Đề bài: Lí giải vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập tư khi ra đời cho đến nay là một áng văn chính luận có sức lay động sâu sắc hàng chục triệu trái tim con người Việt Nam.
-/-
Những điều em cần lưu ý trước khi làm đề bài này:
- Sức thuyết phục trong nội dung
+ Lịch sử Việt Nam gắn liền với viêc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, trong ý thức (và có lẽ cả phần vô thức), ý thức dân tộc, ý thức về nền độc lập tự chủ của dân tộc luôn luôn có một vị trí vô cùng quan trọng, nếu không muốn nói, vị trí thiêng liêng nhất. Và những áng văn thơ đề cập đến vấn đề này luôn luôn nhận được sự cộng hưởng rất lớn từ đặc điểm tâm lí đó của người đọc. Chả thế mà không chỉ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, các áng văn, thơ như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo... đều có sức lay động người đọc, vượt qua khoảng cách thời gian hàng thiên niên kỉ.
+ Tuyên ngôn độc lập là một văn bản chính luận hiện đại: từ kết cấu, ngôn ngữ, lập luận...Dù không phải sống trong cảnh đất nước bị mất độc lập tự do, bị thực dân Pháp rồi phát xít Nhật áp bức, bóc lột nhưng người đọc hôm nay vẫn xúc động, đồng cảm với nỗi khổ và khát vọng của cha ông đồng thời bất bình với những tội ác mà kẻ thù đã gây ra. Chúng ta cũng không khỏi tự hào, xúc động trước lời tuyên bố long trọng và thiêng liêng về quyền tự do và độc lập của dân tộc ta sau hơn 80 năm chịu thân phận nô lệ.
- Sức thuyết phục trong nghệ thuật
+ Nghệ thuật là nguyên nhân quan trọng góp phần vào thành công và sức lay động mạnh mẽ đối với người đọc nhiều thế hệ.
+ Văn bản chính luận (vốn trọng lí lẽ, lí trí) nhưng Tuyên ngôn độc lập đã kết hợp nhuần nhuyễn chất chính luận với trữ tình, giữa tình cảm và lí trí, giữa tài năng nghệ thuật và tình cảm yêu nước, tự hào dân tộc của tác giả. Nó bao gồm những lập luận sắc bén, luận cứ thuyết phục, luận điểm sáng rõ, để thể hiện tình cảm thiết tha của tác giả (cũng như của toàn dân tộc) đối với nền độc lập, tự do của đất nước. (nên đi sâu phân tích những chi tiết thể hiện sự kết hợp này: luận điểm, luận cứ, phương pháp lập luận, giọng điệu, văn phong....).
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Tuyên ngôn độc lập
Dàn ý nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập
a. Mở bài
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc ta thừa cơ vùng lên giành lại chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Bản “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện có giá trị lịch sử mà còn là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực; một áng văn tràn đầy tâm huyết, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của Người và của cả dân tộc. Nó có sức mạnh thuyết phục to lớn, làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam.
(Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh)
b. Thân bài
* Tuyên ngôn Độc lập truớc hết là một văn kiện chính trị, lịch sử:
- Là một văn kiện có ý nghĩa chính trị, lịch sử to lớn. Nó khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc, tư thế và chủ quyền của nhân dân đối với đất nước và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền ấy.
- Tuyên ngôn Độc lập được một người soạn thảo, một người đọc tác phẩm ấy, nhưng đó là tiếng nói của cả dân tộc, quốc gia, của một chính phủ:... chúng tôi, Lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố...; Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng... Do đó, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện của cả quốc gia.
* Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chương mẫu mực của thời đại:
- Là văn kiện chính trị, chứa đựng những nội dung chính trị, nhưng đây không phải là tác phẩm khô khan, trừu tượng.
- Có hệ thống lập luận chặt chẽ, với những lý lẽ sắc bén, những bằng chứng thuyết phục:
+ Nêu ra cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn.
+ Tiếp đến, Hồ Chí Minh đưa ra cơ sở thực tế của chủ quyền dân tộc Việt Nam: tội ác của thực dân pháp về kinh tế, chính trị, quân sự,…, về công khai hóa, bảo hộ của Pháp
- Khẳng định dân tộc Việt Nam có quyền trên đất nước mình.
- Từ những cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế hết sức đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đi đến tuyên bố Độc lập:
+ Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước ta.
+ Các nước Đồng minh không thể không công nhận chủ quyền độc lập của dân Việt Nam.
+ Khẳng định quyền Dân tộc Việt Nam có quyền độc lập, tự do.
* Tuyên ngôn Độc lập chứa đựng tình cảm nồng nhiệt, tâm huyết của nguời viết.
- Lời văn Tuyên ngôn Độc lập có lúc vang lên chắc chắn, vững chãi khi tác giả trích dẫn những bản tuyên ngôn của nước Mỹ, Pháp.
- Đau đớn, căm giận khi kể tội giặc Pháp.
- Sung sướng, tự hào với sức mạnh quật khởi nghĩa của nhân dân khi đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật, giành lấy chính quyền.
- Quyết tâm sắt đá khi nói về sự bảo vệ quyền tự do và độc lập của dân tộc.
* Tuyên ngôn Độc lập được viết bởi bàn tay điêu luyện của một bậc thầy về ngôn ngữ.
- Câu văn uyển chuyển, sinh động, theo nhịp của giọng điệu bản Tuyêng ngôn Độc lập; có những câu đơn, nhưng phần lớn là câu phức, nhiều mệnh đề.
- Sử dụng hàng loạt cấu trúc trùng điệp.
+ Trùng điệp về từ, ngữ: Dân ta… Dân ta… Chúng tôi… Chúng tôi… Một dân tộc… Một dân tộc…
+ Trùng điệp về câu: Chúng thu hành… dã man; Chúng lập ba chế độ… đoàn kết; Chúng lập ra nhà tù…; Chúng ràng buộc…
+ Trùng điệp về nội dung theo chiều hướng tămg tiến ở nhiều cấp độ.
- Câu văn giàu hình ảnh: thẳn tay chém giết; tắm các cuộc khởi nghĩa … bể máu; bóc lột đến xương tuỷ; nước ta xơ xác, tiêu điều; ngóc đầu lên; quỳ gối đầu hàng…
Xem thêm: Cảm nhận về phong cách nghệ thuật văn chính luận của Hồ Chí Minh
c. Kết bài: Nêu cảm nhận của em và khẳng định lại vấn đề trong đề tài
- “Tuyên ngôn độc lập” là một kiệt tác bằng cả tài hoa, tâm huyết của Hồ Chí Minh, Người đã thể hiện khí phách của cả dân tộc trước trường quốc tế. Tác phẩm được đánh giá là văn bản chính luận mẫu mực bởi kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, thấu tình đạt lí. Câu văn gọn gàng, trong sáng một cách kì lạ, có sức lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam và cả thế giới. “Tuyên ngôn độc lập” rất xứng đáng là áng văn muôn đời.
- “Tuyên ngôn độc lập” (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nguy vong: chính quyền cách mạng còn non trẻ hải đương đầu với bao khó khăn chồng chất.
Văn mẫu tham khảo
Nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập
Bài số 1
Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc ta ngàn đời tôn kính, biết ơn là một trong những nhà văn bậc thầy về thể chính luận. Trong những áng văn chương đồ sộ mà người để lại, “Tuyên ngôn độc lập” hiện lên như một áng văn chính luận mẫu mực nhất, là kết tinh của giá trị lịch sử, giá trị thời đại và nó trường tồn bất diệt.
Toàn văn bản Tuyên ngôn độc lập không quá dài mà rất súc tích, cô đọng, hàm ý sâu sa. Bản tuyên ngôn độc lập được ra đời vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
Hồ Chí Minh dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam ở Người.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đưa cơ sở lí lẽ về nhân quyền và dân quyền. Trước hết Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đây là quyền lợi đáng được hưởng từ khi mỗi người sinh là, là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn thuyết phục hai bản tuyên ngôn của thực dân Pháp và của đế quốc Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Tại sao Người lại chọn Pháp và Mỹ mà không phải các nước khác? Ta thấy được rằng, hai nước này mang tư tưởng tiến bộ bấy giờ. Nếu thế giới công nhận các quyền cơ bản của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ thì họ cũng sẽ công nhận các quyền ấy với đất nước Việt Nam. Một cú gậy ông đập lưng ông hoàn hảo. Bản tuyên ngôn của ta đặt ngang hàng với bản tuyên ngôn của hai nước lớn càng tạo sự thuyết phục mạnh mẽ trong cộng đồng thế giới. Người đã chặn đứng âm mưu xâm lược của chúng bằng cách: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người khẳng định chắc nịch: “Đó là lí lẽ không ai có thể chối cãi được”. Vậy có nghĩa là nền độc lập của dân tộc ta là có căn cứ chính đáng, sâu sắc. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ không thể đi trái với tổ tiên của họ.
Để làm nổi bật hơn cho lí lẽ thêm sắc bén và thuyết phục, Người đã vạch trần bộ mặt thối tha của thực dân Pháp với những tội ác khó có thể dung tha cả về 3 mặt: chính trị, kinh tế, xã hội.
Đầu tiên, về mặt chính trị, “chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Chúng thi hành pháp luật dã man, chúng lập ba chế độ khác nhau, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng chém giết người yêu nước, chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân, chúng còn dùng thuốc phiện, rươu cồn làm cho giống nòi ta suy nhược. Một loạt tội ác của Pháp được liệt kê một cách chân thực dưới ngòi bút sắc bén của Hồ Chí Minh với những lập luận xác đáng, thuyết phục. Hành động của chúng vô cùng độc ác, vô nhân đạo, cay nghiệt đáng lên án.
Tiếp đến, về mặt kinh tế, chúng bóc lột sức lao động của người dân, chúng cướp ruộng đất, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí nhằm bào mòn cả thể chất, sức cùng lực kiệt của dân Việt. Người đã phơi bày bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp ra ánh sáng, mang bộ mặt giả đội lốt người “khai hóa, bảo hộ” đến nhân dân thế giới, khơi dậy lòng căm thù giặc, tinh thần chiến đấu xả thân cứu nước của nhân dân ta.
Giọng văn ở phần này thay đổi linh họạt được Người vận dụng một cách triệt để. Nếu như ở phần liệt kê tội ác, việc làm xấu xa của thực dân Pháp, Người dùng giọng đanh thép, mỉa mai, căm thù quân địch thì khi tới miêu tả hậu quả mà dân ta phải chịu, phải gồng mình lên gánh chống đỡ thì giọng văn lại chuyển sang nhẹ nhàng, đau xót, thương cảm. Đọc đọan kết tội ấy, ta lại nhớ tới Nguyễn Trãi, ông cũng từng viết:
“Độc ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi”
Hồ Chí Minh không luận tội mà kết tội trực tiếp những việc làm kinh khủng mà thực dân Pháp đã tạo ra. Dường như, Người như một vị quan tòa anh minh đang lột tả tộc ác của kẻ cầm đầu phơi bày bộ mặt ra cho thế giới chiêm ngưỡng, ném gạch.
Người đã lột lớp mặt nạ đểu cáng của thực dân Pháp xuống. Điệp từ “sự thật là..” lặp lại để thể hiện chiến thắng của quân ta. Ta giành lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Để rồi kết: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo vui. Tự do mà ta giành được thật đáng trân trọng. Bản tuyên ngôn gần như chỉ xóay sâu vào 2 trọng điểm lớn: một là, phủ nhận hòan tòan quyền liên quan đến thực dân pháp, hai là khẳng định quyền độc lập và ý thức bảo vệ mãnh liệt quyền độc lập đã giành được ấy: “ tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
Từ những lí lẽ trên, Người như muốn tuyên bố cho cả thế giới biết rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.” Để đánh đổi được nền độc lập ấy, biết bao nhiêu con người đã phải hi sinh, họ nằm xuống nơi đất khách quê người, họ bỏ tuổi trẻ còn dở dang, họ bỏ cuộc sống êm đềm bên người thân, gia đình, bạn bè, theo tiếng gọi của tổ quốc để chiến đấu, bảo vệ, giữ gìn những cái àm chúng ta đã giành được. Người đã khẳng định: “Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập” thật tuyệt vời biết bao. Trong phần tuyên này, Hồ Chí Minh cũng hết sức thuyết phục khi lồng ghép lập luận, lí lẽ sắc bén, ngòi bút chính luận thâm thúy với những từ ngữ hào hùng, khí thế của thể văn chính luận.
Có thể thấy rằng, Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bằng lí lé, lập luận sắc bén, giọng văn thay đổi luân chuyển nhịp nhàng, Người vừa vạch ra hàng lọat tội ác tày đình của thực dân Pháp, vừa bày tỏ lòng biết ơn sự hi sinh, tình yêu quê hương sâu sắc của dân tộc Việt Nam đã đúc kết thành một làn sóng mạnh mẽ. Tuyên ngôn độc lập như mở ra một trang sử mới cho lịch sử nước nhà, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập tự do, là bàn đạp cho Việt Nam hòa mình vào với thế giới.
Tham khảo thêm: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập
Bài số 2
Trong văn học Việt Nam, ít có tác phẩm nào hàm chứa nhiều giá trị như Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong rất nhiều giá trị đó, người ta nhắc nhiều đến giá trị sử học và văn học. Nhìn từ những góc độ khác nhau, hai giá trị này hoà quyện, xuyên thấm. Trên cơ sở thực tiễn và lập luận chặt chẽ đã tạo nên sức hấp dẫn, sức thuyết phục cho văn bản.
Khi HCM đọc bản tuyên ngôn thì ở phía Nam, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh đang tiến quân vào Đông Dương; còn ở phía Bắc 20 vạn quân Tưởng tay sai của đế quốc Mĩ đã chực sẵn ở biên giới. Vậy đối tượng của bản tuyên ngôn không chỉ là đồng bào cả nước, là nhân dân thế giới nói chung; mà trước hết là bọn thực dân, đế quốc đang âm mưu tái chiếm nước ta.
Bản tuyên ngôn đã giải quyết vấn đề bức thiết ấy với những lập luận chặt chẽ và đanh thép ngay từ phần mở đầu. HCM mở đầu bản tuyên ngôn bằng cách trích dẫn lời hai bản tuyên ngôn bất hủ của Mĩ và Pháp: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Bởi lẽ bấy giờ, tư tưởng tiến bộ của những nước lớn, nước tư bản đang có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới. Việc trích dẫn tuyên ngôn của hai nước lớn Pháp và Mĩ sẽ dễ tạo được thông suốt, sự công nhận tức thời, được nhiều nước thừa nhận. Nếu thế giới đã công nhận quyền độc lập, tự do, dân chủ , bình đẳng của Mĩ, của Pháp thì sẽ phải công nhận quyền độc lập tự do của Việt Nam. Bản tuyên ngôn của Việt Nam đã có một cơ sở pháp lí chính nghĩa rất vững vàng.
Cách trích dẫn ấy còn là chiến thuật sắc bén của HCM_ khéo léo và kiên quyết. Khéo léo, vì HCM tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp , người Mĩ. Kiên quyết vì HCM đã nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ nhân đạo và chính nghĩa của ngững cuộc cách mạng vĩ đại. Ngoài ra mở đầu như thế còn có ý nghĩa gợi lên niềm tự hào dân tộc to lớn. Bản tuyên ngôn nước ta đặt ngang hàng với hai bản tuyên ngôn của hai nước lớn: Pháp và Mĩ, tức là đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba quốc gia. Thật đáng tự hào , vì cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết nhiệm vụ của cả cách mạng Mĩ(1776) và cách mạng Pháp(1791). Bản tuyên ngôn đã nêu rõ : “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập “, đó là nhiệm vụ của cách mạng Mĩ: đấu tranh giải phóng dân tộc; và “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế đọ Dân chủ Cộng hòa”, đó là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp.
Từ những lí lẽ trên, HCM trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Quyền tự do, độc lập ấy phù hợp với “lẽ phải không ai chối cãi được”, là kết quả đấu tranh xương máu, bền bỉ của biết bao con người suốt gần 100 năm. HCM đã khẳng định: “sự thật đã thành nước tự do, độc lập”. Nghĩa là, nền độc lập không phải cái ta cần phải có, mà nó đã là sự thật, ta đã có, đã giành được. Từ nay nước Việt Nam độc lập tự do đã được cả thế giới công nhận. Song do chính quyền cách mạng còn rất non trẻ đã phải đương đầu với bao khó khăn chồng chất, vì thế HCM không thể nói như Nguyễn trãi xưa:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Bởi, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta khi ấy là bọn thực dân Pháp còn đang âm mưuntái chiếm nước ta. Đẩy lùi nguy cơ ấy sẽ phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Theo tư tưởng HCM cho rằng : “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng nhất, là tài sản quý giá nhất mà mỗi dân tộc cần giành và giữ lấy”. Trong phần tuyên ngôn chính thức này, một lần nữa HCM lại sử dụng cách lập luận hết sức chặt chẽ, sắc sảo của thể loại văn chính luận.
Bản tuyên ngôn chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nó nêu cao tinh thần, khát vọng tự do, hạnh phúc cảu dân tộc Việt Nam, đánh dấu trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam.
Một đề tài liên quan: Phân tích nghệ thuật lập luận trong Tuyên ngôn độc lập
Bài số 3
Hồ Chí Minh là một vĩ lãnh tụ thiên tài của đất nước Việt Nam, những tác phẩm của ông đều mang giá trị sâu sắc của một bài văn chính luận mẫu mực, bởi bác là người viết ra với tư cách là một người luôn ý thức được những bài văn của mình, giá trị của những bài văn bác viết mang đậm giá trị to lớn của những lời tố cáo đanh thép đối với kẻ thù, và bài Tuyên Ngôn độc lập là một bài mang đậm chuẩn mực giá trị trong phong cách viết của bác.
Tuyên Ngôn độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực khi bác luôn ý thức được trong bài là viết ra để cho dân tộc, đây là một bằng chứng thép để tố cáo tội ác của kẻ thù, những năm tháng kháng chiến gian khổ, giờ đây nhân dân Việt Nam đã được những giây phút tự do để có thể mang lại những khoảng không gian hòa bình cho dân tộc Việt Nam. Đây là một vũ khí sắc bén để chúng ta đối phó với kẻ thù. Trong bầu không khí trang trọng của tiết trời mùa thu ngày mùng 2 tháng 9 bác đã độc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Bài văn của Hồ Chí Minh mang đậm tính chất của một bài văn chính luận bởi vì những lý lẽ mà người viết ra rất xác thực, văn phong ngắn gọn và mang đậm giá trị về sự sống và các tính chất cho mỗi con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy điều đó qua cách dẫn dắt và nó ăn sâu vào trong tâm trí của mỗi người Việt Nam.
Trong bài bác xác định rõ đối tượng viết của mình là đồng bào dân tộc, mở đầu bài văn này, bác đã dùng những từ mang đậm tính chất rằng đối tượng ở đây chắc chắn phải là nhân dân: Hỡi đồng bào cả nước, mục đích của bản tuyên ngôn này là tuyên bố lý do, nhưng khi nhìn sâu vào trong bài này chúng ta có thể thấy đối tượng ở đây không chỉ là nhân dân Việt Nam mà còn dành cho nhiều người trên khắp thế giới, khi trong bản tuyên ngôn của Việt Nam cũng chưa đựng những bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp và Mĩ, khi đối với hai cường quốc đầu xỏ này thì việc trích dẫn vào nó mang một ý nghĩa to cáo mạnh mẽ.
Tuyên ngôn dân quyền là nhắc đến việc bình đẳng, bác ái, mỗi người đều có thể thấy rằng việc trích dẫn này có ý nghĩa rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc có sự tự do cao và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Trong bản tuyên ngôn độc lập sự tự do và đề cao tư tưởng nhân dân luôn luôn được chú trọng, những điều đó mang đậm giá trị cốt lõi trong bản tuyên ngôn. Nhân dân Việt Nam đã trải qua một thời kì gian nan khi phải đối đầu với những kẻ thù sừng xỏ, và cường quốc, nhưng điều đó không ảnh hưởng lớn đến mỗi người, khi bản tuyên ngôn đã thấm đẫm mà mang giá trị sống mạnh mẽ cho mỗi người.
Bác đã dẫn chứng ra rất nhiều điều đáng quý và nó nhằm nêu lại những năm tháng đấu tranh gian nan để có thể dành được độc lập tự do cho dân tộc, mỗi chúng ta đều có quyền hành như nhau, và ai ai cũng đều có quyền bình đẳng đúng như trong tuyên ngôn đã khẳng định. Ngoài mang ý nghĩa khẳng định nền độc lập của dân tộc thì bản tuyên ngôn cũng mang đậm giá trị tố cáo tội ác của kẻ thù. Với những lý lẽ rất thuyết phục nó đã mang đậm giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam, những lời lẽ mang tính đanh thép đó đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi con người.
Bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam đã mang đậm giá trị nhân văn và tố cáo tội ác của kẻ thù những điều đó để lại cho mỗi người những niềm tin vững chắc về một nền độc lập khi mỗi chúng ta đều có thể làm nên những điều có giá trị và ý nghĩa nhất. Bác Hồ đã khẳng định điều đó qua bản tuyên ngôn độc lập, những giá trị về niềm tin yêu thương và mang đậm giá trị khẳng định một nền độc lập cho dân tộc Việt Nam. Bản tuyên ngôn độc lập đã khẳng định được sự đanh thép trong mỗi người, những lời lẽ thuyết phục và mang giá trị đã khẳng định được sự sống còn và mang đậm niềm yêu thương cho mỗi người Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có thể được coi như một bài văn chính luận sâu sắc bởi lý lẽ và văn phong xuất hiện trong tác phẩm này, đậm giá trị và mang nhiều những am hưởng cao của cuộc sống con người.
Tuyên ngôn độc lập là một bài văn mang đậm giá trị tố cáo và lý lẽ sâu sắc trong cuộc đời của mỗi người, giá trị của nó không chỉ để lại những nỗi nhớ mong và sự sâu sắc trong tâm hồn của mỗi con người, hạnh phúc nhân dân Việt Nam là có một bài học có giá trị và cốt lõi như của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập được coi như là một bài học có nhiều giá trị nhất cho mỗi con người, giá trị của nó để lại cho dân tộc mang sự tố cáo mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong mỗi con người.
Mỗi chúng ta đều có thể thấy rằng giá trị của bản tuyên ngôn độc lập để lại cho dân tộc có ý nghĩa to lớn, bản tuyên ngôn độc lập mang đậm giá trị to lớn của dân tộc Việt Nam, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam đều có thể thấy đó là niềm yêu thương và sự tín nhiệm trong toàn thể dân tộc. Với những ngôn ngữ đậm chính luận, và sự kết hợp giữa chính trị và tư tưởng cốt lõi của dân tộc, nó đã phản ánh mạnh mẽ và sâu sắc nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Bài văn này được viết lên không chỉ để cung cấp cho con người những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, mà nó còn mang đậm màu sắc về sự tố cáo, và sự cải tạo nhiều yếu tố mạnh mẽ của con người, biết bao nhiêu những hoàn cảnh bất hạnh và những giá trị đó đã cải tạo được sự sống và mang đậm chất nhân văn sâu sắc nhất cho mỗi người.
Đối tượng của bài văn này được chủ tịch Hồ Chí Minh làm nên một cách rõ ràng và chi tiết nhất, những giá trị đó luôn luôn mang những nền tảng tinh thần, và sự sống còn của đất nước Việt Nam. Với việc luôn có trách nhiệm với tinh thần của người cầm bút bác đã khẳng định mạnh mẽ được giá trị về niềm tin, và sự uy nghiêm trong cuộc sống của mỗi con người. Và những điều mà bác Hồ khẳng định trong tác phẩm cũng luôn luôn khẳng định được một cách chi tiết và có ý nghĩa nhất: tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được…
Những điều đó đã mang đậm tư tưởng cốt lõi trong tác phẩm của Hồ Chí Minh, người luôn luôn ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc và điều đó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống và tinh thần của mỗi con người, nên yêu thương và trân trọng những tư tưởng sống và tinh thần sống mạnh mẽ của dân tộc điều đó làm nên những trang sử sách vẻ vang, và mang đậm giá trị to lớn của cuộc sống này. Mỗi chúng ta đều có thể thấy được điều đó qua cách viết khoa học và đậm giá trị của Người, biết yêu thương và luôn là người có trách nhiệm với cây bút của mình.
Với lối viết khoa học và đậm chất chính luận, bài tuyên Ngôn độc lập đã mang những tư tưởng to lớn cho dân tộc và để lại cho mỗi người những cảm xúc sâu sắc và đáng quý nhất.
Văn mẫu tham khảo thêm: Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
-/-
Trên đây là dàn ý và một số bài văn mẫu nghị luận về sức lay động của Tuyên ngôn Độc lập lớp 12 mà em có thể tham khảo, đừng quên còn kho tài liệu văn mẫu 12 với chi tiết các bài học theo chương trình sách giáo khoa em nhé!