổ của các thế lực thù địch; xử lý tốt các tình huống không để bị động bất ngờ, giữ vững ổn định trên địa bàn toàn tỉnh; tích cực tham gia thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, góp phần nần cao đời sống vật chat tinh thần của nhân dân.

Câu 6: Từ khi tái lập tỉnh (1991) đến nay tỉnh Hòa Bình đã được Đảng, Nhà nước và Quân đội tặng thưởng những phần thưởng cao quý gì?

Trả lời:

- Danh hiệu: Tỉnh Hòa Bình và 10 huyện; 61 xã, phường, thị trấn; 03 đơn vị, Công an được thưởng  Danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân

Huân chương:

+ 01 Huân chương Chiến công hạng Nhất

+ 01 Huân chương Quân công hạng Ba

+ 01 Huân chương Quân công hạng Nhì

+ 02 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì

+ 06 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba (01 Bộ CHQS tỉnh và 05 đơn vị trực thuộc Bộ CHQS tỉnh).

Cờ thi đua tặng Bộ CHQS tỉnh:

+ 03 Cờ thi đua chính phủ

+ 01 Cờ thi đua Bộ Quốc phòng

+ 03 Cờ thi đua UBND tỉnh

Bằng khen tặng Bộ CHQS tỉnh:

+ 02 Bằng khen Chính phủ

+ 07 Bằng khen Bộ Quốc phòng

Ngoài ra còn nhiều Bằng khen của các Bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh và Bộ Tư lệnh Quân khu 3.

Câu 7: Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành cửa lực lượng vũ trang tỉnh để lại cảm xúc, ấn tượng sâu sắc gì tới bản than bạn?

Trả lời:

Trải qua 70 năm xây dựng và trưởng thành của lực lượng vũ trang tỉnh ta tôi tâm đắc và ấn tượng những trận đánh đã làm nên lịch sử và và mang nhiều chiến công rạng danh cho tỉnh ta như sau

Thực hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, sau khi nổ súng đánh chiếm Thủ đô Hà Nội, thực dân Pháp tiến hành đánh chiếm các địa phương lân cận. Tháng 8/1948, quân Pháp tiến theo Quốc lộ 6 đánh chiếm Lương Sơn, Kỳ Sơn. Sau đó thực dân Pháp thiết lập 30 vị trí, tháp canh để bảo vệ hành lang Quốc lộ 6 và vùng chiếm đóng. Tính đến cuối năm 1948, quân Pháp đã chiếm đóng 2/3 đất đai ở Hòa Bình, kiểm soát toàn bộ các tuyến quốc lộ 6, 12, 15. Từ đó, chúng thực hiện âm mưu xây dựng Hòa Bình thành "bức tường thép bên sông Đà”, chia cắt chiến trường Bắc Bộ, chặt đứt con đường liên lạc giữa Liên khu 3, Liên khu 4 với Việt Bắc và Tây Bắc của ta. Tại Hòa Bình, chúng bố trí 1.200 quân, trong đó phần lớn là lính lê dương âu - Phi. Đồng thời thiết lập 47 vị trí đóng quân theo các trục đường giao thông quan trọng để bảo vệ khu vực chiếm đóng ở Hòa Bình... 

Trước tình hình trên, tuy với lực lượng ít, vũ khí thô sơ nhưng LLVT tỉnh đã không nao núng, hạ quyết tâm chiến đấu, giành dân, bám đất. Thực hiện chủ trương đó, quân và nhân dân các dân tộc trong toàn tỉnh đã đẩy mạnh chiến tranh du kích, tổ chức đánh địch mọi nơi, mọi lúc nhằm tiêu hao sinh lực và làm cho địch mất thế ổn định, thu hẹp phạm vi chiếm đóng. Các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích đẩy mạnh chiến tranh du kích đánh địch. Các cuộc vũ trang tuyên truyền, diệt tề, trừ gian, diệt ác, quấy rối vị trí chiếm đóng của địch, phục kích đánh mìn trên các tuyến đường giao thông... liên tiếp nổ ra ở khắp nơi từ Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Mai Đà; từ Quốc lộ 6, Quốc lộ 12 đến Quốc lộ 15. Tiêu biểu là các trận đánh của Đại đội 16 Kỳ Sơn bảo vệ tuyến giao thông huyết mạch lên Việt Bắc; các trận đánh phục kích, đánh mìn của du kích ở các huyện Mai Đà, Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Lương Sơn. Tiêu biểu như lực lượng du kích tập trung do Triệu Phúc Lịch chỉ huy ở xã Toàn Sơn (Đà Bắc) đã tiêu diệt hàng trăm tên địch, lực lượng du kích ở xã Phú Cường (gồm Hợp Thành, Hợp Thịnh - Kỳ Sơn ngày nay) phục kích, đánh chìm tàu chiến của địch trên sông Đà. Càng chiến đấu, LLVT tỉnh càng mạnh và nhanh chóng có những bước trưởng thành vượt bậc. Đến giữa năm 1949, một số đội du kích ở các địa phương bước đầu đã độc lập và chủ động đánh tập kích vào vị trí đóng quân của địch như du kích tập trung huyện Kỳ Sơn tập kích vị trí đóng quân của địch ở xóm Giớn, xã Cao Phong (thuộc xã Bắc Phong - Cao Phong ngày nay). Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng đến giữa năm 1949 toàn tỉnh đã xây dựng được 5 đại đội bộ đội địa phương với 549 CB, CS.

Cùng với xây dựng và phát triển lực lượng bộ đội địa phương, lực lượng dân quân du kích cũng được mở rộng và phát triển nhanh. Vũ khí trang bị được cung cấp bổ sung. Từ đó đã nâng cao hiệu quả chiến đấu của các đơn vị LLVT tỉnh. Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ, ngày càng rộng khắp và hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Phong trào đánh địch của du kích cũng phát triển mạnh. Có khi chỉ với một đơn vị du kích nhỏ ở thôn, xóm cũng có thể tổ chức phục kích, đánh các tốp địch đi lùng sục, cướp bóc như du kích xã Bình Cảng (Lạc Sơn), du kích xóm Ba, xã Mông Hóa (Kỳ Sơn)... Các trận chiến đấu chủ yếu diễn ra trên các trục đường giao thông quan trọng, tiến công vào hàng ngũ ngụy quyền, diệt trừ bọn tề gian ác. Đáng nói, thời kỳ này hầu như các cuộc hành quân, vận chuyển của địch thường xuyên vấp phải các trận phục kích, đánh phá của bộ đội và du kích địa phương.

Vừa chiến đấu vừa xây dựng, bộ đội địa phương đã được bổ sung quân số, trang bị thêm vũ khí, CB, CS được huấn luyện, rèn luyện từ thực tế chiến đấu, dân quân du kích thêm dày dạn, kinh nghiệm chiến đấu, khả năng chiến đấu được tích lũy và nâng lên. Đó chính là sự chuẩn bị tốt nhất, nền tảng vững chắc để xây dựng một đội quân chính quy, tinh nhuệ, thiện chiến. Đó cũng là cơ sở để quân và dân tỉnh ta bước vào những chiến dịch lớn giành thắng lợi ở các giai đoạn sau này.                                                               

 

 

 

Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy