Phân tích sự vận động trong quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để thấy được những điểm mới trong tư tưởng và hình thức biểu hiện về quan niệm đất nước được thể hiện qua bài thơ Đất Nước.
Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hình tượng đất nước qua hai đoạn thơ sau:
- Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..
- Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
(Trích Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Từ đó làm nổi bật sự vận động trong quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm qua hai đoạn thơ.
Tham khảo thêm: Soạn bài Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm ngắn gọn nhất
Lập dàn ý phân tích sự vận động trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm: Sinh năm 1945 tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng, thuộc thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tự sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
+ Đoạn trích “Đất Nước”: nằm trong phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
II. Thân bài: Cảm nhận về hình tượng Đất Nước qua hai đoạn trích
1. Hình tượng Đất Nước trong đoạn 1 - Đất Nước hình thành từ truyền thống văn hóa của cha ông lâu đời
- Trong đoạn thơ tác giả trả lời câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ?
- Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết cổ tích xa xưa mà mỗi chúng ta đều được nghe kể trong suốt thời thơ ấu:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Đó là sự tích trầu cau thấm đượm tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa anh em
+ Đó là truyền thuyết Thánh Gióng nhỏ bụi tre bên đường làm vũ khí đánh đuổi giặc Ân.
- Đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mỹ tục:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
+ Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam duyên dáng búi tóc thành cuộn sau gáy là một trong những nét văn hóa đặc thù.
+ Lối sống coi trọng nghĩa tình, hôn nhân đậm bền khi trải qua những thử thách “gừng cay muối mặn”.
- Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc sống đời thường:
+ Dựng nhà:
Cái kèo, cái cột thành tên
+ Nền văn minh nông nghiệp :
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
=> Chốt lại đoạn thơ mở đầu Nguyễn Khoa Điềm nhẹ nhàng ghi khắc vào lòng ta: Đất nước có từ ngày đó. Ngày đó là ngày đất nước ta có phong tục, truyền thống, có văn hóa được tạo dựng trong một khoảng thời gian lâu dài.
2. Hình tượng Đất Nước trong đoạn 2 – Đất Nước trong chiều dài lịch sử - Đất Nước ở hiện tại và tương lai
- Trong hiện tại, đó là một Đất Nước giản dị và gần gũi, gắn liền với tình yêu của anh và em, gắn liền với sự đoàn kết của cả dân tộc. Chính tình yêu và sự đoàn kết đó mới tạo nên sức mạnh cho toàn dân:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
- Trong tương lai, đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, là Đất Nước được tạo dựng bởi thế hệ măng non tiếp bước:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
- Những suy nghĩ về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước: Tác giả đã khép lại đoạn thơ bằng lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước:
+ Đất Nước là máu thịt, là phần không thể thiếu trong mỗi con người:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
+ Chính vì vậy chúng ta phải biết cùng nhau xây dựng đất nước, cống hiến và hi sinh để bảo vệ đất nước:
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.
* Tư tưởng mà nhà thơ muốn truyền tải qua cách định nghĩa mới mẻ về Đất Nuớc
- Tác giả nêu định nghĩa về đất nước từ các góc nhìn toàn diện – truyền thống văn hóa và chiều dài lịch sử. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến một cái nhìn mới, nghiêng nhiều hơn về các không gian riêng tư, không gian đời thường để phát hiện ra một Đất Nước hết sức thân quen, gần đối với cá nhân mỗi người.
=> Từ đó tác giả đã nêu bật tư tưởng: Đất Nước của nhân dân, để khơi gợi trách nhiệm của mỗi cá nhân với Đất Nước.
* Tổng hợp, đánh giá
- Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, chất liệu dân gian phong phú.
- Mạch thơ mang đậm chất triết luận, vừa sâu sắc, vừa thấm đượm tình cảm
III. Kết bài
- Bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người.
Phân tích hai đoạn thơ để thấy sự vận động trong quan niệm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bài tham khảo số 1:
Đề tài đất nước là một trong những đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực khác nói riêng. Chúng ta đã bắt gặp hình ảnh đất nước rất nhiều không chỉ trong văn học, thơ ca mà cả trong những lời ca, câu hát của bà và mẹ. Hình ảnh đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất vẫn là qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ: “ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc, là những con người đó làm nên đất nước…
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà đen, bà điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.
Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp lại những trang thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có những bồi hồi, xao xuyến nơi sâu thẳm đáy lòng bởi những vần thơ sâu lắng đi vào lòng người nghe và người đọc.
Bài tham khảo số 2:
Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”… tiếp nối bền vững qua mỗi thời kì. Tiếp nối truyền thống ấy, Nguyễn Khoa Điềm cũng viết nên bài thơ “Đất nước”. Đến với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác trong thời kì tác giả sống và làm việc tại chiến khu Trị – Thiên từ 1971 và được xuất bản năm 1974 với nội dung nói về sự thức tỉnh của tầng lớp thanh niên đô thị vùng tạm chiếm trước bước ngoặt lịch sử của dân tộc, trong cuộc đối đầu giữa chính nghĩa và phi nghĩa để giành độc lập hòa bình cho Tổ quốc, cho dân tộc, về sứ mệnh của lớp người trẻ tuổi đối với đất nước. Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca này, với cảm hứng chủ đạo “Đất Nước của Nhân dân”, là đoạn tiêu biểu của “Mặt đường khát vọng”.
Trong đoạn thơ trữ tình – chính luận này, Nguyễn Khoa Điềm trình bày những cảm xúc và suy tưởng về đất nước dưới dạng một lời trò chuyện tâm tình, mạch cảm hứng và liên tưởng có vẻ tự do, phóng túng như một thứ tuỳ bút thơ. Nhưng thực ra, vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ, tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đây: trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ – hiện tại – tương lai); trong chiều rộng không gian – địa lí; trong bề dày của văn hoá – phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó, thống nhất. Nhưng ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt lõi cũng là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Tư tưởng này cũng chính là “hệ quy chiếu” mọi xúc cảm, suy tưởng và nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, đặc sắc. Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm sâu sắc thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca thời kì chống đế quốc Mĩ.
Đất Nước không mở đầu một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm “Đất nước” đã được nêu lên thật cụ thể. Người đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhung nhớ “ngày xửa ngày xưa”, một khoảng không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Tiếp theo, đất nước được hiện lên qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa nắng nhọc nhằn. Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương. Nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất.
Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống “cái cột”, “cái kèo”, hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.
Đó là những vẻ đẹp mang thuần phong mỹ tục của con người Việt. Nguyễn Khoa Điềm đã gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào:
“Đất Nước có từ ngày đó”
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Tiếp đó là cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó.
Chúng ta biết là ở nhiều ngôn ngữ, từ đất nước thường được cấu thành từ những từ gốc là nơi sinh; quê hương, quê cha. Ở đây, lối “chiết tự” này có thể gợi ra cho thấy một cách quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn…
Đất Nước được tách ra thành hai thành tố nó gắn với kỉ niệm đáng yêu, đáng nhớ, thân thuộc của một đời người. Tách thành tố ĐẤT – để chỉ con đường hằng ngày anh tới trường, là ngôi trường cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Tách thành tố NƯỚC – là dòng sông nơi em tắm mát, dòng sông chở nặng phù sa làm tốt xanh những cánh đồng, bãi mía, nương dâu. Cách diễn giải ấy giúp ta hình dung cụ thể: Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt. Khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước lại sống trong cái ta chung. “Khi ta hò hẹn”, Đất Nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không gian làng quê thanh bình yên ả: mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ… tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm làm sao. Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Câu thơ đậm đà chất dân ca ca dao, đặc trưng của văn hóa Việt xưa xa, gợi nhắc cho ta bài ca dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn lau nước mắt”.
Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị cũng thật đáng yêu và dễ thương làm sao, nó cũng là vật chứng cho tình yêu đôi lứa “Gói một chùm hoa/ Trong chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng/ Sang nhà hàng xóm” (Phan Thị Thanh Nhàn).
Tiếp tục tách hai thành tố Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại lí giải sâu sắc hơn nữa về Đất Nước: Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Tác giả cảm nhận Đất Nước trên bình diện không gian địa lý. Đất Nước được cảm nhận là “không gian mênh mông”. Có thể hiểu đó là núi sông, bờ cõi, là Bắc – Trung – Nam một dải. Là đất nước rừng vàng biển bạc. Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ – “Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang – nơi “Con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Đó là nơi dân mình đoàn tụ, phát triển giống nòi và làm ăn sinh sống làm nên non sông gấm vóc Việt Nam.
Tác giả cảm nhận Đất Nước không chỉ gắn liền với biên cương, lãnh thổ, địa lý mà Đất Nước còn gắn với lịch sử: đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu “thời gian đằng đẵng”. Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt. Đó là truyền thuyết:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Câu chuyện cổ “Sự tích trăm trứng” đã ra đời từ lâu đời nhằm lý giải nguồn gốc của người Việt. Từ câu chuyện ấy dân ta muôn đời ta tự hào mình là con rồng cháu tiên, con cháu Vua Hùng. Cho nên đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và tương lai: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ”. Những ai đã khuất là những người trong quá khứ – những con người sống giản dị chết bình tâm, những con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước. Những ai bây giờ là những người trong hiện tại, đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” bảo tồn nòi giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng “Gánh vác phần người đi trước để lại”. Tất cả đều ý thức về tổ tiên và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc “Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba”. Cho nên tự trong bản thân nó đã bao hàm lời nhắc nhở về nguồn gốc, dòng giống Tổ tiên. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng.
Mạch thơ dẫn đến những suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi con người với đất nước, đây là cái đích, đồng thời cũng là điểm hội tụ những cảm nhận về đất nước trong phần một của đoạn thơ:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm […]
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Lời nhắc nhủ thế hệ trẻ vể trách nhiệm với đất nước, không mang giọng “giáo huấn”, mà như một lời tâm sự, tự nhủ chân thành từ đáy lòng mình.
Tư tưởng cơ bản trong phần 2 của đoạn trích Đất Nước là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Thực ra, tư tưởng này đã thấm nhuần ở ngay phần đầu, nhưng được khơi sâu, phát triển thêm nhiều bình diện và làm nổi bật lên trong phần 2 của đoạn trích.
Trở lại với bình diện không gian – địa lí, nhà thơ góp một cách phát hiện mới và độc đáo về những thắng cảnh thiên nhiên của đất nước (đoạn từ “Những người vợ nhớ chồng” đến “Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”). Những cảnh quan kì thú của non sông gấm vóc (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, Con Gà ở Vịnh Hạ Long, hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên, ...) không chỉ là tặng vật của tạo hoá, thiên nhiên, mà đã gắn liền với cuộc sống con người; nó chỉ trở thành thắng cảnh qua sự cảm nhận của tâm hồn dân tộc, nên đã gắn liền với lịch sử dân tộc. (Trong kho tàng văn học dân gian, có rất nhiều truyộn cổ tích và câu ca dao gắn liền với những thắng cảnh thiên nhiên). Nếu không có những người vợ mòn mỏi trông đợi chồng qua những cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không thể có sự tích về những đá Vọng Phu ở nhiều nơi trên đất nước ta; nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có cách cảm nhận độc đáo về vẻ hùng vĩ của vùng đồi núi Phong Châu (“Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”). Điều đặc sắc là ở đây, cái nhìn của nhà thơ thấm sâu ý thức về Nhân dân, về những con người bình thường đã góp phần mình làm nên đất nước (người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo). Và cũng không chỉ ở những thắng cảnh mà ở khắp mọi nơi đều có sự góp phần tạo dựng của những người dân bình thường:
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
Và tác giả dẫn tới một khái quát sâu sắc :
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà trước hết nhắc đến vô vàn những lớp người vô danh bình dị:
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Những con người vô danh và bình dị đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của dân tộc: từ hạt lúa, ngọn nứa đến tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cho đến cả tên làng,… Họ cũng là những người khi:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Mạch suy tưởng của tác giả dẫn đến tư tưởng trung tâm của đoạn thơ, cũng là hội tụ mọi xúc cảm của nhà thơ: “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Và một cách tự nhiên, nhà thơ lại trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hoá dân gian. Câu thơ với hai vế song song, đồng đẳng: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”, là một cách định nghĩa về đất nước, thật giản dị mà độc đáo. Bởi vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống tinh thần của nhân dân, hơn ở đâu hết, có thể tìm thấy ở văn hoá dân gian, mà tiêu biểu là ở trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích, thần thoại,… Tác giả chọn ba câu trong kho tàng phong phú của ca dao Việt Nam để nói về những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, tâm hồn dân tộc Việt Nam: thật say đắm thiết tha trong tình yêu “Yêu em từ thuở trong nôi”; quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”; nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Còn vẻ đẹp thơ mộng của núi sông đất nước thì như được kết đọng trong những câu dân ca, nhất là dân ca trên sông nước, hay cũng có thể nói chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta đã hoà nhập, soi bóng cùng vẻ đẹp của núi sông rất nên thơ:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thực ra đã hình thành từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc ta. Nhưng chỉ đến thời kì hiện đại, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ, tư tưởng ấy mới được nhận thức sâu sắc hơn do quan niệm duy vật về lịch sử, do vai trò to lớn, những hi sinh và đóng góp vô tận của nhân dân trong hai cuộc chiến tranh lâu dài và cực kì ác liệt. Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong thời kì chống đế quốc Mỹ bởi mang tính dân chủ sâu sắc, đã được sáng tạo dưới ánh sáng của tư tưởng nhân dân và cảm hứng về đất nước.
Cũng trong chiều hướng tư tưởng chung của thời đại mình, các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước đã có những phát hiện làm sâu sắc thêm tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, thông qua sự trải nghiệm của chính mình, cùng chia sẻ những gian lao, hi sinh của nhân dân, và được sự chở che, đùm bọc của nhân dân. Các bài thơ của Nguyễn Duy (Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm), của Phạm Tiến Duật (Lửa đèn), những trường ca của Thanh Thảo (Những người đi tới biển), Hữu Thỉnh (Đường tới thành phố),… đều tập trung thể hiện hình ảnh nhân dân.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về đất nước của thơ ca chống Mĩ cứu nước, làm sâu sắc thêm tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” của thời đại ấy.
Đất Nước là đoạn thơ trữ tình – chính luận, cũng như toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng. Đoạn thơ kết hợp được cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy có lúc còn dàn trải, trùng lặp, thiếu cô đọng hoặc chính luận có khi còn lấn át cảm xúc, nhưng những nét đặc sắc thành công của đoạn thơ này là rất rõ, không chỉ ở nội dung tư tưởng mà còn cả ở những sáng tạo trong nghệ thuật thơ, trong việc sử dụng thi liệu, sáng tạo hình ảnh. Tác giả đã sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hoá dân gian – từ ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, truyện cổ tích đến phong tục và sinh hoạt hằng ngày. Điều đó tạo cho đoạn trích Đất Nước một không gian nghệ thuật riêng, mở ra một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc, gần gũi mà mĩ lệ, bay bổng của văn hoá dân gian, kết tinh tâm hồn, trí tuệ nhân dân. Việc vận dụng văn hoá dân gian ở đây không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật, mà là sự thấm sâu quan niệm “Đất Nước của Nhân dân” vào trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.
Đất nước được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kì và vô cùng ác liệt này. Chính vì thế mà tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Cảm ơn nhà thơ, với những chất liệu quen thuộc được nhìn theo một cách mới lạ, từ đó để lại tình yêu và bài học sâu sắc cho nhân dân, cho tuổi trẻ muôn đời.
-/-
Trên đây là một số bài văn mẫu cảm nhận về hình tượng đất nước và sự vận động trong quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Hi vọng các bạn đã có thêm những ý văn hay để bổ sung cho nội dung bài viết của mình hấp dẫn hơn.
Tuyển tập những bài văn hay lớp 12 / Đọc Tài Liệu