Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu cảm dùng để:
- Muốn phát biểu suy nghĩ, cảm xúc đối với đời sống xung quanh, hãy dùng phương thức tự sự và miêu tả để gợi ra đối tượng biểu cảm và gửi gắm cảm xúc.
- Tự sự và miêu tả ở đây nhằm khêu gợi cảm xúc, do cảm xúc chi phối chứ không nhằm mục đích kể chuyện, miêu tả đầy đủ sự việc, phong cảnh.
Soạn bài Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu cảm - Ngữ văn 7
I. TỰ SỰ, MIÊU TẢ TRONG VĂN BẢN BIỂU CẢM
Câu 1. Hãy chỉ ra các yếu tố tự sự và miêu tả trong bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá và nêu ý nghĩa của chúng đối với bài thơ.
Trả lời:
Các yếu tố tự sự, miêu tả trong bài “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" theo từng đoạn như sau:
- Đoạn 1: Tự sự (2 câu đầu); Miêu tả (3 câu sau) có vai trò tạo bối cảnh chung
- Đoạn 2: Tự sự kết hợp với biểu cảm, uất ức vì già yếu.
- Đoạn 3: Tự sự, miêu tả và 2 câu cuối biểu cảm, cam phận.
- Đoạn 4: Biểu cảm tình cảm cao thượng vị tha, vươn lên sáng ngời.
Câu 2. Đọc đoạn văn (tr.137-138 SGK Ngữ văn 7 tập 1) và trả lời câu hỏi:
a. Em hãy chỉ ra các yếu tố tự sự và miêu tả trong đoạn văn và cảm nghĩ của tác giả. Nếu không có yếu tố tự sự và miêu tả thì yếu tố biểu cảm có bộc lộ được hay không?
b. Đoạn văn trên miêu tả, tự sự trong niềm hồi tưởng. Hãy cho biết tình cảm chi phối tự sự và miêu tả thế nào?
Trả lời:
a) Trong đoạn văn:
- Yếu tố tự sự : kể việc bố ngâm chân, rên mình đau nhức, bố đi sớm về khuya.
- Yếu tố miêu tả : tả bàn chân bố bị bệnh, tả đồ vật đánh bắt cá và nghề cắt tóc.
- Nếu không có yếu tố tự sự, miêu tả thì yếu tố biểu cảm không thể bộc lộ vì không có đối tượng để gửi gắm.
b) Đoạn văn trên miêu tả tự sự trong niềm hồi tưởng...Tự sự, miêu tả nhằm khơi gợi tình cảm, cảm xúc, do tình cảm cảm xúc chi phối.
II. Soạn bài Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu cảm phần Luyện tập
Câu 1. Kể lại nội dung bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ bằng bài văn xuôi biểu cảm:
Trả lời:
Bài văn tham khảo:
Bài số 1
Tháng tám giữa mùa thu, thường vẫn có gió lốc dữ dằn cuốn phăng mất ba nẹp tranh trên mái nhà của Đỗ Phủ. Gió thổi chúng sang tận bên kia bờ sông. Bọn trẻ xóm Nam ấy ngang ngược đã tranh nhau cướp ba nẹp tranh ngay trước mắt ông lão - nhà thơ tuổi cao sức yếu này. Ông mệt lả đành chịu mất của quay về chống gậy than thở.
Một chốc sau gió lặng, mây đen bất chợt kéo đến. Trời tốì đen lại. Mưa xuống. Trời lạnh buốt. Nhà Đỗ Phủ chỉ có duy nhất một cái chăn đơn đã cũ nát, con đạp rách, nên lạnh như dao cứa. Khổ nỗi cái giường lại nằm ngay chỗ mái dột, ướt sũng cả. Từ ngày loạn lạc, do lo lắng, nhà thơ vốn đã bị mất ngủ, giờ lại thêm mưa dột ướt, làm sao ông chợp mắt cho được. Nằm thao thức, nghĩ mông lung, nhà thơ mong ước có được một ngôi nhà đồ sộ ngàn vạn gian, nhưng không phải cho mình, lại càng không phải cho riêng một mình mình, mà là cho tất cả mọi hàn sĩ trên cõi đời này, mọi nhà thơ nghèo, khổ trên thế gian này.
Càng cao cả hơn nữa, còn ở chỗ nhà thơ ước ao được đánh đổi sự tan nát của chính căn nhà mình, thậm chí cả cái chết của bản thân mình để lấy ngôi nhà đồ sộ ngàn vạn gian kia cho mọi người thì ông cũng vui lòng...
Bài số 2
Vào độ tháng tám, mùa thu năm ấy trời lạnh, gió thổi dữ dội liên hồi. Căn nhà tranh của ta mới dựng được vài tháng bị gió cuốn tung cả ba lớp. Cái thì bay sang sông rải khắp bờ. Cái thì bị cuốn thốc treo lên ngọn cây ở cánh rừng xa. Cái thì bị cuốn xuống vào rãnh mương đầy nước.
Lũ trẻ ở thôn Nam thấy ta già yếu không có sức nên thi nhau chạy ra cướp giật ngay trước mắt mà ta chẳng làm gì được. Chỉ một loáng, tất cả những mảnh tranh bị gió cuốn đã bị chúng lấy sạch, chạy tuốt vào lũy tre phía trong. Mặc cho ta chạy theo gào thét khản cả cổ, đành phải chống gậy quay về với bao nỗi buồn bực, ấm ức.
Đến lúc gió không thổi nữa thì mây đen ngùn ngụt kéo tới, trời tối đen như mực. Mưa ào ào trút xuống, trong nhà không có chỗ nào là không bị dột, chiếc mền vải cũ mỏng tanh không đủ ấm, lại còn bị con trẻ đạp cho rách nát. Ngoài trời mưa cứ tiếp tục rơi, rơi hoài, rơi mãi chẳng dứt. Ta từ lúc cơn loạn xảy ra đến giờ vốn đã chẳng ngủ được lại thêm bây giờ trời lạnh, mưa ướt lại càng khó ngủ hơn.
Ta chỉ mong sao có một ngôi nhà rộng muôn ngàn gian, để cho tất cả những kẻ sĩ nghèo, những dân chúng lầm than trong thiên hạ đều có chỗ nương thân, đều hân hoan, sung sướng. Than ôi! Nhưng đến bao giờ căn nhà vững như bàn thạch, gió mưa không lay chuyển được ấy mới sừng sững hiện ra trước mắt. Có được như vậy thì riêng một nhà ta, một mình ta chịu chết rét ta cũng thấy vui.
Câu 2. Trên cơ sở văn bản Kẹo mầm (SGK Ngữ văn 7 tập 1, tr. 138-139) viết thành một bài văn biểu cảm.
Trả lời:
Viết 1 bài xuôi biểu cảm về bài kẹo mầm
Lưu ý:
- Các yếu tố tự sự
+ Chuyện đổi tóc lấy kẹo mầm ngày trước, loại kẹo làm bằng mầm thóc chỉ đổi tóc rối, ko bán.
+ Tả cảnh chải tóc của người mẹ, hình ảnh người mẹ.
- Bộc lộ cảm xúc: Lòng nhớ mẹ khôn xiết
Bài văn tham khảo:
Bài văn biểu cảm về văn bản Kẹo mầm số 1
Mẹ tôi đã khuất xa, chị gái tôi cũng đi lấy chồng. Giờ đây, trước hiên nhà thân thuộc, nghe tiếng rao vang xa ngoài phía cổng “Ai đổi kẹo”, trong lòng tôi bống trào dâng những kí ức tuổi thơ ngọt ngào với món quà ngọt thơm dòng sữa gạo “kẹo mầm”.
Nỗi buồn lặng lẽ ấy đưa tôi trở về ngày mẹ còn sống. Tôi còn nhớ như in hình ảnh mẹ ngồi gỡ tóc bằng cái lược thưa gỗ vàng. Đầu mẹ nghiêng nghiêng, sóng tóc đổ dài một bên vai, tay cầm lược chải dọc theo mái tóc, mềm mại như múa, thỉnh thoảng mẹ dừng lại vuốt những sợi tóc rụng theo lược, vo thành nắm nhỏ, giắt nó lên mái hiên nhà. Rồi chị tôi khi lớn lên, mái tóc cũng dài như mẹ, cũng lại chải đầu gỡ tóc rối, vo lại và giắt lên mái hiên nhà.
Lúc bấy giờ tôi còn là một cậu bé học cấp I,cứ tan học là đeo vội cái cặp sách đan bằng cói rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà, gọi toáng lên từ ngõ: “Mẹ ơi, con về rồi”. Thỉnh thoảng trên đường về, tôi lại thấy bà cụ quẩy đôi quang thúng đi đổi kẹo lấy đồng nát, vỏ chai, lông vịt, tóc rối,... Gọi là kẹo, nhưng thực chất chỉ là mạch nha làm bằng mầm cây mạ, mầm thóc, hoàn toàn không có đường mật gì. Thứ đó gọi là Kẹo mầm.
Nghe tiếng rao của bà đổi kẹo, bọn trẻ con chúng tôi dỏng tai lên nghe và vọi vàng về nhà bắc cái ghế đẩu trèo lên, đưa tay vào những khe tàu lá cọ, moi ra những búi tóc rối mang đi đổi kẹo. Sau đó, bọn trẻ con ngồi vây quanh bà hàng kẹo mầm, xừa xem vừa hồi hộp chờ đến lượt mình. Bà lấy nồi kẹo mầm ra và một nắm que tăm để lên mẹt. Đôi tay bà nhanh thoăn thoắt, tay trái cầm que tăm còn tay phải bà véo kẹo, kéo dài sợi kẹo từ trong nồi ra. Những sợi kẹo xù trên đầu que tăm như một bối bòng bong. Trong xù to như một bông hoa mẫu đơn, tưởng có thể ăn suốt cả ngày không hết. Nhưng chỉ cần đưa vào mồm ngậm lại là những sợi kẹo dính vào với nhau, chỉ còn to bằng quả táo nhỏ. Đặt cái kẹo tròn vo, lồng phồng lên lưỡi, lần nào tôi cũng cảm nhận được mùi thơm mát và ngọt lịm của Kẹo mầm.
Quê hương tôi giờ đây đã thay đổi rất nhiều, trẻ con cũng không còn mong ngóng những tiếng rao đổi kẹo, đổi kem. Nhưng mỗi khi nghe tiếng rao lanh lảnh ngoài ngõ: “Quạt điện, bàn là, ti vi, tủ lạnh hỏng ba... án”, tôi lại nhớ về những sợi kẹo vàng óng cuộn tròn trên que tăm, dịu ngọt, mát lành trên đầu lưỡi, thứ kẹo gắn liền tuổi thơ tôi đơn sơ mà ấm áp với làng quê yên ả, với mái tóc và vòng tay che chở của mẹ.
Bài văn biểu cảm về văn bản Kẹo mầm số 2
Bạn đã bao giờ ăn kẹo mầm chưa? Loại kẹo mà ở những làng quê xưa, bọn trẻ chúng tôi thích nhất. Điều thú vị hơn là nó được đổi từ tóc rối. Bà tôi, mẹ tôi và các cô tôi, mỗi lần chải đầu, gội đầu lại chải ra được một tí tóc rối. Đó là những búp tóc chỉ bé bằng đầu ngón tay thôi, ai chải đầu được tý nào cũng cuộn lại, gài lên mái gianh trước cửa nhà. Có lẽ đó là một quy định chung cho mọi người phụ nữ trong nhà, do bà tôi, hoặc ông tôi ra lệnh từ bao giờ chúng tôi cũng không biết.
Thường thì những ngày hai chín, ba mươi Tết, dù bận đến thế nào, những người phụ nữ cũng phải gội đầu để đón năm mới. Đó là những ngày có nhiều tóc rối cài lên mái nhà. Cả trước ngày rằm tháng giêng, mọi người chuẩn bị tắm gội sạch sẽ để lên chùa lễ Phật, ai chả phải gội đầu.
Và chỉ sau đó vài hôm, thế nào cũng có những bà hàng kẹo mầm đi thu nhặt những búi tóc rối ấy bằng cái nồi kẹo mầm, đổi kẹo cho trẻ con để lấy tóc rối.
Đó là những ngày hết Tết rồi. Trong mọi nhà chả còn một thứ bánh mứt, kẹo gì, bọn trẻ con chúng tôi mới mong những bà hàng kẹo mầm xuất hiện trên đường làng. Với tiếng rao: "Ai tóc rối đổi kẹo không nàỏ". Tiếng rao như một câu hỏi vu vơ cứ ngân dài trong những ngõ quê. Chắc người lớn chẳng ai để ý đến tiếng rao ấy. Nhưng bọn trẻ con chúng tôi thì cứ dỏng tai lên nghe, xem cái tiếng rao của bà hàng kẹo mầm đã gần đến ngõ nhà mình chưa. Và khi đã chắc chắn là bà hàng kẹo mầm đang đi về phía nhà mình rồi, anh em tôi bắc cái ghế đẩu trèo lên, đưa tay vào những khe tầu lá cọ moi ra những búi tóc rối. Chúng tôi gỡ gỡ búi tóc ra, vo lẫn vào nhau thành một nắm tưởng như to tướng trong lòng bàn tay, với hy vọng sẽ đổi được cái kẹo to.
Bọn trẻ ngồi vây quanh bà hàng kẹo mầm, vừa xem, vừa chờ đến lượt mình, mỗi thằng cầm một nắm tóc rối bù xù. Bà hàng kẹo đỗ quang gánh, mở cái mẹt đậy thúng ra, lấy nồi kẹo mầm và một nắm que tăm để lên mẹt. Tay phải bà ta thoăn thoắt véo kẹo, kéo dài sợi kẹo từ trong nồi ra như làm phép. Tay trái bà ta cầm cái que tăm, mỗi lần hai tay bà chập vào nhau là một đoạn của sợi kẹo lại dính vào đầu que tăm que bên trái. Những sợi kẹo nhỏ như tơ tằm, cứ chập vào lại kéo ra như người biểu diễn một điệu múa. Người xem đến hoa mắt không nhận ra hai tay bà hàng kẹo vừa xoay que tăm vừa dính sợi kẹo vào đầu que nữa. Bọn trẻ chúng tôi đứa nào cũng kêu rằng túm tóc của mình to, bà phải thêm kẹo. Bà hàng kẹo không bao giờ cãi lại bọn trẻ con, bà nhanh miệng làm vừa lòng bọn trẻ bằng cách càng kéo mỏng sợi kẹo ra và chập thêm vào đầu que tăm. Mỗi lần thêm như vậy, bà ta lại kèm thêm một câu nói: "Này to, này!... Này, nhiều này!...". Tay bà ta làm, miệng nói, cứ như người phù thủy bắt quyết và đọc thần chú. Bà hàng kẹo làm xong một que, đưa cho đứa nào bà cũng nói thêm một câu: "To nhớ!... Thích nhớ!" cùng với miệng cười tươi hơn cả cô đào đóng vai Thị Mầu.
Bà hàng kẹo làm rất nhanh, chỉ một lúc sau, hơn một chục đứa chúng tôi đứa nào cũng có trên tay một que kẹo. Những sợi kẹo xù trên đầu que tăm như một bối bòng bong. Trông thì to xù như một bông hoa mẫu đơn, tưởng có thể ăn suốt ngày cũng không hết được. Nhưng chỉ cần cho vào mồm ngậm lại, xoay một cái là những sợi kẹo tóp lại dính vào nhau, chỉ to bằng cái quả xoan hay cái hạt táo.
Và đúng như lời bà hàng kẹo nói câu: "Thích nhớ", đứa nào cũng thích thật. Kẹo ngọt mát, tưởng như chẳng có thứ mứt tết nào bằng. Và chúng tôi coi đây là ngày "Tết" của trẻ con xóm quê vậy. Bởi đứa nào cũng vui tíu tít. Chúng tôi đứng nhìn theo bà hàng kẹo gánh hàng đi ngõ khác. Tiếng bà ta lại ngân dài trên đường làng: "Ai tóc rối... đổi kẹo kh..ộ.ông? Nà..àọ.?". Câu hỏi vu vơ bay vào trong các ngõ. Và lại có những đứa trẻ chạy ra, tay mỗi đứa cầm một nắm tóc rối.
Đó là những kỷ niệm của một thời thơ ấu, của lớp người bây giờ đã bạc đầu cả rồi. Ai còn sống trong những làng quê, ai đã đi ra thành phố? Ai đã đi nước lạ, quê người? Cuộc sống náo nhiệt, sung túc, tràn trề bánh kẹo ngoại hôm nay, có ai nhớ về quê làng cái thuở lắng tai nghe tiếng rao ngọt ngào, câu hỏi vu vơ bay trong lối ngõ quê hương?
Trên đây là nội dung Soạn bài Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu cảm chi tiết dành cho các em học sinh lớp 7 tham khảo, kèm một số bài văn biểu cảm tham khảo theo các yêu cầu của sách giáo khoa. Đừng quên xem trọn vô soạn văn lớp 7 do Đọc tài liệu tổng hợp nữa em nhé!
Xem thêm:
Bài trước: Soạn bài Từ đồng âm
Bài sau: Soạn bài Cảnh khuya