Trang chủ

Phân tích nhân vật Chí Phèo

Xuất bản: 09/12/2019 - Cập nhật: 16/04/2024 - Tác giả:

Phân tích nhân vật Chí Phèo - Hướng dẫn lập dàn ý chi tiết và tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao.

Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật Chí Phèo được Đọc Tài Liệu biên soạn bao gồm những gợi ý cơ bản về dàn ý và cách triển khai bài phân tích. Ngoài ra, bài viết cũng giới thiệu đến các em một số bài văn mẫu hay phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao để tham khảo và mở rộng vốn từ khi làm bài.

Cùng tham khảo ngay...

Đề bài: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.

I. Khái quát về nhân vật Chí Phèo

1. Tóm tắt nhân vật Chí Phèo

- Nhân vật Chí Phèo trong truyện là một đứa trẻ bị bỏ rơi, vô thừa nhận, được người làng nhặt về nuôi, đến năm 20 tuổi thì đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến.

- Vì ghen tuông, Chí Phèo bị Bá Kiến đẩy vào tù và rồi trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại (tay sai cho Bá Kiến) sau khi ra tù. Cuộc đời Chí từ đây trượt dài trên con đường tha hóa.

- Trong một lần vô tình gặp Thị Nở, chính Thị Nở là người đã đưa Chí gần hơn với những cảm xúc cuộc sống thường ngày, đánh thức khát vọng hoàn lương trong Chí.

- Nhưng sau đó, chính Thị Nở cũng là người vô tình đẩy Chí xuống vũng lầy của xã hội khi Chí nhận ra bi kịch của chính bản thân.

- Trong đau đớn và uất ức, Chí Phèo cầm dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

* Tóm tắt nhân vật Chí Phèo bằng sơ đồ tư duy theo tình tiết truyện:

II. Hướng dẫn làm bàiphân tích nhân vật Chí Phèo

1. Xác định yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: Phân tích tính cách, hành động, lời nói, cảm xúc,... của nhân vật Chí Phèo.

- Phạm vi tư liệu dẫn chứng: các chi tiết, hình ảnh, từ ngữ,... liên quan đến nhân vật Chí Phèo trong văn bản Chí Phèo.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm nhân vật Chí Phèo

- Luận điểm 1: Chí Phèo, người nông dân lương thiện

- Luận điểm 2: Chí Phèo, tên lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại

- Luận điểm 3: Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

III. Lập dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nam Cao: là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của văn học Việt Nam.

- Sáng tác của ông nói về những số phận nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người nông dân.

- Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo và nhân vật Chí Phèo

2. Thân bài phân tích nhân vật Chí Phèo

a) Luận điểm 1: Chí Phèo - người nông dân lương thiện

- Sinh ra là đứa trẻ mồ côi, bị vứt bỏ ở lò gạch cũ, sống vất vưởng.

- Lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là người khỏe mạnh, chăm chỉ chịu khó, “hiền lành như đất”.

- Có ước mơ và hạnh phúc bình dị đó là có một gia đình: Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải.

- Có lòng tự trọng.

b) Luận điểm 2: Chí Phèo - tên lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại

- Bị Bá Kiến vì ghen tuông mà đẩy vào nhà tù thực dân.

- Người nông dân lương thiện bị nhà tù làm cho tha hóa cả về nhân hình và nhân tính, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

+ Tha hóa về nhân hình: Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết, cái ngực phanh đầy nét trạm trổ rồng phượng.

+ Tha hóa về nhân tính: Trở thành du côn du đãng, say triền miên, cướp giật, rạch mặt ăn vạ, làm tay say cho Bá Kiến.

-> Nhà tù thực dân tiếp tay cho địa chủ phong kiến biến một người nông dân lương thiện thành tên lưu manh

=> Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật của xã hội đương thời, là sản phẩm của tình trạng đè nén, áp bức của nông thôn trước Cách mạng tháng Tám.

c) Luận điểm 3: Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người

- Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã đánh thức phần người, bản chất lương thiện trong Chí, giúp Chí nhận biết mọi âm thanh trong cuộc sống, nhận ra bi kịch của cuộc đời mình, và muốn làm người lương thiện.

+ Chi tiết bát cháo hành: Biểu tượng tình yêu, đánh thức bản tính hiền lành của Chí.

- Chí thức tỉnh, khát khao được sống lương thiện, được trở về với cuộc sống đời thường, thực hiện những ước mơ bình dị. Biểu hiện cho sự thức tỉnh là Chí nhận ra mình đã già, nhận ra được những âm thanh của cuộc sống đời thường.

- Diễn biến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người:

+ Nguyên nhân: Bà cô thị Nở không cho thị lấy Chí.

+ Tâm trạng Chí Phèo: Lúc đầu Chí ngạc nhiên, đau đớn thất vọng sau đó nhận ra bi kịch của cuộc đời mình và đến đâm chết kẻ thù rồi tự sát.

-> Bà cô chính là đại diện cho rào cản xã hội, là tiếng nói đại diện cho thành kiến của xã hội đương thời khiến Chí rơi vào đau đớn, tuyệt vọng đến cùng cực.

- Kết cục bi thảm của Chí: Trong bế tắc, Chí ý thức được kẻ đã cướp đi bộ mặt và linh hồn của con người Chí chính là Bá Kiến. Chí đã đến trả thù, tiêu diệt Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

=> Niềm khao khát được sống lương thiện và tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến.

* Đánh giá

- Nghệ thuật: Giọng kể đa thanh, khắc họa nhân vật độc đáo, xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, hợp lý.

- Nội dung: Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ. Vạch trần tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình người, vào nhân tính và bản chất con người.

3. Kết bài

- Nhân vật Chí Phèo đã trở thành hình tượng của người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam.

- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được thể hiện thông qua nhân vật Chí Phèo đã đưa tác phẩm trở thành kiệt tác số một của Nam Cao, khẳng định tên tuổi của ông trong nền Văn học Việt Nam.

IV. TOP 10 bài văn phân tích nhân vật Chí Phèo hay và đặc sắc nhất

Đọc tài liệu giới thiệu đến các em những bài văn phân tích Chí Phèo hay và đặc sắc nhất do các bạn học sinh từ mọi miền tổ quốc thực hiện, các em có thể đọc tham khảo để học hỏi cách trình bày, diễn đạt ý văn khi làm bài.

Bài mẫu số 1: Phân tích nhân vật Chí Phèo ngắn gọn

Là một nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại, Nam Cao đi theo khuynh hướng hiện thực nhân đạo, các tác phẩm của ông thường phản ánh một cách sâu sắc và chân thực về đời sống cũng như nội tâm của nhân vật. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc trong kho tàng văn chương đồ sộ của ông, được bạn đọc đón nhận như một bằng chứng thép về tội ác của tầng lớp địa chủ, thực dân phong kiến thông qua nhân vật Chí Phèo.

Chí Phèo là một cậu bé có tuổi thơ thật bất hạnh. Ngay từ khi chào đời, Chí đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ là ai. Được dân làng đùm bọc, cưu mang, lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Cũng như bao cậu thanh niên khác, Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và bị đẩy vào tù chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách. Ngoại hình của Chí thật đáng sợ với cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ. Hắn bầu bạn với rượu và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền. Kể từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn điều đó?

Cứ như vậy, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.

Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.

Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa. Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”. Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận.

Có thể nói, thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã người đọc hiểu hơn về số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Mặc dù cuộc sống trải qua nhiều bất hạnh nhưng trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài mẫu số 2: Phân tích nhân vật Chí Phèo học sinh giỏi

Khi “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời, chắc ít ai nghĩ rằng, thân phận người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến lại có thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam, Nam Cao nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị, thương cảm sâu sắc với nỗi đau của con người. Tấm lòng nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo bước ra từ những trang sách của Nam Cao thì người ta mới nhận ra rằng đây là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.

Nam Cao được người yêu nghệ thuật biết đến với hình ảnh của một nhà văn hiện thực tiêu biểu của thế kỷ 20. Mang trong mình một quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, ông tâm niệm: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Theo đuổi hai chủ đề sáng tác chính là người trí thức nghèo như anh Hộ trong “Đời thừa” hay người văn sĩ Điền trong “Giăng sáng”, người nông dân nghèo như lão Hạc túng quẫn đến mức bán cả cậu Vàng rồi tìm đến con đường chết để giải thoát cho chính mình hay bà lão đánh đổi cả mạng sống của mình cho bữa ăn trong “Một bữa no”. Nam Cao luôn quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá con người trong con người (nội tâm nhân vật) và thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh thế nhưng những tác phẩm của ông làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Tiêu biểu cho sự nghiệp văn học của ông không thể nào không nhắc đến truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời vào năm 1940 trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt.

Tôi vẫn còn ngỡ ngàng, bởi chẳng thể nào mường tượng ra được việc Nam Cao lại để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách đặc biệt như thế. Nam Cao “quăng” Chí lên trang sách với một tiếng chửi, tiếng chửi của một gã say rượu. Tôi lại thắc mắc một điều, tại sao không phải là Chí xuất hiện với hình dạng bằng xương bằng thịt, mà lại là một thằng Chí Phèo say khướt lướt như thế? Hình ảnh xuất hiện của nhân vật vừa quen vừa lạ, quen vì những tên say rượu vẫn thường ăn nói “càm ràm”, nhưng lạ vì mặc nhiên, chẳng có ai thèm quan tâm hay làm điều gì với hắn cả. Chí chửi cũng “hay lắm”, không biết hắn có phải mất thời gian sắp xếp những lời lẽ trong đầu của mình nhiều hay không, hoặc là đây chính xác là một thói quen đã trải qua khoảng thời gian đủ lâu để trở nên bài bản. Chí “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Chí chửi từ lớn đến bé, từ trừu tượng đến cụ thể, từ xa lạ đến gần gũi. Đó là tiếng chửi vật vã, đau đớn của một con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình.

Đối với Chí, tiếng chửi là một phương tiện giao tiếp, chửi là một cách để Chí có thể giao tiếp được với thế giới loài người nhưng đớn đau thay, đáp lại những tiếng chửi của Chí chỉ là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, trong sự im lặng tuyệt nhiên ấy, lại xuất hiện tiếng “chó cắn lao xao” giống như sự đáp lại duy nhất mà Chí Phèo nhận được. Có thể thấy một điều, Chí đã thực sự bị đánh bật ra khỏi thế giới loài người, mặc cho sự gào thét của một con người mong muốn được giao tiếp, đáp lại chỉ là sự im lặng dửng dưng. Người ta vẫn thường nói: “Im lặng là vàng”, nhưng trong hoàn cảnh này, sự im lặng chẳng khác nào mũi dao sẵn sàng giết chết con người. Tôi có thể nhìn thấy sự hằn học, hận thù, đau đớn của Chí trong những tiếng chửi, tôi nhìn thấy sự thờ ơ, dửng dưng của xã hội loài người (làng Vũ Đại) lúc bấy giờ, tôi nhìn thấy sự đồng cảm của Nam Cao khi để cho nhân vật của mình xuất hiện như vậy và những độc giả như chúng ta thì lại hết sức tò mò, rất muốn biết Chí Phèo là ai?

Khi lật lại những trang đời của Chí Phèo, thật đau đớn xiết bao khi biết được rằng, ngay từ khi được sinh ra Chí đã bị chính cha mẹ của mình bỏ rơi ở một cái lò gạch cũ, giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. May mắn thay, khi đứa trẻ ấy được người dân đưa về nuôi nấng, số phận của Chí Phèo được truyền tay từ người này sang người kia, cũng đã ngỡ rằng những bất hạnh của một đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi khi mới sinh ra sẽ được san sẻ phần nào với tình yêu thương của những người dân làng chân chất, thật thà nhưng không phải như vậy. Tôi lại tự hỏi lòng, không biết việc được cứu sống với Chí có phải là một sự may mắn hay không? Tuổi thơ của Chí sống trong những bất hạnh, tủi hờn: “Hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Có thể nói, đây là khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, đó là quãng thời gian lương thiện, mang trong mình nhiều ước mơ nhỏ, với những hoài bão, dự định về cuộc sống tương lai.

Anh Chí là một chàng trai giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì người ta đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm những điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thấy thích. Ngày ấy, Chí cũng giống như biết bao những người trẻ khác, mơ ước về “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, xã hội bất lương ấy đã bóp chết ước mơ bình dị của một con người. Chỉ vì một cơn ghen tuông vu vơ của lão cáo già Bá Kiến, Chí Phèo đã bị đẩy vào cảnh tù tội. Rồi chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già Bá Kiến biến Chí Phèo từ một anh nông dân lương thiện, một anh canh điền khỏe mạnh với những ước mơ bình dị trở thành một con thú dữ, một kẻ tội đồ của làng Vũ Đại. Cuộc đời của Chí Phèo từ đó bước sang “một trang mới” trong cuộc đời của những khổ đau và bất hạnh.

Chừng sáu, bảy năm gì đó, người ta thấy Chí Phèo trở về làng. Nhưng nhà tù thực dân đã tàn nhẫn vằm nát cả bề ngoài khỏe mạnh, cả bên trong lương thiện của Chí Phèo. Xuất hiện trước mặt người đọc bây giờ là một tên giang hồ, lưu manh với bộ dạng gớm ghiếc. Nam Cao miêu tả rất kỹ càng về ngoại hình nhân vật của mình: “Cái đầu thì trọc lóc, cái mặt đen nhìn rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết,... cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế,...”. Chí Phèo bây giờ, không còn là một anh canh điền lương thiện, khỏe mạnh với những giấc mơ bình dị nữa. Hắn bây giờ đã trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến.

Đau đớn thay, khi chính người dân lương thiện ở làng Vũ Đại là những người đưa đôi tay của mình ra để cứu lấy sự sống của một đứa bé, để Chí được sống vậy mà bây giờ, khi bị nhà tù thực dân tha hóa, Chí Phèo trở về, quay lưng lại với những người đã từng cứu sống mình, hắn dẫm đạp lên máu và nước mắt của những người dân lương thiện để lấy tiền uống rượu. “Hắn đã đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm tất cả mọi thứ trong lúc say: “Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say,... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận”. Hình ảnh của Chí Phèo, Nam Cao đã một lần nữa vạch mặt tội ác của chế độ thực dân và phát xít lúc bấy giờ, đẩy những người dân lương thiện vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, bóp nghẹt ước mơ của những người dân lương thiện, tước đoạt quyền sống của những con người chỉ có một ước mơ đó là được sống thật bình thường. Đó cũng chính là bộ mặt đáng buồn của những người nông dân ở các làng quê Việt Nam trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước Cách mạng tháng Tám.

Tôi vẫn luôn tin rằng, tình yêu thương tỏa ra thứ ánh sáng thật diệu kỳ. Nam Cao rất thấu hiểu nhân vật của mình, thế rồi chẳng hiểu cố tình hay ngụ ý, để cho những rung cảm của tình yêu thương chạm nhẹ vào trái tim của con thú dữ, làm nó hiền lại, đánh thức dậy sự lương thiện vốn có trong bản chất con người. Sự xuất hiện của Thị Nở trong cuộc đời của Chí có ý nghĩa thật đặc biệt. Sau đêm tự tình ở vườn chuối, một người phụ nữ xấu đến độ “ma chê quỷ hờn” lại trở thành nguồn sáng ấm áp chiếu rọi vào trái tim của Chí Phèo, thắp lên ngọn lửa, khao khát được hoàn lương, được trở về với thế giới loài người của Chí. Thị mang tới cho Chí một bát cháo hành - lần đầu tiên trong cuộc đời có một người tình nguyện mang một thứ gì đó cho Chí, không giống như những thứ Chí phải chà đạp lên máu và nước mắt mới có thể dành được. Bát cháo hành không chỉ là liều thuốc giải cảm mà còn có ý nghĩa rất lớn lao, cứu rỗi cả một con người, làm cho một con người sau những cơn say triền miên bừng tỉnh và muốn được hoàn lương, trở về một cuộc sống bình thường.

Nếu như trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, chi tiết tiếng sáo là chi tiết đánh động trong lòng Mị tình yêu cuộc sống, khát khao sống mãnh liệt sau những tháng ngày sống “lùi lũi như một con rùa bên xó cửa” thì trong truyện ngắn “Chí Phèo” hình ảnh bát cháo hành cũng mang một ý nghĩa đặc biệt như vậy. Đã lâu lắm rồi, có lẽ là từ khi trở về từ nhà tù thực dân, Chí Phèo mới có những phút giây tỉnh táo như thế! Chí nhìn thấy ánh nắng đã lên cao, nghe thấy tiếng lao xao của những người đi chợ, nghe thấy tiếng gõ cá của người kéo chài, nghe thấy tiếng hót của những chú chim trên bụi cây ngoài kia,... những thanh âm gần gũi của cuộc sống mà đã lâu lắm rồi Chí chẳng thể nghe thấy. Hôm nay Chí tỉnh, nhờ bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở, Chí còn tỉnh táo hơn. Chợt nhận ra mình đã đang đứng ở phía dốc bên kia của cuộc đời, thế nhưng với Chí, tuổi già không đáng sợ, điều đáng sợ nhất là sự cô độc. Chí nhớ về ước mơ của mình trước đây: “Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng để lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.

Một ước mơ thật bình dị là được sống một cuộc sống bình thường đã tuột khỏi tay của anh canh điền khỏe mạnh ngày nào. Để bây giờ khi nhìn lại chính mình, Chí sợ, sợ cô độc, nghĩ về cuộc sống của mình bây giờ, có lẽ hắn sẽ khóc mất nếu như Thị Nở không qua đúng lúc. Chí Phèo bưng bát cháo hành, thấy mắt mình ươn ướt, bát cháo của tình yêu, của tình người, bát cháo giúp cho Chí khỏe hơn, cũng là liều tiên dược đánh thức sự lương thiện trong hắn. Nhìn Thị, hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát: “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ...”. Đó là giây phút mà hắn người nhất sau biết bao nhiêu năm triền miên trong những cơn say. Đã hai lần Thị Nở phải thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương đã khiến Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống, phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Bây giờ, Chí chỉ có một mong ước đó là được trở lại cuộc sống lương thiện và Thị Nở chính là cây cầu để đưa Chí trở lại hòa nhập với cuộc sống con người.

Chí đã từng nói với Thị: “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Những độc giả như tôi thoáng chốc giật mình, đó có phải là lời của Chí Phèo không, có phải lời của “con thú dữ làng Vũ Đại” không? Một lời ngỏ ý, một lời cầu hôn ngô nghê nhưng lại vô cùng tình tứ khiến cho trái tim của mỗi người đọc như chúng ta cũng thương cảm và ấm áp theo. Bạn thấy đấy, chỉ cần là tình yêu thương, dẫu cho nó có xuất phát từ một con người có vẻ ngoài không được đẹp đẽ, dở hơi, thô kệch,... thì cũng đủ để khiến sống dậy sự lương thiện trong tâm hồn của Chí Phèo. Vậy ta mới biết, sức mạnh của tình yêu thương trong cuộc sống kỳ diệu đến mức nào. Thế nhưng, khi bản thân con người ta đang muốn bắt đầu lại từ đầu, cũng là lúc những giông bão cuộc đời ập đến. Cuộc gặp gỡ cách đây năm ngày, tưởng chừng là một kết thúc hạnh phúc cho cuộc đời anh Chí nhưng cuối cùng, lại là bước khởi đầu cho bi kịch đớn đau muôn phần - bi kịch cự tuyệt tình yêu.

Chúng ta - những độc giả đã từng nghĩ về một kết thúc thật có hậu cho câu chuyện. Đó là kết thúc với sự quay trở lại cuộc sống của Chí Phèo cùng Thị Nở, họ sẽ có một cuộc sống thật bình yên và hạnh phúc. Thế nhưng, văn học hiện thực trước cách mạng là thứ văn học buộc chúng ta phải chấp nhận những điều không mong muốn nhưng nó là sự thật. Bi kịch và đau đớn thay, khi tia hy vọng mới le lói nơi trái tim của Chí Phèo là Thị Nở ngay lập tức lại bị dập tắt. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt của Chí Phèo, dập tắt biết bao nhiêu mong mỏi, biết bao nhiêu khao khát và hy vọng của một con người đang muốn quay đầu: “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo”, những định kiến về xuất thân của Chí giống như một lối mòn, chẳng thể nào bị xóa bỏ. Cánh cửa quay trở về với cuộc sống lương thiện vừa hé mở, ngay lập tức bị đóng sầm lại chỉ vì những định kiến, những suy nghĩ cổ hủ xuất phát từ một bà cô già.

Thị Nở khước từ Chí, để lại con thú dữ đang muốn quay đầu với một đống ngổn ngang những suy nghĩ. Chí tìm đến rượu, để giải tỏa sự thất vọng và sầu muộn trong lòng của mình. Chí muốn say, muốn thật say để thoát khỏi sự đau đớn và tuyệt vọng này nhưng không hiểu tại sao, Chí càng uống, càng tỉnh, Chí nhận ra bi kịch của cuộc đời mình, Chí thấy đau đớn xiết bao khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí cứ ngồi ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất vô cùng, Chí quyết định xách dao đến nhà Thị Nở để chém chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” thế nhưng, lối mòn của tội ác lại đưa bước chân của Chí đến một nơi quen thuộc - nhà Bá Kiến. Hơn ai hết, Chí Phèo nhận ra được hoàn cảnh bi kịch của mình lúc này, Chí hiểu được sâu sắc ai đã đưa cuộc đời của mình đến việc đội lốt quỷ để sống, Chí Phèo hiểu kẻ đã làm cho hắn đến nông nỗi này chính là Bá Kiến. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, dõng dạc đòi lại quyền làm người với một nỗi căm hờn. “Tao muốn làm người lương thiện”, “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là những câu hỏi bỏ ngỏ, cũng là những tiếng kêu cứu đầy thống thiết của một con người mong muốn được quay trở về, được hòa nhập, được thực hiện những ước mơ bình dị của mình nhưng lại bị cả xã hội ruồng bỏ. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương, vô nhân đạo, đẩy con người vào bước đường cùng.

Chí Phèo giết Bá Kiến, sau đó cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép với xã hội thực dân vô nhân tính, là tiếng kêu cứu khẩn thiết: “Hãy cứu lấy con người!”. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa quay trở về với sự lương thiện, Nam Cao để cho hành động giết Bá Kiến của Chí diễn ra rất nhanh, có lẽ bởi sợ nhân vật của mình sẽ vì những giây phút trì hoãn mà thay đổi. Cái chết của Chí dẫu rằng khiến Nam Cao đau đớn, nhưng lại giúp lương thiện hóa con người anh, khiến hình ảnh của anh trong mắt bạn đọc hiện lên đẹp đẽ và lương thiện đến như vậy. Con quỷ dữ cuối cùng cũng tìm được ra sự giải thoát cho chính mình, trong một tiếng kêu cứu đầy tuyệt vọng. Nam Cao cuối cùng cũng đã kịp “trả lại” cho nhân vật của mình những tính cách ban đầu.

Thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện sự cảm thông của mình trước số phận những người nông dân nghèo khổ, bị tha hóa và bị đẩy đến bước đường cùng. Tác phẩm đã lên án, tố cáo xã hội thực dân vô nhân tính chà đạp lên quyền sống, quyền mơ ước của mỗi người dân. Không dừng lại ở đó, hình ảnh Chí Phèo tự kết liễu cuộc đời của mình đã khiến cho sự lương thiện trở về trong con người, từ đó cũng là cách để Nam Cao ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp đáng quý của những người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, luôn khát khao thay đổi để trở thành một con người tốt hơn, sống một cuộc sống tốt đẹp hơn”.

Khi “Đôi lứa xứng đôi” chập chững bước những bước đầu tiên vào văn đàn Việt Nam thì văn học hiện thực cũng đang ở thời kỳ viên mãn nhất. Từ “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng với những tình huống lố bịch, hợm hĩnh phê phán thói rởm đời trong một xã hội thượng lưu đầy những tính toán, mưu mô. Hay câu chuyện về chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” với hình ảnh về một người phụ nữ quanh năm sống trong túng thiếu và khó nhọc, phải bán cả con, bán cả thân để có đủ tiền sưu nộp cho chồng. Khi độc giả đến với Chí Phèo, tấm màn được vén lên cũng là khi tấn bi kịch trò đời của Chí Phèo được lật mở. Một tiếng kêu cứu thất thanh của một con người đầy tuyệt vọng. Tôi đã đọc và bị ám ảnh bởi truyện ngắn này nhiều đến thế qua nhân vật Chí Phèo và những tấn bi kịch mà anh gánh chịu.

Bài mẫu số 3: Phân tích nhân vật Chí Phèo

Cùng viết về đề tài người nông dân nhưng Nam Cao lại đi sâu vào khai thác bi kịch con người bị lưu manh, tha hóa. Tác phẩm tiêu biểu nhất cho mảng đề tài này của ông là truyện ngắn Chí Phèo. Đây là tác phẩm được đánh giá như một kiệt tác của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhân vật điển hình là Chí Phèo. Tác phẩm Chí Phèo được sáng tác năm 1941 với nhan đề đầu tiên là Cài lò gạch cũ, sau đó được đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi" và khi in lại trong tập "Luống cày", Nam Cao đã đặt lại tên tác phẩm là Chí Phèo. Truyện ngắn đã khắc họa số phận của một con người từ anh canh điền hiền lành, lương thiện trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Không ai khác, đó là Chí Phèo.

Chí Phèo là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Chí có hoàn cảnh xuất thân thật đáng thương, tội nghiệp. Hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ ở trạng thái "trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp". Một người đi thả ống lươn nhặt được Chí rồi "đem cho một người đàn bà góa mù". Người đàn bà này "bán hắn cho một bác phó cối không con và khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ". Chí bị chính bố mẹ của mình bỏ rơi và trở thành một món hàng mang ra trao đổi, mua bán. Đến năm hai mươi tuổi, hắn đi ở cho nhà bá Kiến, một người có nguồn gốc gia đình thuộc tầng lớp thống trị. Chí Phèo mang bản chất của con người hiền lành, lương thiện. Thuở bé, Chí được nuôi nấng bởi những người nông dân chất phác. Lớn lên, Chí biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Khi bà ba bá Kiến bắt hắn "bóp chân mà lại bóp lên trên nữa" khiến chí "thấy nhục hơn là thấy thích", thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì. "Hai mươi tuổi, người ta không hoàn toàn là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" và "người ta không thích những gì người ta khinh". Trước khi đi ở tù, Chí Phèo là một người lương thiện, có nhân cách và lòng tự trọng.

Vậy mà, sau quãng thời gian ở tù, hắn thành một người khác, một kẻ lưu manh, côn đồ. Cơn ghen vô cớ của bá Kiến là nguyên nhân đẩy Chí vào tù và trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Nam Cao đã miêu tả Chí: "Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét trạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế". Ngoại hình ấy đã khiến mọi người thấy hắn "trông khác hẳn" và "trông gớm chết". Chí không mang bộ mặt của con người mà hắn mang bộ mặt của "một con vật lạ". Không chỉ biến dạng về nhân hình, Chí Phèo còn tha hóa cả về nhân tính. Hắn triền miên trong những cơn say, "cứ rượu xong là hắn chửi". Hắn chửi trời, chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, "chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn" và chửi cả "đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nổi này". Hắn cất tiếng chửi vì hắn say rượu, vì hắn cô đơn lạc loài giữa xã hội.

Tiếng chửi của Chí tuy vô thức nhưng lại hoàn toàn có ý thức. Hắn chửi vì sự bất lực, bế tắc, chửi vì không ai thèm giao tiếp với hắn. Hắn đã bị tước đoạt quyền làm người khi sự tồn tại của hắn không được ai công nhận. Chí sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ và trở thành tay sai đắc lực cho bá Kiến. Lần thứ nhất Chí đến nhà cụ bá để đòi món nợ máu vì hắn đã xác định được kẻ thù. Hắn hung hăng, gọi cả tên tục nhà bá Kiến ra mà chửi nhưng bằng những lời dụ dỗ ranh mãnh, bá Kiến đã mua chuộc được Chí làm tay sai cho mình. Khi bá Kiến nói Chí Phèo với lí Cường có họ hàng với nhau hắn đã tự đắc, thấy lòng cũng "nguôi nguôi". Hắn đã "phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say, "hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm".

Tưởng chừng con quỷ dữ ấy đã mất hết đi nhân tính nhưng bản chất lương thiện chỉ bị khuất lấp đi và nó chưa hoàn toàn lụi tắt. Sự xuất hiện của thị Nở trong cuộc đời Chí như làn gió thổi vào đống tro tàn đã tắt từ lâu, thị đã khơi dậy bản chất vốn có của hắn. Cuộc gặp gỡ ấy tuy tình cờ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Chí Phèo. Đây là cuộc gặp gỡ kì lạ và có lẽ sẽ không xuất hiện lần thứ hai trong văn học hiện đại. Trong một đêm uống rượu say, hắn gặp thị ngủ quên khi ra sông kín nước rồi họ "ăn nằm" với nhau. Năm ngày sống với thị Nở là năm ngày Chí trở về làm một người lương thiện đúng nghĩa. Thị Nở đã làm hồi sinh, thức tỉnh Chí Phèo, tình yêu và sự quan tâm của thị khiến Chí cảm động. Chí Phèo đã thức tỉnh lương tâm, muốn làm hòa với tất cả mọi người và muốn làm một người hiền lành, lương thiện. Bát cháo hành thị Nở nấu cho Chí ăn giải cảm khiến Chí "thấy mắt mình hình như ươn ướt" bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, là lần đầu tiên hắn "được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà".

Sau khi gặp thị Nở, Chí Phèo rất tỉnh táo và sợ rượu. Trong trạng thái ấy, Chí nghe thấy những thanh âm của cuộc sống thường ngày như tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Rồi hắn "nao nao buồn". Hắn nhớ đến ước mơ "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", "nuôi một con lợn làm vốn liếng", "khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chí thấy mình già, cô độc, thấy mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Lần đầu tiên sau bảy, tám năm ở tù về, Chí được sống với cảm giác của con người. Hắn đã ý thức được thực tại của mình: tuổi già, đói rét, ốm đau và hắn sợ sự cô đơn. Trước lòng tốt và tình thương yêu của thị Nở, Chí tỉnh táo để nhận ra thị có duyên và khi yêu thị cũng biết lườm. Lúc tỉnh táo, trông Chí rất hiền, những tính cách của một con vật đã nhường chỗ cho sự lương thiện lên ngôi. Chí khao khát có một mái ấm với thị Nở. Chí đã bộc lộ niềm ước mong ấy qua câu nói: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ"? và câu nói được coi như một lời cầu hôn, tỏ tình: "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Trong văn chương hiện đại có câu tỏ tình nào chân thật và hay đến thế?

Chí Phèo đã thực sự sám hối. Nam Cao đã khơi dậy lòng đồng cảm nơi bạn đọc, nhà văn khiến chúng ta nhận ra một con quỷ dữ như Chí Phèo cũng có ước mơ về hạnh phúc gia đình. Nhưng ước mơ ấy không thể thực hiện bởi định kiến xã hội đã không chấp nhận và ủng hộ đôi lứa xứng đôi này. Lời nói của bà cô thị Nở đã thể hiện rất rõ ràng điều ấy: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ". Vì những lẽ trên mà thị Nở cự tuyệt tình yêu của Chí Phèo. Đây cũng là lúc Chí không còn nơi bám víu bởi thị đã từ chối hắn, chiếc phao cứu sinh duy nhất của cuộc đời Chí đã không còn nữa. Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu, cự tuyệt quyền làm người. Còn gì đau đớn hơn khi bị chặn đứng con đường hoàn lương? Định kiến xã hội đã đè bẹp, bóp nát khát vọng chân chính của Chí.

Hắn đến nhà bá Kiến để đòi lương thiện vì hắn biết không ai khác ngoài bá Kiến đã đẩy mình rơi vào bi kịch này. Tiếng nói đòi lương thiện của Chí đã để lại bao day dứt: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa". Hắn rút dao, xông vào và giết bá Kiến rồi tự sát. Cái chết của Chí là cái chết đầy tức tưởi: hắn "giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi", mắt trợn ngược, mồm "ngáp ngáp", "ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra", hắn muốn nói nhưng không ra tiếng. Con đường trở về làm người lương thiện phải trả giá bằng cái chết đau đớn. Chí Phèo chết để giải thoát cho sự bế tắc của chính mình, Chí chết để đòi quyền được sống. Cái chết ấy đã lấy đi bao nước mắt, sự xót xa của bạn đọc.

Chi tiết kết thúc tác phẩm là chi tiết thị Nở "nhìn nhanh xuống bụng" và "thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua". Nam Cao thật tài tình khi xây dựng chi tiết này. Phải chăng, ông muốn khái quát rằng nếu xã hội vẫn còn những kẻ thống trị lừa lọc, xảo trá như bá Kiến thì cũng sẽ còn những số phận bi kịch như Chí Phèo. Và biết đâu bên cái lò gạch bỏ hoang ấy lại xuất hiện một Chí Phèo con ra đời. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho những người nông dân bị tha hóa, biến dạng cả về nhân hình và nhân tính ở làng quê Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nhà văn đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bằng nghệ thuật trần thuật tự nhiên, linh hoạt và hệ thống ngôn từ đặc sắc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả đã đạt đến đỉnh cao. Giọng điệu Nam Cao lạnh lùng nhưng luôn chan chứa tinh thần nhân đạo.

Chí Phèo là một sáng tạo độc đáo của Nam Cao, được ông xây dựng là nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ngoài ra, thông qua nhân vật này, nhà văn còn lên tiếng tố cáo hiện thực xã hội vô nhân đạo, cướp đi sự lương thiện của con người và chặn hết mọi con đường hoàn lương của họ. Đồng thời, ông cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc khi lên tiếng đòi quyền sống, quyền lương thiện cho con người.

Bài mẫu số 4: Phân tích nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở

Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người. Ông thường dễ bất bình trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì bị đày đọa vào cảnh nghèo đói cùng đường” (Nguyễn Đăng Mạnh). Với tấm lòng nhân đạo ấy, Nam Cao đã khước từ thứ văn chương lãng mạn đế đến với dòng văn học hiện thực. Đây cũng chính là nơi Nam Cao đã kí thác toàn bộ những tâm tư tình cảm, triết lí nhân sinh của mình về cuộc đời, con người. Hàng loạt các tác phẩm đã ra đời nhằm “minh oan”, “chiêu tuyết” cho những con người bị miệt thị một cách bất công: Chí Phèo, Một bữa no, Lang Rận, Tư cách mõ... Trong đó Chí Phèo là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, viết về đề tài người nông dân nghèo và đánh dấu một bước phát triển đáng kể của văn xuôi Việt Nam. Có thể nói nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm là một điển hình nghệ thuật về người nông dân nghèo từ lương thiện sa vào tha hóa rồi lại rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người nhưng luôn cố vẫy vùng để đến với ánh sáng của thiên lương. Chi tiết để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc đó chính là mối tình giữa Chí Phèo và thị Nở. Mối tình có một không hai trong làng văn Việt Nam khiến ta phải đọc rồi suy ngẫm rất nhiều về tình người trong cõi nhân thế.

Chí Phèo tự lúc nào đã đi vào trang văn Nam Cao và rồi lại từ trang văn Nam Cao bước ra. Nhân vật điển hình đến mức gấp sách lại ta vẫn thấy day dứt về một anh Chí vốn hiền lành lương thiện thế nhưng do sự áp bức ghê gớm cùa bọn chúa đất, thực dân đã khiến anh trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Tưởng chừng Chí Phèo đã bị tha hóa hoàn toàn với một tâm hồn chai đá, những hành động mất lí trí, bị hủy hoại cả về nhân tính lẫn nhân hình, bản chất lương thiện bị che lấp, nhưng trong trái tim anh vẫn len lỏi một thứ ánh sáng nhiệm mầu, đó chính là ánh sáng của lương tri. Nam Cao là thế đó. Ông không bao giờ để nhân vật của mình chìm trong bóng tối mà luôn để nhân vật trượt trên mặt phẳng nghiêng”, luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi cái thế giới của con thú trở về với thế giới con người. Ranh giới ấy rất mong manh và vô cùng khó khăn. Liệu Chí có thê thực hiện được không? Ai sẽ là người giúp anh làm được điều này? Thị Nở? Chính thị Nở là người hé mở cánh cửa để Chí trở về với ánh sáng của lương tri. Đọc đoạn văn này người đọc vô cùng sảng khoái trước nghệ thuật phân tích nội tâm tâm lí nhân vật rất tinh tế của Nam Cao.

Nhưng cái hay của Nam Cao không chỉ là những đoạn văn phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo mà còn là Nam Cao đã xây dựng được một nhân vật hết sức ấn tượng - thị Nở một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại có một sức hút, sức hút của tình người đã kéo Chí về với ánh sáng nhân tâm. Nếu ta vẽ một chân dung thị Nở riêng biệt chắc ta phải hoảng hốt bỏ chạy vì cái “dung nhan” ấy. Nhưng nếu ta vẽ hình ảnh của thị với nồi cháo hành nghi ngút khói trên tay đem đến cho Chí khi hắn đang đói cào ruột bởi “trận thổ đêm qua”, khi hắn đang buồn bã cô đơn nhất, đang “thèm khát người” nhất, đang đau khổ tuyệt vọng nhất… thì hình ảnh ấy rung động người đọc biết bao! Đó là sự rung động của nhân tâm rất tự nhiên, rất vô tư không hề “sợ hãi” như những người dân khác ở làng Vũ Đại mỗi khi gặp Chí và cũng không hề tính toán thiệt hơn. Thị không biết tính toán và cũng chẳng cần tính toán. Cái nghĩa tình có ai tính toán bao giờ. Tình cảm của thị thô mộc, nguyên sơ khiến ta cảm động quá!

Chính Nam Cao cũng không thể kìm lòng trước vẻ đẹp ấy, nên ở trang văn này, ta bắt gặp những đoạn miêu tả khung cảnh thiên nhiên rất đỗi thơ mộng. Đó là những ánh sáng dịu hiền của trăng, trăng in cái bóng dáng xệch xạc, méo mó của Chí Phèo trên đường làng, trăng trên vườn chuối, hình ảnh cả hai ngủ say dưới trăng… Và trong khung cảnh ấy ông đã ghép một đôi tâm sự rất xứng đôi: Chí Phèo - Thị Nở. Đương nhiên hai con người ấy có ngôn ngữ tâm sự riêng của họ, ta không bàn đến mà chỉ biết rằng: từ sau cái đêm trăng thanh gặp thị, Chí Phèo đã nhận thấy một thứ thèm khát (không phải thèm rượu) đang sôi sục lên trong anh đó chính là sự mong muốn làm người. Niềm mong muốn ấy được Nam Cao miêu tả một cách tỉ mỉ, tinh tế những thay đổi rất tinh vi từ trong từng tế bào của Chí.

Điều đầu tiên nhà văn để cho Chí nhận ra thực tại của mình qua hình ảnh cái túp lều. Đó là cái túp lều ngoài bờ sông (thuộc đất lưu không) mà anh đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được ấy. Một cái túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy.

Tiếp đó, nhà văn để cho Chí Phèo cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống: tiếng chim ríu rít, tiếng trò chuyện của những người buôn hàng, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh quen thuộc đó ngày nào chả có, nhưng đã bảy, tám năm trời nay, từ khi ra khỏi tù, lúc nào Chí cũng chìm trong cơn say thì làm sao Chí nghe được. Cuộc đời của anh là những cơn say dài mênh mông, vô tận, “tràn từ cơn say này sang cơn say khác…” đến mức “…Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… Hắn làm tất cả trong lúc người hắn say…”. Thế đấy, đã bao giờ hắn tỉnh để mà nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật chứ. Đây là lần đầu tiên sau một giấc ngủ dài Chí nghe thấy những thanh âm ấy. Những thanh âm của cuộc sống giản dị đã thức kéo thiên lương trong anh, lòng anh bỗng mơ hồ buồn. Chao ôi buồn rồi lại nao nao buồn! Cái buồn đó cứ như một cơn gió lúc thì ồ ạt lúc thì nhẹ nhàng. Bằng bút pháp phân tích nội tâm sâu sắc, tinh tế, Nam Cao đã mô tả quá trình thức tỉnh lương tri của Chí Phèo theo trình tự logic biện chứng.

Nhận ra được thực tại, đón nhận được giọt âm thanh của cuộc đời, nhà văn để cho Chí nhớ về quá khứ “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cái ước mơ chân chính, nhỏ nhoi nhưng sao lại quá khó đốì với Chí. Rồi Chí nhìn về hiện tại và tương lai “Chí Phèo hình như đã trông thấy tuổi già của hắn; đói rét, ốm đau và cô độc, Chí sợ cô độc nhất. Khi đã sợ cô đơn là lúc con người ta cô đơn nhất và khao khát sự sum vầy. Nhưng Chí vốn là con hoang, không gia đình, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Hắn lại là con quỷ dữ trong mắt người dân ở làng Vũ Đại, không ai chấp nhận hắn chứ đừng nói đến chuyện sum vầy.

Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Nhưng thứ thị cho Chí không đơn giản chỉ là bát cháo hành mà còn là một tình yêu thương mộc mạc, là ánh sáng soi rọi vào sâu thẳm tâm hồn Chí làm bừng lên chất người trong anh, làm cho anh khát khao trở về lương thiện, “thèm làm hòa với mọi người”. Nhìn bát cháo hành bốc khói, nhìn nụ cười tình tứ của thị, Chí vừa vui mà vừa buồn, ta thấy được sự ăn năn và hạnh phúc từ trong nụ cười của Chí. Cầm bát cháo húp, mồ hôi đổ ra những giọt to như giọt nước nhưng Chí vẫn cười, vẫn đắm say trong niềm hanh phúc mà bát cháo hành mang lại.

Ôi! Nếu không có bát cháo hành kia liệu ta có thấy được nụ cười của Chí không hay chỉ thấy sự lưu manh hung tàn của một con quỷ dữ? Bát cháo hành là sức mạnh của tình yêu nồng thắm, là biểu tượng của tình người duy nhất ờ làng Vũ Đại. Nếu đặt trong mối tương quan với nhân vật bà Ba vợ bá Kiến - người đàn bà đẹp nhất làng nhưng lại là “con quỷ cái” (bà ta chỉ biết lợi dụng Chí, kêu Chí lên bóp chân, lúc ấy anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì), thì thị Nở rất đẹp. Vẻ đẹp của tình nghĩa nguyên sơ. Quả thật, thị Nở càng xấu lại càng đẹp! Thị Nở càng xấu, tác phẩm lại càng hay! Đó là một thành công tuyệt vời của Nam Cao khi ông đã xây dựng được một hình tượng rất thú vị.

Trước sự chăm sóc của thị, lòng Chí bỗng trở nên trẻ con. Chí làm nũng với Thị như với mẹ vậy. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Đó là lời kể, lời miêu tả nội tâm Nam Cao hay đó chính là tiếng lòng thẳm sâu của Chí? Chỉ có điều là nó bị vùi lấp bảy, tám năm trời nay, hôm nay nó đã trở về. Chính thị Nở đã đánh thức lòng thèm khát lương tri của Chí. Nói cho cùng đây là sự kết duyên của hai tâm hồn đồng điệu. Tuy Thị Nở xấu xí nhưng tâm hồn lại đẹp. Chí Phèo đã bị tha hóa nhưng vẫn còn bản chất lương thiện của người nông dân. Và khi bản chất ấy sống dậy là khi Chí khao khát gia đình ”Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Như thế này mãi nghĩa là Chí muốn có cuộc sống bình yên và hạnh phúc không chỉ riêng bên Thị Nở mà còn bên mọi người. Cái tình yêu của Thị và Chí nói đúng nghĩa hơn là vừa cho vừa nhận”. Đó là cái lòng yêu của một người làm ơn nhưng cũng có lòng yêu của người chịu ơn”. Mối tình của Chí Phèo Thị Nở quả thực là ”đôi lứa xứng đôi”.

Nhưng dụng ý của Nam Cao không dừng lại ở đây. Nếu cứ để Chí và thị sống hạnh phúc bên nhau thì đâu còn là hiện thực phê phán nữa. Mối tình định mệnh của Chí chỉ diễn ra chóng vánh trong năm ngày. Đó là năm ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Chí, là năm ngày Chí được sống trong sự chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Và khi hắn đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời rồi, hắn mới cảm nhận được mùi thơm của cháo hành” trời ơi cháo mới thơm làm sao ”Mùi vị cháo thơm hay đây là vị ngọt của cuộc đời? Hay là tấm lòng săn sóc của Thị Nở? Hình ảnh thị Nở cũng trở nên đẹp đẽ từ việc chăm sóc Chí Phèo bằng bát cháo hành. Hình ảnh ấy gợi cho ta cái không khí đầm ấm của gia đình nông thôn xưa, thế nhưng họ lại vấp phải rào cản lớn nhất đó là bà cô thị Nở: ”Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”. Bà đại diện cho định kiến khắt khe cổ hủ của xã hội phong kiến đã làm đầy tràn ly bi kịch của Chí, đẩy Chí Phèo đến tận cùng của tuyệt vọng, cắt đứt cái cầu nối cuối cùng không cho Chí hòa nhập với cộng đồng. Khi bị cự tuyệt, hắn bỗng nhiên ngẩn người, hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại ”Hắn đuổi theo thị”. Hoàn toàn vô vọng, Chí cố uống rượu để say, để tìm quên đau khổ, nhưng “càng uống lại càng tỉnh”; “hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành, hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Nam Cao đã thật tinh tế, thật sâu sắc khi miêu tả những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Từ tâm trạng ấy, ta thấy những khát khao chân chính của Chí. Nhưng khi lương tri đã trở về lại là lúc bi kịch ập đến. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Nếu ta đánh giá cao tài năng của Nam Cao trong nghệ thuật miêu tả, phân tích nội tâm nhân vật và đặc biệt là nghệ thuật thắt nút - tháo nút - thắt nút trong tác phẩm thì chính đoạn văn miêu tả mối tình Chí - Thị Nở là sự tháo nút của nhà văn nhưng lại là để lần thắt nút cuối cùng giải quyết toàn bộ xung đột bằng hành động quyết liệt của Chí ở cuối tác phẩm. Đó là hành động đi đòi lương thiện của Chí. Trong tận cùng đớn đau tuyệt vọng, trong cơn khát thèm lương thiện, mơ ước gia đình, Chí đã tìm đến nhà bá Kiến (kẻ đã cướp đi đời lương thiện của Chí) không phải để rạch mặt ăn vạ hay xin đi tù để có chỗ trú thân như mọi lần mà là để đòi "lương thiện": “Tao muốn làm người lương thiện”. Thế nhưng, Chí không còn đường nào khác, khi anh nhận ra được một bi kịch: “Không được! Ai cho tao lương thiện, làm thế nào mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không?”.

Chí nói rất dõng dạc câu nói đòi quyền làm người và đó cũng là những tiếng kêu tuyệt vọng của Chí, bởi trong cái xã hội “Chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) ấy, quyền sống chính đáng của con người không được chấp nhận. Vậy nên chỉ có một cách: giết bá Kiến và tự sát. Hành động của Chí Phèo như là một quy luật tất yếu. Nó không đơn giản là hành động trả thù cá nhân mà là hành động trả thù giai cấp. Bị đè nén, bị áp bức nhiều thì họ phải đứng lên chống lại. Nhưng hiện thực lúc bấy giờ, giết bá Kiến rồi Chí Phèo cũng chỉ có một con đường chết. Đó cũng chính là kết cục chung của các tác phẩm hiện thực phê phán: nhân vật hoặc lâm vào ngõ cụt không lối thoát, hoặc là chết. Cái chết của Chí để lại thương tâm cho người đọc. Không ít người lên án, cho rằng Nam Cao quá nhẫn tâm hoặc gắn cái hạn chế cho nhà văn. Nhung không phải thế, yêu thương sâu sắc người nông dân, gắn bó máu thịt với cuộc sống của họ, Nam Cao chắc sẽ rất đau trước cái chết của Chí. Nhưng thời đại ấy, không thể viết khác được. Đó là hạn chế của thời đại chứ không phải của nhà văn.

Tác phẩm khép lại là hình ảnh thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và đâu đó hiện ra một cái lò gạch bỏ hoang (nơi Chí Phèo ra đời). Hình ảnh ấy tạo cho tác phẩm kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng đổng thời cũng gọi ra cái vòng luẩn quẩn tối tăm của người nông dân nghèo. Hiện thực xã hội cũng lại phơi bày, lại một quy luật “tre già măng mọc”: Chí Phèo chết sẽ có một Chí Phèo con ra đời, Bá Kiến chết rồi nhưng còn trăm ngàn bá Kiến khác… Biết khi nào người nông dân mới thoát khỏi bốì cảnh ấy? Đó là trăn trở của nhà văn, là sự day dứt của người đọc. Trang văn Nam Cao bề ngoài lạnh lùng nhưng bên trong chan chứa tấm lòng nhân hậu, nhân đạo, nhân văn cao cả là vậy.

Tóm lại đoạn văn miêu tả tâm trạng, sự đổi thay, những khát khao và cả cái bi kịch dẫn đến thảm kịch của Chí là đoạn văn thành công nhất của Nam Cao. Có thể coi đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí, là đoạn văn thể hiện lòng yêu thương con người và cả lòng tin tưởng vào “thiện căn” ở con người Nam Cao. Cũng từ đó mà tác phẩm thêm sức sống kì diệu, tô đậm hơn giá trị hiện thực và làm ngời sáng giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Đến đây ta có thể mạnh dạn mà đồng tình với một ý kiến của ai đó khi nói “Nếu không viết Chí Phèo, Nam Cao đã để lại cho văn học Việt Nam một khoảng trống lớn”. Đúng vậy qua phân tích Chí Phèo, ta thấy được Nam Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt Nam nói chung một tiếng nói nhân đạo, một nhân vật mang tính điển hình cho người nông dân trước Cách mạng bị tha hóa, lưu manh hóa nhưng luôn dám đấu tranh để chống lại bất công. Nỗ lực không ngừng, cái tâm - cái tài của Nam Cao đã được chi nhận xứng đáng: “Trong văn hóa Việt Nam, với ngòi bút Nam Cao ta bắt đầu thấy thật có sự sống, thật có con người trong truyện ngắn” (Nguyên Hồng).

(Tác giả: Lê Thi Thanh Thảo, THPT Mĩ Quý, Tháp Mười, Đồng Tháp))

Bài mẫu số 5: Phân tích nhân vật Chí Phèo trước khi vào tù

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, trong đó nổi lên diễn biến tâm trạng của Chí Phèo. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn để Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này.

Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bởi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ẩn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tình nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa - hẳn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này.

Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm. Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn.

Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.

Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đến cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện.

Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thể quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.

Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ. Ở đây, với đặc điểm của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng.

Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chế độ hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

Qua phân tích nhân vật Chí Phèo với diễn biến cuộc đời để lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.

Bài mẫu số 6: Phân tích nhân vật Chí Phèo - nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc

Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.

Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.

Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.

Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.

Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.

Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.

Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.

Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.

Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.

Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.

Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở - đại diện cho dân làng Vũ Đại - đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.

Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?

Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.

>>> Tham khảo thêm: Hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo

Bài mẫu số 7: Phân tích nhân vật Chí Phèo mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc

Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảng sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn đề” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”. Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.

Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách. Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền. Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.

Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.

Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí. Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.

Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa. Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.

Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình. Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.

Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài mẫu số 8: Phân tích nhân vật Chí Phèo - bi kịch tha hóa của người nông dân trước cách mạng tháng Tám

Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 - 1954. Dưới ngòi bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của ngời nông dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no… Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.

Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã rất xuất sắc khi xây dựng lên một hình ảnh người nông dân bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.

Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là “liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi. Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.

Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…

Người ta nhìn thấy bây giờ là gì? Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.

Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét, làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say "ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.

Nam Cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được đồng cảm hơn là sự xa lánh. Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những phẫn uất mà xã hội mang đến.

Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ: ”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”.

Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con người khác.

Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.

Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?".

Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà hóa ra lại vô cùng lớn lao.

Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí. Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!!

Giờ thì rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau. Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.

Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.

– Tao muốn làm người lương thiện

– Ai cho tao lương thiện?

Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn thứ khắc nghiệt bủa vậy, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết liễu đời mình là lối thoát duy nhất.

Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc.

Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác, dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.

Tham khảo:

Bài mẫu số 9: Phân tích nhân vật Chí Phèo - bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh

Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng dầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930 - 1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.

Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được. Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.

Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông coi những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân, Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn “thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”.Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu, Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiến răng hăm dọa: “… con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cũng kể từ đấy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu “vàng vàng mà muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện”.

Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có; trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh, liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò u bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không để nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tùy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm. Thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thét lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá... Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần gnhix xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không con sức mà cướp giật, dạo nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!

Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hắn thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hẳn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.

Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: "hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà "sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.

Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.

Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghét vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện!” là câu hỏi chứa chất phẫn uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác.

>>> Soạn bài Chí Phèo phần 2 (Tác phẩm) ngắn gọn nhất

Bài mẫu số 10: Phân tích nhân vật Chí Phèo đại diện cho tầng lớp nhân dân bị lưu manh hóa

Giữa những bộn bề phồn tạp của buổi chợ văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng hiện thực, phê phán, Nam Cao được nhận ra là một chủ cửa hàng khá đặc biệt, với tấm lòng nhân đạo sâu sắc về sự quan tâm đặc biệt dành cho những người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã đưa người đọc đi sâu khám phá những đau đớn, khổ cực mà những con người cùng hơn cả dân cùng phải chịu đựng, phát hiện những vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của họ. Tiêu biểu cho cuộc hành trình đó là tác phẩm Chí Phèo, đặc biệt qua nhân vật Chí Phèo ta sẽ thấy rõ được điều đó.

Quả thật không sai khi nói rằng, sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả kết quả từ đời sống, nếu sáng tác văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện tại. Đồng thời tìm cho mình một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà văn cùng thời.

Đọc Chí Phèo của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó, tác phẩm được in thành sách lần đầu năm 1941, sau đó được in lại trong tập “Luống cày” năm 1946. Lúc đầu tác phẩm có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau đó Nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, đến năm 1946 Nam Cao đã đổi lại tên thành “Chí Phèo”.

“Chí Phèo” xoay quanh bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng 8, khác với Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Nam Cao không đi sâu vào bi kịch về mặt vật chất mà các nhân vật phải chịu đựng, ngược lại nhà văn đi sâu, khai thác bi kịch tinh thần đầy đau đớn của Chí Phèo. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, sinh ra là một con người nhưng không được mọi người công nhận.

Chí Phèo được xem là nhân vật điển hình trong tác phẩm, người đại diện cho tầng lớp nhân dân bần cùng hóa, lưu manh hóa trước cách mạng tháng Tám.

Cả cuộc đời của Chí Phèo là một con số 0 tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi sinh ra, cha mẹ đã không nhìn nhận hắn, cuốn hắn vào chiếc váy đụp rách, bỏ hắn ở cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại, may mắn thay một anh đi thả ống lươn nhìn thấy hắn, từ đó Chí lớn lên nhờ bát cơm của bác Phó cối và sự cưu mang của cả dân làng Vũ Đại. Năm 18 tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà lý Kiến.
Khi làm canh điền cho nhà lý Kiến, Chí vốn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, hắn cũng đã từng mơ về một gia đình nhỏ bé, hạnh phúc, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải nuôi tằm, rồi chúng bỏ một con lợn làm vốn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Cuộc đời vốn không công bằng, thân phận nô lệ đâu để cho Chí Phèo được yên, bởi thói dâm dục của bà ba nhà lý Kiến, cùng tính ghen tuông của ông ta mà Chí Phèo bị đẩy vào tù, để rồi 7, 8 năm sau ra tù Chí Phèo đã thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính.

Trở về làng Vũ Đại sau một thời gian dài không ai nhận ra Chí, cái đầu thì trọc lốc, răng cạo trắng hơn, cái mặt đen, lại rất cong cơng. Hắn mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, trên người đầy những nét chạm trổ, rồng phượng, lại có cả hình một ông tướng cầm chùy trông rất gớm chết. Không chỉ thay đổi ngoại hình, mà Chí còn thay đổi cả nhân tính. Mới về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều, khi đã say hắn tìm đến nhà Bá Kiến gây sự, rạch mặt ăn vạ. Và cũng chỉ vì cơn say ấy, Chí Phèo đã bị Bá Kiến lợi dụng biến Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực của mình.

Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu câu chuyện Nam Cao bắt đầu bằng tiếng chửi của Chí Phèo, bao giờ cũng vậy say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cả dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai đáp lại tiếng chửi của hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự giao hòa, giao cảm, sự khát khao được sống với mọi người. Nhưng đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là tiếng của ba con cho giữ, điều đó chẳng khác nào Chí Phèo đã bị đánh tụt từ hàng con người xuống hàng con vật.

Đọc tác phẩm ta tưởng rằng cuộc đời của Chí Phèo sẽ trượt dài trên con dốc của sự tha hóa và biến chất, nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình Nam Cao không hề hắt hủi nhân vật của mình. Ngược lại ngòi bút của ông dành cho nhân vật nồng nàn yêu thương, ông đã tìm ra lối thoát cho Chí Phèo, khơi gợi khát khao được làm người nơi Chí bằng cách cho Chí gặp Thị Nở. Ban đầu chí đến với Thị chỉ bằng bản tính thú vật của một gã say rượu, nhưng nào ngờ Thị Nở chính là nguồn ánh sáng duy nhất soi sáng cho trái tim của Chí Phèo. Sau đêm ăn nằm với Thị Nở, lần đầu tiên sau những cơn say Chí hoàn toàn tỉnh táo, hắn cảm giác nắng đã lên cao, nghe thấy tiếng chim hót ríu rít, tiếng của những người đi chợ về, những âm thanh này hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy những âm thanh quen thuộc này, đã chắp cánh cho ước mơ về một gia đình nhỏ trước kia của Chí Phèo quay về. Đọc đến đây ta bỗng nhớ đến tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài. Chính tiếng sáo ấy đã thôi thúc Mị khao khát sống mãnh liệt, giúp mị quên đi thực tại, đau đớn. Bỗng Chí Phèo như thấy trước tuổi già ốm đau và bệnh tật, rồi Chí Phèo bỗng cảm thấy sợ cô đơn…

May mà Thị Nở bước vào, không Chí Phèo không nên được mất. Thị Nở bước vào trong tay cắp một cái rổ, trong rổ là nồi cháo hành nóng hổi, thị múc ra bát đưa cho Chí Phèo, lúc này Chí Phèo cảm thấy yêu Thị Nở, cầm bát cháo hành trong tay Chí Phèo ăn một cách ngon lành, bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho mà không cần cướp giật. Đã có ý kiến nhận xét rằng, Thị Nở chính là vị thiên sứ mà Nam Cao phái đến bên cạnh Chí Phèo. Thiên sứ ấy không có đôi cánh, nhưng có đôi bàn tay ấm áp như ngọn gió, ngọn lửa, thổi bay lớp tro tàn, thiêu đốt lớp vỏ quỷ dữ bên trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành là chi tiết đặc biệt trong tác phẩm, nó như một liều thuốc giải độc, gột rửa lớp men rượu đưa Chí Phèo trở về làm người, với mong muốn trở về làm người lương thiện Chí Phèo tưởng rằng Thị Nở sẽ là cây cầu đưa Chí Phèo đến gần hơn với mọi người. Nhưng Chí Phèo đâu biết rằng Thị Nở và tình yêu của Thị Nở chỉ như cây cầu vồng lung linh bảy sắc, xuất hiện và biến mất sau cơn mưa. Chí Phèo chưa bước chân lên cầu thì cây cầu đã rút ván, bởi xã hội lúc bấy giờ còn quá nhiều định kiến, nên việc Chí Phèo muốn trở về làm người lương thiện còn quá nhiều khó khăn. Những lời Thị Nở trút lên đầu Chí Phèo đã cho thấy định kiến nặng nề như thế nào? Quá đau khổ Chí Phèo lại tìm đến rượu, nhưng lúc này càng uống càng tỉnh, mùi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Quá căm phẫn uất, Chí Phèo cầm dao đi trả thù. Miệng thì nói đâm chết con đĩ Nở, con khọm già, nhưng đôi chân lại đưa Chí đến nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí Phèo hiểu rằng Bá Kiến chính là người đã đẩy Chí Phèo đến ngày hôm nay, xóa tên Chí Phèo khỏi cuốn sổ của những con người lương thiện. Có lẽ trong cuộc đời tối tăm của Chí Phèo hành động vung dao kết liễu tên cáo già Bá Kiến là những giây phút rực rỡ nhất. Dù Chí Phèo đã chết nhưng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết mảnh trai trên khuôn mặt này”, vẫn còn để lại những nhức nhối trong lòng người đọc.

Với cách xây dựng nhân vật điển hình, độc đáo, ngôn ngữ sắc sảo, góc cạnh mang tính khẩu ngữ Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Chí Phèo, với bi kịch tinh thần đầy đau đớn, khắc khoải. Hình tượng nhân vật Chí Phèo đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều niềm xúc động và sự cảm thông sâu sắc, đối với một kiếp người cùng hơn cả dân cùng trước cách mạng tháng tám. Cùng với hình tượng chị Dậu, Anh Kha, Lão Hạc, nhân vật Chí Phèo đã khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống chính đáng cho con người. Cho đến ngày hôm nay những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu thương, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có, đồng thời phải biết cống hiến để cuộc sống tốt đẹp hơn lên.

>> Xem thêm những đề văn hay về tác phẩm Chí Phèo

Phân tích nhân vật Chí Phèo bài mẫu số 11

Trong “Trăng sáng” Nam Cao đã viết: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Ông tự thoát ly với thứ văn chương lãng mạn thi vị hóa cuộc sống, ông chọn cho mình con đường đến với đời sống lầm than của người dân lao động. Là người cầm bút, ông không được trốn tránh hiện thực mà phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng đau khổ của quần chúng. “Chí Phèo” đã ra đời với mục đích ấy. Tác phẩm ra đời năm 1941, ban đầu có tên “Cái lò gạch cũ”, sau đó nhà xuất bản đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi” và đến cuối cùng khi in trong tập “Luống cày”, tác giả đã đổi tên là “Chí Phèo”. Và hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm của ông đã tạo nên một tiếng vang lớn và đi sâu vào lòng người đọc, Chí Phèo như trở thành nhân vật đại diện cho những người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội thời ấy với cả cuộc sống trải dài trên một tấn bi kịch.

Không gian làng Vũ Đại đóng kín, chật hẹp với những luật lệ, hủ tục đã vùi dập và tước đoạt đi quyền làm người của một con người mang tên Chí Phèo. Đứa con làng Vũ Đại đã xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà lại bằng tiếng chửi, hắn “Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa nào đã sinh ra hắn”. Tiếng chửi như hé lộ một cuộc đời đau thương của một con người nhận biết được bi kịch của chính mình nhưng lại đầy bất lực, Chí Phèo như đang cố vùng vẫy để thoát ra nhưng vô vọng. Với Chí, nó là con đường giao tiếp duy nhất của hắn với cộng đồng nhưng cay đắng thay, khi đáp lại những uất ức, bất mãn của hắn lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Tiếng chửi - tiếng kêu tuyệt vọng của một con người cô đơn, khát khao được giao tiếp dẫu là cách hạ đẳng nhất nhưng người dân Vũ Đại đã quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi… Chí Phèo sống một cuộc sống bị gạt bỏ ra khỏi thế giới loài người và cuộc đời đắng cay đau khổ ấy sẽ còn đi đến đâu, sẽ như thế nào đi nữa vẫn còn là một ẩn số và Nam Cao sẽ chính là người đưa ta chiếc chìa khóa giải mã nó.

Cuộc đời Chí Phèo trải dài trên một tấn bi kịch, bi kịch là một đứa con hoang bị bỏ rơi, bi kịch tha hóa, lưu manh. Cuộc đời, ai chẳng khao khát một tuổi thơ êm đềm trong vòng tay cha mẹ cơ chứ, thế nhưng thượng đế lại ban cho Chí Phèo một cuộc đời đầy nghiệt ngã, thượng đế đã tạo ra một con người không nguồn gốc, không nơi nương tựa, không tương lai. Hắn được cưu mang bởi những con người nghèo khổ, được người này đến người khác truyền tay nuôi nấng mà lớn lên. Rồi đến năm 20 tuổi, hắn đi làm canh điền cho Bá Kiến, là một con người giàu lòng tự trọng, biết ghét những con người đáng khinh nên khi bị bà Ba bắt phải bóp chân cho mình, hắn cảm thấy nhục, vừa làm lại vừa run, làm một việc đáng khinh chẳng biết làm sao tránh được, hắn đành chấp nhận làm trong sự cưỡng ép. Tuy vậy, đây chính là khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong cuộc đời Chí, bởi đó là quãng đời hắn dám ước mơ, dám suy nghĩ về tương lai sẽ tươi đẹp, như bao người, hắn có những ước mơ đầy giản dị, yên bình “hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng thật đau đớn khi cái xã hội bất nhân ấy đã bóp chết ước mơ đó của Chí khi vừa chớm nở. Một cơn ghen của lão Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo đi vào nhà tù thực dân, tại nơi đây đã biến một con người hiền lành, chất phát thành một tên lưu manh, tội đồ.

Bảy, tám năm sau, Chí ra tù với một nhân dạng chẳng ai ngờ tới và cũng chẳng ai nhận ra. Anh canh điền ngày nào giờ đã biến mất, thay vào đó, hiện ra trước mắt người đọc một tên lưu manh gớm ghiếc, cái đầu trọc lóc, cái răng thì cạo trắng hớn, cái mặt thì lại đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết, ngực và tay đầy những nét chạm trổ. Thật sự rất đáng sợ dù chỉ mới tưởng tượng qua. Và đến cả nhân tính đẹp đẽ ngày nào, giờ đây cũng bị xã hội giết chết, hắn giờ trở thành một kẻ chìm ngập trong cơn say rượu triền miên, hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến - kẻ đã từng là nguyên nhân chính khiến hắn trở nên như bây giờ, mọi thứ ở Chí Phèo đã bị xã hội phong kiến ép đến mức phải quay lưng lại với làng Vũ Đại, nó hoàn toàn đối lập với nhân dân lao động cần cù, chịu khó lúc bấy giờ. Từ một người nông dân hiền lành ngày nào, giờ đây ai có thể nhận ra đây là Chí Phèo năm ấy cơ chứ, Chí bây giờ chẳng sống bằng tình thương trong vòng tay của người dân nghèo khó làng Vũ Đại nữa, hắn bắt đầu cuộc sống bằng rượu, bằng máu và nước mắt của những con người lương thiện. Chưa bao giờ hắn thật sự tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao xót thương cho nhận vật do chính mình tạo ra và cũng như đang xót thương cho những kiếp người lúc bấy giờ, bị chính cái xã hội mình đang sống tha hóa dần bản tính lương thiện vốn có.

Nhịp điệu thời gian trong Chí Phèo là sự gối đầu chồng chéo các sự kiện, tạo nên một nhịp điệu gấp khúc đầy đau đớn, xót xa. Chí đã bị đẩy vào tù, khi ra tù thì trở thành tay sai cho Bá Kiến. Và giờ may mắn thay, Chí gặp Thị Nở - kim chỉ nam đưa Chí trở về cuộc đời là con người của mình. Vậy, mối duyên nơi bụi chuối sau một đêm sau này có thật sự sẽ là hồi kết cho tấn bi kịch đời Chí?

Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra bên ngoài căn lều, âm thanh cuộc sống tràn đầy. Nam Cao đã dành ra một khoảng lặng để Chí cảm nhận về cuộc sống tươi đẹp mà trước kia hắn không hề nhận ra “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Chí muốn sống một cuộc sống lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn được bàn tay của một người phụ nữ chăm sóc, nấu cháo cho hắn ăn. Hắn cho rằng chỉ có Thị Nở mới có thể mở đường cho hắn trở về với cuộc sống lương thiện trước đây. Nam Cao đã không trách giận nhân vật của mình, ông nhận ra được chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mạnh mẽ, tha thiết. Chí sống những ngày tiếp theo cùng Thị Nở, một sự lương thiện đến lạ. Bản tính con người ngày nào bị khuất lấp sau những ngày rạch mặt ăn vạ, đập đầu, chém giết chửi bởi bây giờ bỗng sống lại “Hắn không kinh rượu nhưng cố uống cho thật ít. Để cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tần tảo yêu nhau”. Chí tỏ tình một cách trân trọng nhất, tình tứ nhất như bao gã đàn ông “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”, Chí dùng hết sự chân thành của mình để bày tỏ với Thị “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ? ” lời bày tỏ hiền lành, ngờ nghệch, hồn nhiên của một người biết yêu nhưng cũng đầy tội nghiệp, hắn cảm nhận được sợi dây hạnh phúc rất mong manh, con người khốn khổ ấy trong phút làm người ít ỏi vẫn dự cảm được những điều bất hạnh phía trước.

Và đỉnh điểm của bi kịch chính là lúc này đi, hắn cự tuyệt quyền làm người của chính mình. Một hạnh phúc nhỏ bé, chớm nở này đây đã bị chính cái xã hội vô nhân tính lúc bấy giờ giết chết. Sự ngăn cản của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt vào ngọn lửa đang cố sáng lên trong cuộc đời của Chí, Thị Nở cũng phải đành từ chối Chí Phèo. Tất cả đã làm thiêu trụi những ước mơ, niềm vui và hạnh phúc vừa lóe lên trong lòng Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng không lối thoát. Rồi Chí lại tìm đến rượu, hắn cầm dao đi trả thù cho những nỗi uất hận trong lòng hắn, hắn dự định rẽ vào nhà Thị Nở nhưng thứ gì đó đã khiến hắn phải rẽ vào nhà lão Bá Kiến. Nam Cao đã từng bình luận “Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Đó có lẽ chính là nguyên nhân khiến Chí rẽ sang hướng nhà Bá Kiến, Chí chỉ thẳng vào mặt Bá Kiến, hắn đòi cho mình quyền làm người nhưng chính Chí cũng biết rằng đó rất vô vọng “Ai cho tao lương thiện… Tao không thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến sau đó để trả thù cho tất cả bi kịch đời mình. Giết Bá Kiến, Chí không thể tiếp tục tồn tại trong một cộng đồng tuyệt đối không ai dám thừa nhận hắn. Chí đành chọn cách kết liễu đời mình. Nếu trước đây, để tồn tại thì hắn đã phải bán bộ mặt và linh hồn cho quỷ dữ, thì giờ đây khi linh hồn trở về, Chí đã phải đổi lấy cả sự sống của mình.

Cái chết của Chí Phèo là một cái chết bi thảm của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát, Chí chết khi đang trở về trên ngưỡng cửa lương thiện. Đó như bản án tố cáo chế độ xã hội thực dân một cách gay gắt mà Nam Cao muốn truyền đạt.

Nam Cao đã khiến cho người đọc phải ám ảnh bằng chính nhân vật của mình. Là đứa con của quỷ dữ nhưng họ cũng đã từng là một con người, họ cũng biết yêu, biết buồn, biết hờn, biết ghen tuông. Nam Cao đã soạn thảo rất thành công một bản án về tội ác của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến đã đàn áp, bóc lột nhân dân đến mức nào. Bên cạnh đó, ông cũng đã kịp thời trân trọng và phát hiện vẻ đẹp trong chính nhân vật của mình – Chí Phèo, để đến cuối cùng, sau một vòng tròn, ông đã cho họ một kiếp người mới, chắc chắn sẽ tốt hơn, hạnh phúc hơn, xứng đáng với bản tính tốt đẹp của mình.

IV. Kiến thức mở rộng cho nội dung phân tích nhân vật Chí Phèo

1. Chủ đề chính của Chí Phèo

Phê phán xã hội phong kiến ngày xưa. Trong truyện, có những sự xuất hiện của con người và nhân vật. Hơn nữa, nhà văn Nam Cao đã đề cao và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của Chí Phèo – Thị Nở. Câu chuyện này đã nói lên sự xung đột vô cùng quyết liệt của các tầng lớp khác nhau trong xã hội phong kiến.

2. Mô típ của truyện Chí Phèo

  • Mở đầu: là cái Lò Gạch

"Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem về cho một người đàn bà góa mù."

  • Kết thúc: cũng là cái Lò Gạch

"Ðột nhiên Thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua... "

Chi tiết kết thúc tác phẩm đầy ngụ ý, biết đâu lại chẳng có một "Chí Phèo con" bước từ cái lò gạch cũ vào đời để "nối nghiệp cha". Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là vạch ra được cái quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối tăm của nông thôn Việt Nam thời đó. Đây là mô típ rất độc đáo của tác phẩm và nó cũng thể hiện sức sống mạnh mẽ về thời gian của tác phẩm.

3. Các nhân vật trong Chí Phèo

- Nhân vật Chí Phèo - nhân vật trung tâm trong tác phẩm.

- Nhân vật Thị Nở - nhân vật quan trọng chỉ sau Chí Phèo, điểm nhấn trong tác phẩm.

- Nhân vật Bá Kiến - tiêu biểu cho giai cấp thống trị, với bộ mặt tàn ác, xấu xa.

- Nhân vật bà cô Thị Nở - nhân vật mang tính điển hình rõ nét đại diện cho định kiến xã hội nghiệt ngã lúc bấy giờ.

4. Nhận định về nhân vật Chí Phèo

- Xuất hiện với tiếng chửi độc đáo

- Chí Phèo đã bị tha hóa từ một người nông dân lương thiện thành tên lưu manh dưới chế độ phong kiến và thực dân tàn bạo.

- Bát cháo hành chính là biểu tượng tình yêu đánh thức bản tính hiền lành của Chí.

- Chí Phèo có chăng cũng chỉ là nạn nhân của thời cuộc, của những tội ác mục ruỗng thối nát chất chồng hết lớp này đến lớp khác.

   Trên đây là tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật Chí Phèo bao gồm những gợi ý cách làm chi tiết và những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh trên toàn quốc. Với những thông tin hữu ích trên, các em hoàn toàn có thể tự viết được một bài phân tích hoàn chỉnh theo ý hiểu và văn phong của mình, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cơ bản của bài phân tích.

Đừng quên tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 11 được cập nhật đầy đủ và chi tiết tại doctailieu.com. Chúc các em làm bài tốt và đạt kết quả cao!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM