Trang chủ

Phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh

Xuất bản: 16/01/2024 - Tác giả:

TOP 5+ bài văn phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh (trích Hoàng Lê nhất thống chí) của Ngô gia văn phái

Hướng dẫn lập dàn ý và gợi ý TOP 5+ bài văn phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh của Ngô gia văn phái do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp. Hi vọng bài viết sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để có thể tự viết được một bài văn phân tích hay.

Dàn ý phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Ngô gia văn phái và tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.

+ Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

+ Hoàng Lê nhất thống chí: tác phẩm gồm 17 hồi, được viết bằng chữ Hán, tái hiện giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.

- Khái quát nội dung đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh: Đoạn trích thuộc hồi thứ 14 kể chuyện vua Quang Trung mang quân ra Bắc đánh tan quân Thanh và chuyện Lê Chiêu Thống cùng Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy sang Trung Quốc.

2. Thân bài

a) Hình tượng vua Quang Trung

- Là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán
- Là một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong việc nhận định tình hình địch và ta, xét đoán bê bối
- Là người có tầm nhìn xa trông rộng
- Là vị tướng có tài thao lược hơn người
- Vị vua lẫm liệt trong chiến trận

b) Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh

- Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, tự mãn, bất tài, chủ quan, kéo quân vào Thăng Long mà không đề phòng gì
- Khi quân Tây Sơn đánh vào, “tướng sợ mất mật”, "ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp... chuồn trước qua cầu phao”
- Quân sĩ xâm lược lúc lâm trận thì sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết...

c) Số phận thảm bại của vua Lê Chiêu Thống

- Vì lợi ích của dòng họ, vị thế nhà Lê mà trở thành những kẻ phản động, cõng rắn cắn gà nhà, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc;
- Đớn hèn, nhục nhã trước quân Thanh;
- Tháo chạy thục mạng, cướp cả thuyền của dân mà qua sông, khi đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị thì “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”, rồi chấp nhận phận vong quốc, sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh.

d) Giá trị nội dung, nghệ thuật

- Về nội dung: Đoạn trích giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong chiến công đại phá quân Thanh, sự thảm bại của bọn xâm lược và số phận bi thảm của lũ vua quan phản nước hại dân.
- Về nghệ thuật: đoạn trích thành công bởi lối văn trần thuật kết hợp với miêu tả chân thực, sinh động.

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

- Cảm nghĩ của em về tác phẩm.

Xem thêm nội dung soạn bài Quang Trung đại phá quân Thanh để có thêm những dẫn chứng chi tiết hơn.

TOP 5+ bài văn phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh

Phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh mẫu số 1

Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), làm quan dưới triều Lê Chiêu Thống và triều Nguyễn. Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tiêu biểu của các ông được viết bằng chữ Hán, ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh nằm trong hồi thứ 14 của tác phẩm, kể về chuyện vua Quang Trung mang quân ra Bắc đánh tan quân Thanh và chuyện Lê Chiêu Thống cùng Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy sang Trung Quốc.

Quang Trung - Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc - tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.

Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", "đốc suất đại binh'' ra Bắc, gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.

Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể "để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người". Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ "mềm lòng" dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.

Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.

Phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh mẫu số 2

Hoàng lê nhất thống chí” được coi là bộ tiểu thuyết lịch sử vĩ đại nhất của gia tộc họ Ngô. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, là một sáng tác có quy mô lớn và đã gây được tiếng vang tới độc giả, gặt hái nhiều thành công về mặt nội dung phản ánh và cả nghệ thuật biểu đạt. Trong đó, “Quang Trung đại phá quân Thanh” là đoạn trích tiêu biểu tái hiện lại sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc ta: cuộc tiến quân ra Thăng Long được diễn ra một cách nhanh chóng dưới sự chỉ huy của người anh hùng Quang Trung, khiến cho địch không kịp trở tay và nhận về thất bại thảm hại.

Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở mảnh đất Tây Sơn, ông là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Với tài năng và phẩm chất tốt đẹp của mình, người anh hùng áo vải ấy đã lãnh đạo quân ta đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, làm nên chiến thắng oanh liệt, làm cho kẻ thù và bọn bán nước cầu vinh nhục nhã ê chề.

Nhắc tới vua Quang Trung, đầu tiên phải kể đến một con người với tính cách cương quyết, mạnh mẽ trong mỗi lần hành động. Khi nhận được tin báo giặc đã kéo đến thành Thăng Long, ông đã rất phẫn nỗ với hành động to gan đó của giặc, ngay lập tức cho họp các tướng sĩ, định dẫn quân đi chiến đấu ngay. Nhưng may thay có các tướng sĩ khuyên can nên ông đã lấy lại bình tĩnh để họp bàn kế sách chiến đấu. Và chỉ trong vòng một tháng, người anh hùng Nguyễn Huệ đã làm nên bao việc trọng đại: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", "đốc suất đại binh'' ra ngoài Bắc để gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", mở các cuộc tuyển mộ quân lính, chiêu mộ nhân tài, tổ chức các cuộc duyệt binh lớn, phủ dụ tướng sĩ, định các kế hoạch hành quân, đánh giặc và lên chiến lược để đối phó với nhà Thanh sau khi giành được chiến thắng. Qua đó có thể thấy Quang Trung là một con người hành động và làm việc liên tục không ngừng nghỉ, có tính cách xông xáo, biết nắm bắt thời cơ, mọi quyết định đều được đưa ra nhanh gọn và dứt khoát, xứng đáng là một vị chủ tướng lãnh đạo hàng vạn quân.

Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ còn nổi tiếng là người thông minh, có trí tuệ sáng suốt, mưu cao trí lược, có kiến thức, khả năng phán đoán tốt, nhạy bén trước thời cuộc. Nhờ biết nhìn xa trông rộng mà ông đã định hình và phân tích một cách rõ ràng về tình thế và về thời cuộc để khi lên ngôi vua có thể "để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người". Trước khi đưa ra các quyết định, ông sẽ đều cân nhắc sao cho phù hợp để yên bề tình hình, hợp tình, hợp lí nhằm tiến tới mục đích cuối cùng một cách thuận lợi. Ông phân tích chi tiết, cặn kẽ về tình hình quân địch, sau nhận định được thế và lực của hai bên, ông rút ra kết luận và phán đoán, lên kế hoạch cho từng bước đi của quân ta. Trong bài hịch của mình, ông đã đưa những tội trạng, việc ác mà bọn giặc đã gây ra cho nhân dân ta. Chúng đã thực hiện hành động xâm lăng phi nghĩa, phá hủy nhiều nếp nhà, đàn áp nhân dân “bụng dạ ắt khác… cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải”. Nhờ đó đã giúp cho quân dân ta được động viên, cổ vũ, khích lệ tinh thần chiến đấu. Đối với những kẻ dễ thay lòng đổi dạ, không trung thành, ông thường dùng lời lẽ mềm mỏng, lạt mềm buộc chặt để thuyết phục mà vẫn giữ vững cái uy.

Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng cùng tầm nhìn xa trông rộng là một yếu tố rất quan trọng. Ông đã kiên quyết mà khẳng định chắc chắn rằng sẽ lấy lại kinh thành Thăng Long trong vòng mười ngày. Và đúng như lời nói của mình, ông đã tạo nên một chiến thắng thật oanh liệt, vang dội trong suốt những năm tháng kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta.

Phân tích Quang Trung đại phá quân Thanh mẫu số 3

Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm tác giả Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.

Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”' nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:" Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...". Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc" thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.

Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn. Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.

Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:" Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?... Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.

Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc...". Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình "Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn", "bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng".

Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh". Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt". Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ' để "dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả". Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.

Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần" mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.

Phân tích Quang Trung đại phá quân Thanh mẫu số 4

Trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái - một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô, đoạn trích “Quang Trung đại phá quân Thanh” thuộc hồi thứ 14. Đoạn trích đã thành công tái hiện lại cuộc tiến quân thần tốc ra Thăng Long và tinh thần chiến đấu vĩ đại của dân tộc nhờ sự chỉ huy tài ba của vua Quang Trung. Bên cạnh đó, đoạn trích còn thể hiện thất bại bi thảm của quân Thanh và vua Lê Chiêu Thống.

Đoạn trích mở đầu nhắc lại thời thế đất nước lúc bấy giờ, lúc này Ngô Văn Sở sau khi cùng đại quân rút lui, liền phái Nguyễn Văn Tuyết chạy trạm để cấp báo nhưng lại không thống nhất được giữa hai miền nên đến khi Sở lui về Tam Điệp, Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc Bình Vương thấy vậy giận lắm, họp bàn các tướng sĩ để chấn chỉnh nhưng sau khi nghe họ giải trình, Bắc Bình Vương mới xuôi chuyện. Ta có thể thấy Quang Trung - Nguyễn Huệ là một con người có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán trong mọi hoàn cảnh. Ông luôn giành thế chủ động, giải quyết vấn đề nhanh gọn. Khi nhận được tin giặc chiếm Thăng Long, ông “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Các tướng sĩ đã phải can ngăn, khuyên giải giúp ông bình tĩnh lại. Sau khi bàn bạc bày binh bố trận chu toàn, đến ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), ông mở lễ tế trời đất, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung để “chính vị hiệu”, “yên kẻ phản trắc”, “giữ lấy lòng người”.

Vừa cầm quân chiến đấu, vừa chiêu mộ thêm binh sĩ. Với chính sách nhất quán lấy dân làm gốc, ông được lòng nhân dân và được sùng bái hết mực. Khi nhận được tin đất Hà Tĩnh có vị cao nhân Nguyễn Thiếp, ông không quản ngại năm lần bảy lượt thỉnh cầu sự giúp đỡ của Nguyễn Thiếp. Đồng thời, để chuẩn bị cho trận chiến với quân Bắc Hà, ông cho tổng duyệt binh lực, củng cố đội ngũ, đề cao tinh thần nghĩa khí, quyết tâm chống giặc. Quang Trung - Nguyễn Huệ thật biết cách trọng dụng nhân tài, mạnh mẽ, quả quyết và tin tưởng vào sức mạnh của đội binh sĩ.

Trong lời dụ quân lính của vua Quang Trung, ngài đã phân tích sáng suốt thời thế trận địa của ta và địch. Ngài đã khẳng định đanh thép chủ quyền của dân tộc: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng”. Xong, ngài cũng lên án gay gắt tội ác tày trời của quân Thanh và dã tâm thâm độc của chúng: “chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải”. Nhận thấy tình hình cấp bách đó, ngài đốc thúc, khởi xướng tinh thần tự hào dân tộc, kêu gọi binh sĩ đồng lòng đồng sức quyết thắng kẻ thù. Lời phủ dụ tuy ngắn gọn nhưng cũng đủ để tác động và kích thích lòng yêu nước, ý chí bất khuất, quật cường của dân tộc, lại càng chứng tỏ rằng Quang Trung là một người có trí tuệ kiệt xuất, nhạy bén trước thời cuộc. Không những thế, ngài còn rất quyết đoán và khôn khéo trong việc dùng người. Khi đoàn quân đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón cùng với thanh gươm trên lưng xin chịu tội vì đã không dẹp được quân địch hung bạo. Quang Trung giận lắm bởi tướng soái mà không đánh nổi một trận địch, nhưng ông thấu hiểu được năng lực của bề dưới, khen chê đúng người đúng việc, ông còn không quên khích lệ lại tinh thần của tướng sĩ: “Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?”.

Một chút thất bại chẳng hề hấn gì với bậc anh hùng giáng thế, dù mới khởi binh nhưng Quang Trung đã khẳng định chắc nịch “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, “Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh”. Phải chăng với con mắt nhìn đời, nhìn người tài giỏi, tâm thế phi phàm đã làm nên một con người dũng tướng, hiếm có trong lịch sử nhân loại. Mới được bước đầu chặng đường nhưng ông đã tính đến chính sách ngoại giao sau cuộc chiến: nước Thanh vốn là “nước lớn gấp mười lần nước mình” ắt hẳn sau khi bị thua trận sẽ “làm thẹn mà lo mưu báo thù”, nhân lúc đó có thời gian “yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”. Ông quả thật có trí tuệ song toàn, biết lo cho nước cho dân.

Trong cuộc hành quân từ Thanh Hóa ra đến Bắc Hà của nghĩa quân Tây Sơn thần tốc do chính Quang Trung chỉ huy. Tuy quân tư trang nặng nề, vừa phải hành quân vừa chiến đấu nhưng Quang Trung vẫn nhất quyết điều động binh sĩ nhanh gọn trong bảy ngày. Quang Trung quả là người có tài dùng binh, là vị tướng hiếm có trong ngàn năm văn hiến của dân tộc. Chính những vị tướng quân như vậy mới làm nên đội bình hùng hậu, vững mạnh. Đội quân của ngài với đội hình đội ngũ nghiêm chỉnh, hành binh theo sát kế hoạch. Kết hợp với phương pháp bày binh bố trận tài tình, hợp lí, đội quân càng tiến công, quân giặc càng trở tay không kịp, chẳng mấy chốc quân địch đã bị bao vây. Trong quá trình chiến đấu, vua Quang Trung dẫn đầu binh sĩ không phải chỉ trên danh nghĩa mà là tư cách một tổng chỉ huy thực thụ. Ông đích thân cầm tay chỉ dạy, bày binh bố trận, trực tiếp chinh chiến cùng quân lính. Vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc từng đoàn binh sĩ, đến sáng ngày mùng 5 đã tiến sát đồn Ngọc Hồi. Người lãnh đạo tài ba đó đã cùng những chiến binh sắt của mình khiến cho kẻ địch khiếp hồn, bỏ chạy toán loạn, khiến cho tên tướng cầm đầu quân Thanh là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết, quân ta giành được thắng lợi. Giữa khung cảnh hỗn loạn, khói lửa tỏa mù trời như vậy, vua Quang Trung vẫn cưỡi voi xông vào mặt trận, “nhất tề xông tới mà đánh”.

Nét tài ba của vị vua Quang Trung còn được thể hiện ở cách ông xử lý triệt để quân địch. Đề phòng quân địch tháo chạy, Quang Trung sai một toán quân kéo từ đê Yên Duyên lên mở cờ gióng trống làm cho quân Thanh khi chạy về phải khiếp sợ. Cách bày binh bố trận không hổ danh là bậc hào kiệt anh hùng của dân tộc, Quang Trung còn cho quân voi từ Đại Áng tới, dồn quân địch xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, từ đó quân Tây Sơn cứ thế mượn sức của voi mà đạp chết hàng vạn tên giặc.

Cứ thế tiếng tăm vua Quang Trung lừng lẫy khắp các vùng, ai ai khi nghe thấy tên ông cũng đều cuống quýt lo sợ. Khi vua Quang Trung tiến quân vào Thăng Long, quân ở đồn Ngọc Hồi về cấp báo với Tôn Sĩ Nghị rằng: “Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”. Câu nói trên cho ta thấy được vua Quang Trung không chỉ là vị tướng quân tầm thường mà là bậc tướng sĩ trên trời giáng thế, binh đoàn của ông cũng là những chiến binh bất tử, từ dưới đất chui lên. Tôn Sĩ Nghị cuống cuồng bỏ chạy sợ mất mật, ngựa còn chưa kịp đóng yên, áo giáp còn chưa kịp mặc. Binh lính thì hỗn loạn chạy qua cầu đến nỗi cây cầu bị đứt khiến sông Nhĩ Hà tắc nghẽn bởi xác người không thể chảy được. Với chi tiết này, ta có thể thấy được Quang Trung còn không cần dùng đến đao kiếm, ngựa sắt, giáp sắt, ngài tiêu diệt quân thù bằng chính quyền uy, danh tiếng. Khí chất bậc anh hùng chính là thanh gươm sắc bén nhất khiến bất cứ giặc nào cũng phải khiếp sợ. Vua Lê Chiêu Thống nghe được tin cũng phải vội vã tháo chạy. Cùng với hoàng hậu và những người tùy tùng của mình chạy trốn đến đồn Hòa Lạc thì gặp được người thổ hào thương vua nên cho tá túc. Vừa kịp ăn chén cơm đã lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi tới, vua Lê Chiêu Thống cuống quýt tạ ơn thổ hào rồi nhờ ông tính kế cho. Thế nhưng dù có trốn đến chân trời góc bể thì vua Quang Trung cũng tìm đến đó, lúc này Tôn Sĩ Nghị cũng chỉ biết cúi gằm mặt lấy làm tủi hổ.

Với quan điểm sử thi đúng đắn và niềm tự tôn dân tộc, “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực chân dung Quang Trung - Nguyễn Huệ trong cuộc chiến tốc hành với quân Thanh. Đồng thời cũng diễn tả được sự thất bại bi thảm của tướng nhà Thanh và kết cục tủi hổ, bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.

Đoạn trích “Quang Trung đại phá quân Thanh” khắc họa đậm nét bậc hào kiệt song toàn của dân tộc. Ở vua Quang Trung ẩn chứa sự quả cảm, ngông cuồng, mạnh mẽ, trí tuệ hơn người. Hơn cả, ngài đã lãnh đạo dân ta đứng lên chiến đấu, là linh hồn của những chiến công vang dội ngàn đời. Qua đó, ta cũng cảm nhận được sự tôn kính, coi trọng lịch sử và tấm lòng thiện chí với vua Quang Trung bởi trong lịch sử hiếm có được bậc anh hùng nào kiệt xuất như vậy.

Phân tích Quang Trung đại phá quân Thanh mẫu số 5

"Mà nay áo vải cờ đào

Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình"

Ấy là những lời thơ mà Ngọc Hân Công chúa viết để ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ. Hình ảnh vua Quang Trung oai phong, lẫm liệt cũng đã được các tác giả Ngô gia văn phái tái hiện chân thực qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh trong hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”.

Quang Trung hiện lên là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán. Ngay từ đầu tác phẩm, ông đã hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết. Khi hay tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một vùng rộng lớn, ông không hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay. Nguyễn Huệ còn làm được biết bao việc lớn như tế cáo trời đất, lên ngôi vua, hành quân đánh giặc… trong vòng một tháng trời. Chỉ vừa mới khởi binh mà ông đã hẹn ngày mừng chiến thắng.

Không chỉ vậy, Quang Trung còn hiện lên với vẻ đẹp trí tuệ. Ông vừa sáng suốt, vừa nhạy bén. Khi quân Thanh hùng hổ xâm chiếm đất nước, tạo nên tình huống khẩn cấp và vận mệnh đất nước bị đặt trên tình thế nguy cấp, ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu là Quang Trung. Việc lên ngôi đã được ông lên kế hoạch kỹ lưỡng với mục đích hội tụ các phái nội bộ, tập hợp những hiền tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ.

Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “Đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Nhờ sự sáng suốt nhận định tình hình địch và ta, Quang Trung đã khích lệ các tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm từ ngàn xưa như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,... Chính lời dụ của Quang Trung đã thuyết phục được biết bao người tài. Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người thay lòng đổi dạ nên ông đã có lời với quân lính chí tình đầy nghiêm khắc: “Các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

Những chuyện xảy ra ở triều đình cũng đều không nằm ngoài sự dự liệu sáng suốt của Quang Trung. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng Sở và Lân. Do quân ta còn ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Nhờ vậy, Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen. Ông còn đánh giá rất cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng Nhậm như một vị quân sĩ đa mưu túc trí. Ông cài Ngô Thì Nhậm làm việc với Sở và Lân.

Quang Trung còn là người có tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung vẫn chắc nịch như đinh đóng cột. Ông không chỉ tính sẵn phương lược tiến đánh mà còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao. Ông được xem trọng như một vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy khiến chúng ta không khỏi kinh ngạc khi vừa hành quân, vừa đánh giặc, thậm chí thực tế còn vượt mức hai ngày. Dù hành quân xa xôi, liên tục như vậy, nhưng nhờ tính kỷ luật, quy định chặt chẽ đối với nghĩa quân, đội quân vẫn chỉnh tề, hành quân triền miên không ngừng.

Vua Quang Trung còn hiện lên với những hành động quyết liệt, mạnh mẽ trong chiến trận. Ông thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa mà với vị trí của một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự. Dưới sự lãnh đạo tài tình của ông, nghĩa quân Tây Sơn đã có những trận đánh thật đẹp, áp đảo kẻ thù dưới sức mạnh quyết liệt ấy. Trong cảnh khói tỏa mù trời, hình ảnh nhà vua cưỡi voi đi đốc thúc với tấm áo bào đã sạm đen khói súng hiện lên sáng ngời giữa trận mạc. Tất cả những nét đẹp như hội tụ và tỏa sáng giữa chiến trường mù mịt khói súng.

Đoạn trích khắc họa sinh động, ấn tượng hình tượng vua Quang Trung qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ dứt khoát và mạnh mẽ. Bối cảnh chiến trường hùng tráng đã trở thành phông nền hoàn hảo để người anh hùng xuất hiện. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ ba làm tăng tính chân thực, khách quan cho câu chuyện.

Các tác giả Ngô gia văn phái với ngòi bút thần của mình đã làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung - một niềm tự hào lớn của cả dân tộc, tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc ta. Người anh hùng Nguyễn Huệ đã trở thành niềm tự hào của nhân dân muôn đời, biểu tượng cho truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của con người Việt Nam.

-/-

Các em vừa tham khảo một số gợi ý, mẫu dàn ý chi tiết và bài văn mẫu tham khảo phân tích đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh của tác giả Ngô gia văn phái. Hi vọng, bài viết đã giúp các em đã có những ý tưởng hay cho nội dung bài phân tích của mình.

Tham khảo thêm các bài văn hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 8 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn để tự rèn luyện kỹ năng làm văn phân tích. Chúc các em học tốt!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM