Trang chủ

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng

Xuất bản: 01/06/2023 - Tác giả:

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng với dàn ý chi tiết và tuyển chọn văn mẫu giúp học sinh hiểu hơn về truyền thống văn hóa và ghi nhớ công ơn các vua Hùng.

Dàn ý chi tiết Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng

I. Mở bài

Giới thiệu những nét cơ bản nhất về đối tượng thuyết minh:  Đền Hùng.

II. Thân bài

Vị trí địa lí và lịch sử hình thành, quy hoạch của Đền Hùng

- Vị trí:

+ Đền Hùng tọa lạc ở núi Nghĩa Lĩnh, xưa nằm trọn trong đất Phong Châu – kinh đô của nước Văn Lang xưa và ngày nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì của tỉnh Phú Thọ.

+ Cách trung tâm của thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ) khoảng 10 ki-lô-mét

- Quá trình quy hoạch, xây dựng:

+ Năm 1962, lần đầu tiên, Đền Hùng được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Khu di tích đặc biệt cấp quốc gia.

+ Năm 1967, Chính phủ đã ra quyết định khoanh vùng để xây dựng khu rừng cấm Đền Hùng.

+ Năm 1994, dự án quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử Đền Hùng lần thứ nhất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

+ Năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định nâng cấp Khu di tích này từ trực thuộc Sở văn hóa thông tin Phú Thọ thành Khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ.

+ Năm 2012, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Khu di tích Đền Hùng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

- Giới thiệu những nét đặc sắc của Đền Hùng

+ Về kết cấu của Đền Hùng:

  • Đại Môn được xây dựng vào năm 1917, cao 8,5 mét với kiểu vòm uốn, gồm hai tầng mái.
  • Đền Hạ được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII – XVIII với lối kiến trúc chữ nhị, là nơi Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng và về sau nở ra 100 người con.
  • Cạnh bên đền Hạ chính là nhà bia và chùa Thiên Quang.
  • Đền Trung: xây dựng vào thời Lí – Trần, đền Trung là nơi vua Hùng cùng các quan họp bàn việc nước và ngắm cảnh núi non.
  • Đền Thượng: nơi mà Vua Hùng thường lên để tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp
  • Lăng mộ vua Hùng
  • Đền Giếng
  • Ngày nay, Khu di tích lịch sử đền Hùng vừa xây dựng thêm đền Mẫu Âu Cơ và đền thờ Lạc Long Quân

+ Lễ hội Giỗ Tổ Hùng vương:

  • Tổ chức vào ngày 10 tháng 3 hằng năm
  • Gồm 2 phần là phần lễ (lễ rước kiệu và lễ dâng hương) và phần hội.

- Vai trò, ý nghĩa và những giá trị của Đền Hùng về lịch sử, văn hóa

  • Minh chứng tiêu biểu cho truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây từ ngàn đời nay của dân tộc ta.
  • Thể hiện lòng biết ơn của sâu sắc đối với các thế hệ đi trước, đặc biệt là các vua Hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
  • Đền Hùng đã và đang trở thành nguồn cảm hứng cho thi ca, hội họa và là điểm dừng chân hấp dẫn, thú vị cho du khách trong và ngoài nước.

III. Kết bài

Khái quát những nét cơ bản về đặc điểm, giá trị, ý nghĩa của Đền Hùng và nêu cảm nghĩ của bản thân.

9 bài văn mẫu Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng

Dưới đây là những bài văn mẫu tuyển chọn giúp các em hiểu hơn về ý nghĩa truyền thống văn hóa dân tộc của Đền Hùng. Và cũng để thể hiện sự nhắc nhở thế hệ con cháu luôn phải biết ơn, nhớ tới cội nguồn dân tộc.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 1

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi địa danh trên dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta đều in đậm dấu tích của một thời hào hùng trong lịch sử dân tộc. Ngược dòng thời gian, trở về với thời đại dựng nước của các vua Hùng, chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ mãi khắc ghi công lao to lớn ấy. Và Đền Hùng chính là địa danh tiêu biểu, là minh chứng rõ ràng và tiêu biểu nhất cho lòng biết ơn của nhân dân ta đối với các vua Hùng từ ngàn đời nay.

Như chúng ta đã biết, Đền Hùng là Khu di tích lịch sử, là một trong số những địa điểm du lịch nổi tiếng bậc nhất ở nước ta. Đền Hùng tọa lạc ở núi Nghĩa Lĩnh, xưa nằm trọn trong đất Phong Châu – kinh đô của nước Văn Lang xưa và ngày nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì của tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích Đền Hùng nằm cách trung tâm của thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ) khoảng 10 ki-lô-mét. Được xây dựng từ rất sớm, trải qua thời gian, Khu di tích Lịch sử Đền Hùng ngày càng được chú trọng xây dựng, phát triển và đưa vào quy hoạch, trở thành một trong số những công trình di tích lịch sử tiêu biểu của cả nước. Năm 1962, lần đầu tiên, Đền Hùng được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Khu di tích đặc biệt cấp quốc gia. Năm 1967, Chính phủ đã ra quyết định khoanh vùng để xây dựng khu rừng cấm Đền Hùng. Năm 1994, dự án quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử Đền Hùng lần thứ nhất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để Đền Hùng ngày càng được đầu tư, xây dựng và phát triển. Kể từ đó, Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng phát triển lớn mạnh và đến năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định nâng cấp Khu di tích này từ trực thuộc Sở văn hóa thông tin Phú Thọ thành Khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ. Đặc biệt hơn thế nữa, vào năm 2012, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Khu di tích Đền Hùng, Phú Thọ chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Như vậy, có thể thấy, trải qua quá trình xây dựng và phát triển, khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng phát triển và nhận được sự quan tâm lớn lao của cả cộng đồng, xã hội.

Về thăm Khu di tích lịch sử Đền Hùng chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều khám phá, phát hiện độc đáo và thú vị về kiến trúc của công trình này. Quần thể di tích Đền Hùng nằm trọn từ chân núi đến đỉnh núi của ngọn núi Nghĩa Lĩnh với độ cao hơn 175 mét, gồm có bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng và khu lăng mộ của vua Hùng. Điểm đầu tiên khi đến với Đền Hùng đó chính là Đại Môn hay còn gọi là cổng đền. Đại Môn được xây dựng vào năm 1917, cao 8,5 mét với kiểu vòm uốn, gồm hai tầng mái. Ở bốn góc tầng mái, bên trên được trang trí hình rồng và hình hai con nghê đắp nổi. Cùng với đó, nếu bên trái của cổng đền là hình rồng thì phía bên dưới cổng, trên bức tường đó chính là bức phù điêu hai võ sĩ đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Qua Đại Môn, đi khoảng 225 bậc thang bằng gạch là đền Hạ, nhà bia và chùa Thiên Quang. Đền Hạ được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII – XVIII với lối kiến trúc chữ nhị, gồm Tiền bái và Hậu cung. Tương truyền, đây chính là nơi Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng và về sau nở ra 100 người con – nguồn gốc của những người con đất Việt. Cạnh bên đền Hạ chính là nhà bia với kiến trúc lục giác có sáu mái. Nhà bia chính là nơi đặt câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi về thăm Đền Hùng vào năm 1954 – “Các vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cạnh bên của đền Hạ còn có chùa Thiên Quang (hay còn được gọi là Thiên Quang thiền tự), được xây dựng vào thời nhà Trần.

Từ đền Hạ, đi thêm 168 bậc nữa sẽ đến đền Trung, còn có tên là Hùng Vương Tổ Miếu. Được xây dựng vào thời Lí – Trần, đền Trung là nơi vua Hùng cùng các quan họp bàn việc nước và ngắm cảnh núi non. Đồng thời, tương truyền, đây cũng là nơi Lang Liêu đã dâng bánh cho vua cha và được vua cha truyền lại ngôi báu.

Sau đền Trung chính là đền Thượng. Đền Thượng còn được gọi với cái tên chữ là Kính thiên lĩnh diện, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XV với quy mô lớn. Theo tương truyền, đây chính là nơi mà Vua Hùng thường lên để tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thờ trời đất,… với mong muốn sẽ có một năm mưa thuận gió hòa để mùa màng tươi tốt và cuộc sống thêm phần hưng thịnh, ấm no. Thêm vào đó, sau khi ghé thăm đền Thượng, chắc hẳn không thể nào không ghé tới lăng của các vị vua Hùng. Theo những truyền thuyết hiện còn lưu lại, đây chính là lăng của vị vua Hùng thứ 6, lăng nằm ở phía đông của đền Thượng, mặt lăng quay theo hướng đông nam.

Thêm vào đó, nhắc tới Đền Hùng không thể nào không nhắc tới quần thể đền Giếng. Đền Giếng được xây dựng vào thế kỉ XVIII, đây là nơi hai cô công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa thường soi gương, vấn tóc khi theo vua cha (vua Hùng thứ mười tám) đi qua nơi này. Ngày nay, Khu di tích lịch sử đền Hùng vừa xây dựng thêm đền Mẫu Âu Cơ và đền thờ Lạc Long Quân.

Như vậy, có thể thấy, Khu di tích lịch sử Đền Hùng gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau, được xây dựng từ lâu đời. Đặc biệt, khi nhắc tới Đền Hùng không thể nào không nhắc tới Giỗ tổ Hùng vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm. Giỗ tổ Hùng vương bao gồm phần lễ và phần hội, và thường được diễn ra trước ngày giỗ chính một tuần lễ. Phần lễ bao gồm lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương, còn phần hội bao gồm nhiều trò chơi dân gian, những cuộc thi hát xoan, kéo vật, kéo co,… Giỗ tổ Hùng Vương luôn là dịp lễ thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước về tham dự, là một sự kiện quan trọng trong năm của những người con đất Việt, bởi dân gian ta từ xưa đã có câu ca:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mồng 10 tháng 3

(Ca dao)

Đền Hùng là một công trình kiến trúc, một di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta và có ý nghĩa to lớn trong đời sống của con người Việt Nam từ ngàn đời nay. Trước hết, Đền Hùng nói chung, lễ hội Giỗ Tổ Hùng vương mỗi năm là minh chứng tiêu biểu cho truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Thêm vào đó, Đền Hùng còn là di sản văn hóa, có giá trị sâu sắc, thể hiện lòng biết ơn của sâu sắc đối với các thế hệ đi trước, đặc biệt là các vua Hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Và có lẽ, bởi ý nghĩa to lớn ấy, Đền Hùng đã và đang trở thành nguồn cảm hứng cho thi ca, hội họa và là điểm dừng chân hấp dẫn, thú vị cho du khách trong và ngoài nước.

Tóm lại, trải qua quá trình xây dựng, hình thành và phát triển, cho đến ngày hôm nay, Đền Hùng vẫn luôn là một khu di tích lịch sử nổi tiếng, giàu ý nghĩa và là điểm đến lí tưởng cho du khách thập phương. Nơi đây chính là minh chứng tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn, cho những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 2

Lễ hội Đền Hùng là một trong những lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam. Đây là dịp để người Việt tưởng nhớ và tôn vinh các vị vua Hùng đã đưa nước Việt trở thành đất nước độc lập và tự chủ. Hàng trăm câu thơ được sản sinh nhằm cơ ngợi và giúp người dân nhớ về lịch sử ngàn năm đô hộ và công lao vĩ đại của các vua Hùng.

Con dân Việt Nam máu đỏ da vàng luôn nhớ mãi và hướng về cội nguồn xa xưa. Lễ hội Đền Hùng được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, phía Nam thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền được xây dựng dưới chân núi Nghĩa Linh và trải dài đến đỉnh núi, sở hữu chiều cao hơn 175 mét. Đền Hùng sừng sững và uy nghiêm giữa rừng núi bạt ngàn. Nơi đây được xem là nơi bắt nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi để tôn vinh các vị vua Hùng đã giúp đất nước trở thành một đất nước độc lập và tự chủ.

Lễ hội Đền Hùng bao gồm nhiều hoạt động truyền thống như đền kính, cúng tế, diễn tập hành quân và múa hát. Tất cả các hoạt động đều được tổ chức rất trang trọng và tôn nghiêm. Trong lễ hội Đền Hùng, mọi người có thể tham gia các hoạt động như đi bộ dưới hàng cây xanh, thưởng thức ẩm thực truyền thống và tham gia các trò chơi dân gian.

Mọi hoạt động vui chơi, giải trí sẽ được diễn ra tại đền Hạ, điểm thấp nhất của Đền Hùng – là nơi được người xưa kể lại rằng mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc 100 trứng tại đây. Tiếp lên trên sẽ là đền Trung là nơi bàn chính sự, hội họp, bàn bạc việc quan trọng của vua và các quần thần. Và lên cao nhất ở đỉnh núi đó là đền Thượng, đây cũng chính là nơi thờ của vị vua Hùng thứ 6. Hằng năm, con dân từ khắp đất nước đều tụ hội về đền Hùng trang trọng cung kính biết ơn.

Bên cạnh nghi lễ long trọng này, còn có các hoạt động văn hóa phong phú và đầy màu sắc như rời ghế kiệu và dâng hương. Đây là lễ hội lớn để tỏ lòng thành kính với tổ tiên và những người đã khuất, người ta khiêng những cỗ kiệu thần từ chân núi lên các đền chùa trên núi. Đội khiêng kiệu ăn mặc chỉnh tề, trang nghiêm, cẩn trọng, mỗi người cầm trên tay một binh khí cổ, mô phỏng và tái hiện những kỳ tích vĩ đại của tiền nhân. Tiếng chiêng trống rung trời, kiệu hoa đi đến địa điểm đầu tiên gọi là “Thiên Miếu”, nơi cả đoàn dừng chân để thực hiện các nghi lễ tế lễ dân gian.

Sau nghi lễ thắp hương, mọi người tiếp tục đi đến ngôi đền cao nhất, đại diện cho nhân dân cả nước đứng lên bày tỏ lòng thành kính và lòng biết ơn đối với các vị vua Hùng, đồng thời bày tỏ hy vọng và ước mơ của mình. hòa bình và thịnh vượng của đất nước. Ngoài các lễ hội truyền thống còn có các hoạt động văn hóa cổ xưa như chọi gà, đấu vật, cờ người. Đặc biệt là nghệ thuật hát xoan, chèo, quan họ đặc trưng của dân tộc ta, làn điệu mượt mà như cuốn hút con người về với đất tổ thân thương, hòa mình vào truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc từ ngàn đời.

Lễ hội Đền Hùng không chỉ là dịp để người Việt tôn vinh lịch sử mà còn là cơ hội để du khách khám phá văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam. Ngoài các hoạt động chính thức của lễ hội, du khách còn có thể tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam qua các gian hàng trưng bày các sản phẩm nghệ thuật truyền thống, như đồ gốm sứ, đồ thủ công mỹ nghệ, hoa và đồ trang trí.

Với người Việt Nam, lễ hội Đền Hùng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tôn vinh lịch sử và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đối với du khách, lễ hội Đền Hùng là cơ hội để trải nghiệm và khám phá văn hóa độc đáo của Việt Nam.  Khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009 được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt quốc gia. Năm 2011, nghệ thuật hát xoan, khúc hát vang dội dấu ấn lịch sử Hùng Vương đã trân trọng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được gìn giữ và phát triển.

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Qua mấy nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 3

Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc.

Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao nhất.

Mỗi năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi, các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu mong yên bình, làm ăn thành công.

Bên cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất Tổ.

Những người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng, cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các vua Hùng.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 4

"Ta về tìm lại ngày xưa

Trời xanh rất vắng, nắng trưa rất vàng

Ta về gom những mơ màng

Tìm trong trầm tích Văn Lang một thời.”

(Trích thơ Văn Việt Trì)

Qua những vần thơ trên đã diễn tả những cảm xúc dạt dào, tha thiết về cội nguồn của dân tộc, về lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta, của các vị vua Hùng.

Dù ở bất cứ đâu những người con Việt Nam mãi luôn nhớ về những chiến công vang dội, những công lao to lớn đặt xây nền móng đầu tiên từ lúc sơ khai của đất nước Việt Nam. Hằng năm, cứ đến mồng 10 tháng 3 là con dân ở khắp đất nước, kiều bào đều tụ hội về đền Hùng để tưởng niệm, nhớ ơn, thể hiện tấm lòng thành kính trước tổ tiên, thế hệ đi trước, đây cũng chính là nét văn hóa lâu đời từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.

“Cây có cội, nước có nguồn”, cội nguồn của dân tộc Việt Nam là hai tiếng đồng bào thân thương, gắn liền với truyền thuyết xa xưa Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng với 50 người con xuống biển, 50 người con lên non thay nhau cai quản. Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên ra đời và phát triển trên nền tảng của nền văn hóa sơn vi rực rỡ. Khu di tích Đền Hùng nằm trên vùng đất Đế Đô của nhà nước Văn Lang đã mang trong mình từ chiều dài từ hàng ngàn năm lịch sử. Nằm trong khu vực trung tâm chính của nhà nước Văn Lang, được tọa lạc vị thế độc đáo ngay giữa hai dòng sông biếc bao bọc lấy cố đô.

Đền Hùng được dựng núi Nghĩa Linh giữa vùng đất Phong Châu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trải dài từ chân núi đến đỉnh núi Nghĩa Linh với chiều cao 175 mét. Núi Nghĩa Linh hay còn được gọi là núi Cả hay núi Hùng là ngọn núi cao nhất ở đây. Núi Hùng trông từ xa như một cái đầu rồng lớn đầy uy nghi, hùng vĩ, uốn lượn trong mây trời, ở phía xa xa là dãy núi san sát nối liền nhau xa tít tận chân trời. Tương truyền vua Hùng phải đi khảo sát nhiều nơi, mới có thể tìm ra vùng đất ngút ngàn linh khí, hòa hợp giữa đất trời, thiên nhiên, vạn vật này để định đô, có lẽ vì thế mà dù trải qua hàng nghìn năm nhưng những cảnh sắc, cây cỏ nơi đây vẫn luôn mang sự huyền ảo, rực rỡ, cuốn hút đến vậy.

Đền thấp nhất ở chân núi chỉ cần leo thêm 168 bậc nữa là sẽ đến đền Trung, đây là ngôi đền được biết đến xây dựng vào khoảng thế kỷ 14 và được trùng tu vào những năm 1988. Nhắc đến đền Thượng, người dân xưa thường tương truyền đây là nơi thường diễn ra các buổi tế lễ, cúng kiến cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đất nước thịnh vượng, thái bình. Mộ của vị vua Hùng thứ 6, tương truyền ông là người lãnh đạo nhân dân Văn Lang chống lại sự xâm lược của nhà Ân, được đặt phía bên trái của đền Thượng, mặt lăng qua theo hướng đông nam, vốn là một mộ đất.

“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”, quả thật vậy hoạt động văn hóa, lễ hội như mang tính truyền thống gắn kết của cả một dân tộc, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ chân núi sẽ là nơi thấp nhất gọi là đền Hạ đây là nơi được người xưa kể rằng mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc 100 trứng sinh ra con người Văn Lang. Tiếp lên trên sẽ là đền Trung là nơi bàn chính sự, hội họp, bàn bạc việc quan trọng của vua và các quần thần. Và lên cao nhất ở đỉnh núi đó là đền Thượng, đây cũng chính là nơi thờ của vị vua Hùng thứ 6. Hằng năm, con dân từ khắp đất nước đều tụ hội về đền Hùng trang trọng cung kính biết ơn.

Ngoài nghi thức trang nghiêm này còn có các hoạt động văn hóa đa dạng như lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đây là hình thức lễ hội vô cùng trang nghiệm, kính lễ với các bậc đi trước, những người đã khuất, mọi người sẽ nâng kiệu từ ở dưới chân núi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Đoàn người nâng kiệu ăn mặc gọn gàng, trang trọng và cẩn thận nhất, mỗi người cầm một loại vũ khí thời xưa để mô phỏng tái hiện lại công lao to lớn của ông cha ta. Tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng, đoàn rước kiệu đi đến đầu tiên là “điện kính thiên”, tại đây cả đoàn sẽ tạm dừng để thực hiện nghi lễ dân hương.

Sau nghi thức dâng hương mọi người sẽ tiếp tục di chuyển lên đến ngôi đền cao nhất đền Thượng, vị đại biểu cho nhân dân cả nước sẽ đứng lên phát biểu sự trân trọng, biết ơn đối với các vị vua Hùng, những hy vọng mong ước an lành thịnh vượng của đất nước. Bên cạnh lễ hội truyền thống còn có các sinh hoạt văn hóa cổ xưa như chọi gà, đấu vật, đánh cờ người. Đặc biệt là nghệ thuật hát xoan, chèo, quan họ đặc trưng của dân tộc ta, làn điệu mượt mà như cuốn hút con người về với đất tổ thân thương, hòa mình vào truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc từ ngàn đời. Với đa dạng các hoạt động cổ xưa, truyền thống, mỗi năm cứ đến mùng 10 tháng 3 là lượt khách đến thăm đền Hùng lại vô cùng đông đúc, ai cũng muốn được bày tỏ sự biết ơn của mình, trân trọng sâu sắc.

Lễ hội đền Hùng là một phong tục tập quán có từ ngàn đời, nối gót thế hệ đi trước luôn gìn giữ và phát huy những giá trị đẹp của dân tộc. Ai ai đến đây đều mang trong lòng sự thành kính đối với các vị vua Hùng, làm cho chúng ta càng thêm tự hào về nguồn cội con rồng cháu tiên, về truyền thuyết bọc trăm trứng từ xa xưa của cả một dân tộc kiên cường, anh hùng. Khu di tích lịch sử Đền Hùng vào năm 2009 được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt quốc gia. Năm 2011, nghệ thuật hát xoan, khúc hát vang dội dấu ấn lịch sử Hùng Vương đã trân trọng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được gìn giữ và phát triển.

Giỗ tổ Hùng Vương, là lễ hội lớn của dân tộc ta, về với đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc thân thương, về với những chiến công hiển hách, công lao dựng nước giữ nước của ông cha ta. Đền Hùng đã và đang ngày càng khẳng định nét văn hóa, di sản to lớn đáng tự hào của đồng bào dân tộc Việt Nam qua bao đời thế hệ.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 5

Là người Việt Nam, không ai là không biết đến câu ca:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.”

Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức ngày mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu đã trở thành một tục lệ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, một điểm tựa của tinh thần văn hoá. Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày lễ hội trọng đại của cả dân tộc. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ mà hướng về vùng đất Phú Thọ. Từ các triều đại phong kiến Việt Nam, Đinh Lý Trần Lê, Đền Hùng đã là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc ta.

Ngày này hàng năm, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên cội nguồn, lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", ghi nhớ mười tám vị Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Lễ hội đền Hùng được diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”

Từ thuở xưa lễ hội đền Hùng đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Người về dự hội là hướng về tổ tiên với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội chỉ là phần phụ để không khí thêm vui tươi, náo nhiệt trong ngày này.

Phần lễ gồm tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. 41 làng thuộc tỉnh Phú Thọ được rước kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Các kiệu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ đẹp mắt, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt nhất là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo riêng ở Châu Phong.

Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo đúng nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ.Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước bấy giờ, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn như lời hứa quyết tâm của vị lãnh tụ đứng đầu đất nước.

Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nửa theo Cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Vì thế mà hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.

Phần lễ được tổ chức trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương, dâng hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức trang nghiêm và long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung đông đủ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiểu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.

Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người đi lễ dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu.

Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức diễn ra văn hoá hoá xưa. Các hình thức văn hoá được đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Trong khu vực diễn ra hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… được duy trì trong nhiều năm nay.

Các trò chơi văn hoá dân gian được duy trì đến ngày nay như: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Bên cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ dân chuyên nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Những làn điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà đã đem tới cho lễ hội một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng đất Phú Thọ.

Tổ tiên người Việt Nam luôn muốn nhắc nhở con cháu: nên làm tròn bổn phận nhiệm vụ của mình, giữ kỷ cương, gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời dạy bảo này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng thiêng của dân tộc, gửi gắm trong hình tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trông đồng.

Thông qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên ta còn muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước, yên dân. Suốt mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, lễ hội đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần, là cội nguồn của sức mạnh, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà nhìn vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển cũng đã từng đến thăm viếng Đền Hùng. Chúng ta thật sự tự hào khi được biết Đến Hùng và các di tích trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Trong những dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam…".

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Qua mấy nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 6

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba

Bất cứ những người con Việt Nam nào dù đi đâu về đâu cũng đều nhớ tới những giá trị văn hóa của dân tộc, nhớ tới những lễ hội tôn vinh chiến công, công sức dựng nước của mười tám vị vua Hùng- những người đã xây những nền móng đầu tiên của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, năm nào cũng thế, vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, cả nước đều hướng tới Đền Hùng- Phú Thọ. Đây là nơi thờ tụng những vị vua Hùng và là nơi tổ chức lễ hội vào những ngày này. Nhà nước quy định, vào những năm chẵn sẽ được tổ chức theo nghi lễ của quốc gia còn những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ phụ trách. Nhưng dù có ở năm nào đi chăng nữa thì vào những ngày này, mọi người ai cũng muốn được tới nơi đây để thể hiện tấm lòng thành kính của mình dâng lên cho tổ tiên và những người đi trước. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của đất nước chúng ta.

Lễ hội Đền Hùng và giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hằng năm vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch. Những ngôi đền thờ các vị vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây thể hiện một cách vô cùng sâu sắc những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống của nhân dân. Lễ hội được bắt đầu cũng từ chính thời đại của vua Hùng Vương trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cũng chính bởi những lí do như vậy mà việc chúng ta suy trì lễ hội này và được tổ chức với quy mô lớn qua các năm càng chứng tỏ tấm lòng của nhân dân, những người thuộc thế hệ đi sau vẫn luôn nhớ tới với niềm biết ơn sâu sắc những vị cha ông ta đã hi sinh để bảo vệ cho đất nước.

Qua đây, chúng ta cũng nhận thấy một cách sâu sắc lòng yêu nước của dân tộc chúng ta. Trong những dịp lễ như thế này, chúng ta không thể nào quên được lễ hội Rước kiệu. Đây là một trong những công việc thể hiện sự nghiêm trang, kính lễ tới những người đã khuất. Không khí của buổi lễ vô cùng nghiêm túc, không hề có những hành động như cười đùa, nghịch ngợm. Mọi người sẽ nâng kiệu đi qua các đền và chùa ở trên núi Hùng. Trên đó là những lễ vật như xôi, gà, bánh chưng,… Đó đều là những món cúng truyền thống của dân tộc chúng ta. Tất cả sẽ được xếp một cách gọn gàng và đẹp đẽ ở trong năm bộ kiệu. Đoàn rước kiệu thường được tổ chức một cách vô cùng trang nghiêm và cẩn thận. Thường thì đó chính là những người có sức khỏe tốt, ưa nhìn được xã lựa chọn. Họ đều mặc những đồng phục thống nhất và gon gàng. Mỗi người lại mang những vũ khí thời xưa được phóng tác lại bằng gỗ như đao, chùy, cờ, long,.. để mô phỏng lại như thời ngày trước. Đoàn rước kiệu đi tới đâu, tiếng chiêng tiếng trống như rộn ràng tới đó. Sau đó, những đoàn đại biểu sẽ xếp hàng chỉnh tề để đi sau kiệu và cùng nhau lần lượt đi theo kiệu lên tới trên đỉnh. Điểm dừng đầu tiên chính là “Điện kính thiên”. Lúc ấy, cả đoàn dừng lại và thực hiện nghi lễ dâng hương. Cả bầu không khi như khẩn trương và trang nghiêm vô cùng. Mọi người ai cũng chăm chú để theo dõi quá trình dâng hương tới thần linh. Tiếp theo, mọi người đi vào trong thượng cung của đền Thượng. Đây là ngôi đền cao nhất và là ngôi đền chính trong số những đền ở đây. Do đó, tại nơi này, thường thì sẽ có một vị lãnh đạo đại diện cho nhân dân cả nước phát biểu cảm ơn những gì mà ông cha ra đã để lại, sau đó sẽ hứa cố gắng hơn cho những năm sau, cầu mong sự an lành và kinh tế đất nước phát triển. Thường thì nghi lễ này sẽ được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng theo dõi và phát lại trực tiếp để cho dân chúng cả nước cùng nhau theo dõi. Tất cả mọi người lúc này, ai nấy đều nói thầm những lời nguyện cầu từ trong trái tim của mình, mong nhận được sự phù hộ bình an của tất cả thần linh dành cho con cháu.

Sau phần lễ tế những vị vua Hùng là phần hội. Đây cũng là phần được mọi người rất yêu thích, nhất là với những người thuộc thế hệ trẻ. Mở màn năm nào hầu như cũng là phần thi kiệu của những làng ở xung quanh. Sự tham gia hào hững khiến cho không khí của mùa lễ hội như được dâng cao lên rất nhiều. Bởi mọi người sẽ xem xét và chấm xem cỗ kiệu của làng nào là đẹp nhất thì năm sau, cỗ kiệu của làng đó sẽ được thay mắn những làng còn lại được rước lên đền Thượng làm lễ. Đó chính là niềm vinh dự vô cùng lớn lao đối với ngôi làng được giải nhất vì theo như tập tục cho rằng, ngôi làng có cỗ kiệu được chọn thì trong năm làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn, được các Ngài phù hộ tốt lành. Qua đó, chúng ta thấy rõ được những đặc điểm trong đời sống tâm linh của những làng xã quanh chân núi Hùng nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung.

Trong lễ hội, chúng ta sẽ dễ dàng được xem nghi lễ hát Xoan. Đây là nghi lễ vô cùng độc đáo mà chỉ nơi đây mới có bởi chiếu theo lịch sử thì đây là điệu múa hát được bà Lan Xuân- vợ của vua Lý Thần Tông vô cùng yêu thích và có nhiều sự đóng góp giúp cho điệu hát này trở thành điệu hát thờ tại các đền thờ của vua Hùng. Không chỉ có hát Xoan mà ở đền Hạ còn có ca trù. Đây cùng là một loại hình ca hát truyền thống của dân tộc Viết Nam chúng ta. Bên ngoài sân, mọi người cùng nhau tụ tập để chơi một số những trò chơi dân gian như đu quay, đánh cờ, chọi gà, đấu vật,.. Với rất nhiều những trò chơi khác nhau, những người đến thăm hội được thưởng thức bất cứ một loại hình nào mà mình yêu thích. Ví như những bạn trẻ thường chọn chơi đánh đu trên những đu quay làm bằng tre, nứa rất chắc chắn. Buổi tối, những người yêu thích ca hát có thể cùng nhau tham gia những bài hát đối, hát giao duyên, hát chèo,… ngay tại sân của đền Hạ hoặc đền Giếng. Với biết bao những hoạt động bổ ích, hằng năm những lượt khách tới thăm đền Hùng là vô cùng nhiều. Ai cũng muốn được tới nơi thờ phụng tổ tiên của đất nước một lân để thể hiện tấm lòng thành kính.

Lễ hội Đền Hùng là một phong tục rất đẹp trong đời sống tâm linh của dân tộc người Viết. Chúng mang những giá trị về văn hóa lịch sử vô cùng to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chính bởi vậy mà đã từ lâu, Phú Thọ được coi là thánh địa của cả nước, là cái nôi của dân tộc. Trải qua một quãng thời gian rất dài với biết bao thăng trầm trong lịch sử nhưng nhà nước vẫn cố gắng tổ chức lễ hội Đền Hùng tưởng nhớ tới những vị vua khai sáng ra nước Việt ta. Những người hành hương tới với nơi đây đều mang trong mình những niềm thành kính, mong muốn gửi lên tấm lòng chân thành của mình tới tổ tiên. Điều đó khiến cho chúng ta càng cảm thấy tự hào về nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của dân tộc Việt Nam ta.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 7

Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam có từ lâu đời và đã trở thành đạo lý sống, nguyên tắc sống của các dân tộc anh em. Hàng nghìn năm Bắc thuộc, nhưng dù ở triều đại nào, thời đại nào, dân tộc ta cũng không bao giờ quên tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương. Đây là một lễ hội quốc gia để tưởng nhớ vị vua sáng lập. Cho đến nay, phong tục ngày giỗ Hùng Vương đã trở thành một truyền thống văn hóa lâu đời ở nước ta. Đó là một lễ hội quốc gia, thiêng liêng nhất trong mắt toàn thể nhân dân và đồng bào Việt Nam. Chính vì vậy, lễ hội này hàng năm được tổ chức hoành tráng cùng với lễ quốc khánh, hàng vạn người từ khắp mọi miền đất nước và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài hành hương “về với cội nguồn dân tộc”. .

Hàng năm, lễ hội này vẫn được tổ chức theo đúng truyền thống văn hóa của dân tộc. Vào các năm chẵn (5 năm một lần), ngày Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ cấp quốc gia, các năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Việc tổ chức lễ hội rất chặt chẽ, gồm hai phần: lễ và hội.

41 làng được phép mang kiệu từ đình làng đến Đền Hùng. Đây là những nghi lễ bộc lộ tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các cỗ kiệu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh xảo, giữa tiếng chiêng trống, tiếng nhạc đinh tai nhức óc, cỗ kiệu được nhấc lên trong không khí trang nghiêm, lễ hội. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đấu vật, đánh đu, ném còn, cờ người, bắn cung… đặc biệt là đêm hát Xoan và hát ghẹo – hai làn điệu dân ca đặc sắc của Châu Phong.

Các đền, chùa trên núi Hùng tổ chức nghi lễ trang nghiêm. Lễ dâng hương và hoa của đảng, chính phủ và các đoàn đại biểu từ khắp nơi trên đất nước đã được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày 9, ban tổ chức của các kinh sách khác nhau cho phép các làng phụ trách việc tế lễ mikoshi tập trung tại sảnh bảo tàng dưới chân núi, và lên các mikoshi để tiến hành tế lễ. Vào ngày 10, phái đoàn tập trung tại thành phố Việt Trì, xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành tới chân núi Hùng.

Đoàn đến cổng “Điện Kính Thiên” và kính cẩn dâng lễ vật lên Thượng cung. Nguyên thủ Quốc gia hoặc đại diện Bộ Văn hóa, đại diện cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc điếu văn chúc thọ tổ tiên. Toàn bộ lễ tế được báo chí, truyền hình hoặc đưa tin tại chỗ để nhân dân cả nước cùng theo dõi không khí lễ hội. Tổ tiên phù hộ cho con cháu.

Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa cổ xưa. Các loại hình văn hóa đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Tại khu vực tổ chức lễ hội, nhiều cửa hàng bán hàng lưu niệm, văn hóa phẩm, cửa hàng dịch vụ ăn uống, khu văn hóa, thể thao… được gìn giữ từ nhiều năm nay.

Ông bà ta ở Việt Nam luôn nhắc nhở con cháu: làm tròn bổn phận, giữ kỷ cương, gia đình hòa thuận, xã hội hòa thuận, sự nghiệp hưng thịnh. Lời dạy ấy không chỉ được nhắc nhở qua các lễ kỷ niệm hàng năm mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng thiêng liêng của dân tộc, thể hiện qua hình ảnh mặt trời rạng rỡ giữa cánh đồng.

Thông qua Lễ hội Hùng Vương, tổ tiên của chúng tôi cũng muốn nhắc nhở các thế hệ tương lai về cách bảo vệ đất nước và nhân dân. Trải qua hàng nghìn năm được gìn giữ, chống giặc và xây dựng, Lễ hội Hùng Vương đã trở thành biểu tượng tinh thần, nguồn sức mạnh và nét sáng chói của văn hóa.

Người Việt Nam chúng ta không chỉ tự hào về Đền Hùng và ngày Giỗ Tổ, mà còn nhìn vào sổ lưu bút của các đoàn khách quốc tế, bạn bè năm châu đã về thăm Đền Hùng. Công nhận trong sổ lưu bút. “Đền Hùng là nơi đặt nền móng của lịch sử Việt Nam…”.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 8

Trong tiềm thức của mỗi người Việt Nam, việc hành hương tới Đền Hùng không chỉ là một sự kiện tôn giáo, mà còn là một chuyến đi trở về nguồn cội, tìm lại những dấu ấn lịch sử hào hùng thời Vua Hùng dựng nước.

Đền Hùng nằm trên đỉnh núi Nùng (Nghĩa Lĩnh) cao hùng vĩ, thuộc thôn cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Cụm di tích bao gồm bốn ngôi đền và một ngôi làng trên đỉnh núi. Từ cổng chính đi lên là Đền Hạ, theo truyền thuyết, đây là nơi bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con, tạo thành sức mạnh của Việt Nam.

Đền Trung nằm trên cao, nơi các vua Hùng bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng. Đền Thượng nằm trên đỉnh cao nhất, với bốn chữ vàng “Nam Việt Triệu Tổ” (Tổ muôn đời nước Việt Nam). Đây là nơi Vua Hùng thờ Thánh Gióng và cầu nguyện cho mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt và sự ấm no của dân tộc. Bên cạnh Đền Thượng là ngôi Lăng nhỏ thường gọi là mộ Tổ, mang ý nghĩa tượng trưng. Từ Lăng đi xuống về phía Đông, dưới chân núi là Đền Gióng, nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con Vua Hùng thứ 18, soi gương nước trang điểm, giếng còn có tên là Giếng Ngọc.

Tại Đền Thượng (đỉnh Hùng Sơn), người ta có thể nhìn ra tám hướng và trải dài trước mắt là vùng đất trung du tươi đẹp với hàng ngàn đồi cây xanh mướt, bên cạnh là sự lấp lánh của ánh nước ba sông đổ xuống. Sự xuất hiện của những ngôi nhà và nhà máy mới khiến cho cảnh vật trở nên sinh động hơn. Con người không khỏi cảm thấy nhỏ bé trước sự hùng vĩ của thiên nhiên ở đây. Sự thay đổi của đất và con người tại Phú Thọ đã làm cho khu di tích Đền Hùng lịch sử trở nên đẹp hơn. Phía Đông là dãy Tam Đảo dài như một bức tường thành, phía Tây là ngọn Tản Viên trấn ngự. Sông Đà, sông Lô và sông Thao hợp lại để chảy về Đền Hùng, tăng thêm vẻ hùng vĩ cho khu di tích. Đây là nơi sinh sống của Vua Hùng, cái nôi của huyền thoại. Sông núi, cỏ cây mang trong mình nét đẹp của đất nước, đưa đến cho du khách những câu chuyện nửa thực nửa hư nhưng rất đẹp. Làng Lúa là nơi Vua Hùng dạy dân trồng lúa, còn các xã dọc sông Lô là nơi Vua Hùng đi săn cùng với các Lang và Mỵ Nương. Làng Hương Trầm, xã Lâu Thượng là nơi hoàng tử Lang Liêu đã làm ra bánh chưng, bánh dày để dâng lễ và chúc thọ Vua Hùng.

Ngã ba sông là nơi Vua Hùng thứ 18 lập lầu kén rể và chọn chồng cho công chúa, cũng như là nơi diễn ra cuộc so tài giữa thần Núi và thần Nước để giành được người đẹp. “Tháng ba nô nức hội đền, là ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay”. Khi đến Đền Hùng vào ngày hội, con người tìm về mảnh đất chôn nhau, tìm về ký ức tuổi thơ với những lời ru sông núi của mẹ Âu Cơ, và tìm về tổ tiên của một thời đại Vua Hùng, tìm về nguồn cội và bản sắc văn hóa của người Việt Nam.

Tình yêu và lòng tôn kính với tổ tiên đã truyền từ đời này sang đời khác, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Về hội Đền Hùng, chúng ta như được hồi sinh lại lịch sử, được hòa mình vào không khí rộn ràng của lễ hội, được thấy một phần văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh đặc trưng của dân tộc. Đây là cơ hội để ta học hỏi, tìm hiểu và tôn vinh những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Đền Hùng đã trở thành một điểm đến tâm linh, lịch sử và du lịch hấp dẫn cho người dân và du khách trong và ngoài nước. Đây là nơi để ta đặt dấu chân, tôn vinh sự hy sinh của tổ tiên và cầu mong một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt Nam.

Với cảm nhận sâu sắc và lòng yêu nước, hãy cùng nhau gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống, tôn vinh lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam để ta mãi mãi sống trong niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam.

Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 9

Có một câu nói mà con người của muôn thời đại đều cần phải khắc ghi, đó là nếu đánh mất và bỏ mặc quá khứ, bạn không bao giờ có hiện tại và tương lai. Hay một cách ngắn gọn, nó đằm mình trong câu tục ngữ truyền thống bao đời của dân tộc ta Uống nước nhớ nguồn”. Chính vì thế, hàng năm, vẫn có những lễ hội truyền thống để nhắc nhở con cháu đời đời về nguồn cội vĩnh hằng của cha ông, lễ hội đền hùng chính là mang ý nghĩa thiêng liêng ấy.

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”

Câu ca dao xưa đã cho thấy tầm quan trọng về ý nghĩa lịch sử thiêng liêng của lễ hội đền Hùng, một trong những nghi thức lễ lâu đời nhất trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt đó cũng là một dịp thiêng liêng để cả nước cùng hướng về tri ân, cùng nhau ôn lại những nét đẹp lịch sử văn hóa đã đồng hành cùng thời gian vượt lên trên cả sự băng biến. Lễ hội đền Hùng diễn ra vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch hàng năm, đây là dịp những đứa con ở khắp nơi trên tổ quốc cùng trở về Phú Thọ quê tổ để cùng thể hiện lòng thờ kính thiêng liêng dành cho nguồn cội lịch sử của dân tộc ta, để tri ân các vị vua Hùng đã có công dựng nước để con cháu sau này đời đời được sống trên mảnh đất giàu truyền thống và mang những nét đẹp tâm hồn riêng. Hàng năm, cứ vào dịp này, những người con đất Việt từ khắp nơi trên tổ quốc, thậm chí cả kiều bào ta sinh sống công tác ở nước ngoài cũng luôn lắng lòng để tưởng nhớ về lễ hội truyền thống của dân tộc.Chính vì mang trong nó không chỉ tính nghi lễ mà còn bao chứa cả lớp trầm tích văn hóa lịch sử ngàn đời cùng đạo lí dân tộc sâu sắc, mà ngày lễ giỗ tổ Hùng Vương được xem là ngày quốc lễ của dân tộc ta.

Như tên gọi, phần nào ta có thể khái quát, lễ hội đền Hùng gồm hai phần chính, đó là phần lễ và phần hội. Trước tiên là phần Lễ, gồm lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Lễ rước kiệu vua, đây là nghi thức để tưởng nhớ công ơn những vị vua hùng đã hi sinh vì dân tộc, phần rước kiệu diễn ra long trọng với các đoàn rước, cùng cờ hoa biểu tượng sặc sỡ sang nghiêm cùng tấm lòng thành kính thiêng liêng của những người tham gia rước kiệu. Vì phần lễ rước kiệu vô cùng cao quý, trang trọng, vậy nên công tác chuẩn bị vô cùng cầu kì kĩ lượng để đảm bảo không làm thất lễ đối với các vị thần.

Sau phần lễ rước kiệu để tưởng nhớ vô cùng trang kính tôn nghiêm, thì không khí cũng được trở nên ấm thiêng hơn bởi khói hương nghi ngút của phần lễ dâng hương. Đây là dịp mà những đứa con trên khắp mỏi dải đất cùng hướng về cha tổ, để cầu nguyện những điều tốt đẹp và nói ra những mong ước, gửi gắm của mình trong dịp đầu năm. Đây cũng là một nét đẹp, giúp không khí xung quanh khói hương nghi ngút vô cùng thiêng liêng, đó không khí của chân tâm dâng kính, của nét đẹp văn hóa lịch sử của dân tộc. Phần rước kiệu và phần lễ hội có lẽ là phần lễ dành cho mọi người thờ khấn, cầu nguyện.

Sang phần hội, có nhiều trò chơi dân gian thú vị, hấp dẫn đang chờ đợi mọi người tham gia. Đây cũng là dịp để những đứa trẻ đang trưởng thành trong thời kỳ mới, kỷ nguyên công nghệ hiện đại có thể ngược dòng cảm nhận nét đẹp truyền thống tích lũy bao đời qua lớp lớp tháng năm ,có các trò chơi như kéo co, đấu vật, ..đặc biệt là hội thi hát xoan truyền thống, nơi bạn được thưởng thức những làn điệu dân ca đã đằm mình vào nét đẹp tâm hồn con người nơi đây, đã mang giai điệu riêng của mảnh đất Phú Thọ để giới thiệu đến người dân xứ sở, để một lần nữa cùng cất lên lòng cảm phục và ngưỡng mộ với nét đẹp âm nhạc dân gian đáng quý ấy.

Lễ hội đền Hùng không chỉ là một nét đẹp, mà còn là một di tích nghệ thuật văn hóa được thế hệ muôn đời truyền tụng, gối nhau vẻ đẹp của đạo lí uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, từ đó, gợi đến vẻ đẹp của giá trị vĩnh hằng vượt lên dòng chảy băng hoại của thời gian.

-/-

Hy vọng với những bài văn mẫu "Thuyết minh về Lễ hội Đền Hùng" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em hiểu hơn về về lễ hội thể hiện truyền thống văn hóa dân tộc. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM