Trang chủ

Phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Xuất bản: 01/09/2020 - Cập nhật: 24/04/2024 - Tác giả: Giangdh - Tham vấn bởi:

Phân tích đoạn 1 bài Tây Tiến để hiểu hơn về thiên nhiên và con người Tây Bắc, tuyển chọn văn mẫu phân tích khổ thơ đầu bài Tây Tiến kèm dàn ý chi tiết

     Phân tích khổ 1 bài Tây Tiến (14 câu thơ đầu) của Quang Dũng để hiểu hơn về thiên nhiên và con người Tây Bắc, sự oai hùng của những người lính Tây Tiến được hiện rõ qua bức tranh thiên nhiên, đó cũng là tấm lòng yêu đất nước của tác giả. Để nắm được cách làm bài phân tích đoạn 1 bài Tây Tiến, mời các em xem hướng dẫn chi tiết dưới đây, cùng với đó là những bài văn mẫu hay để em tham khảo phục vụ việc làm bài.

Đề bài: Phân tích đoạn 1 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Hướng dẫn phân tích đoạn 1 Tây Tiến

1. Phân tích đề

- Yêu cầu đề bài: Phân tích nội dung, nghệ thuật của 14 câu đầu bài Tây Tiến qua đó cái nhìn chi tiết về hình ảnh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc và hình tượng người lính với những kỷ niệm về tình quân dân mặn nồng.

- Phạm vi tư liệu dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh có trong khổ 1 (14 câu thơ đầu) bài Tây Tiến

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm chính bài phân tích đoạn 1 Tây Tiến

- Luận điểm 1: Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến.

- Luận điểm 2: Hình ảnh núi rừng Tây Bắc, con đường hành quân gian khổ của những người lính, sự hy sinh cao cả của người lính và niềm xót xa của tác giả dành cho đồng đội.

- Luận điểm 3: Nỗi nhớ đồng đội, nhớ Tây Bắc da diết và những kỷ niệm tình quân dân ngày còn chiến đấu.

3. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 1 bài Tây Tiến

4. Tóm tắt giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn 1 Tây Tiến

- Nội dung: Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người tính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng.

- Đặc sắc nghệ thuật: Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn, Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính về một thời kháng chiến đã đi qua.

Dàn ý phân tích đoạn 1 bài Tây Tiến

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến

- Dẫn dắt vào đoạn 1 của bài thơ: Đoạn đầu của bài Tây Tiến thể hiện một thời kháng chiến gian khổ, hào hùng của đoàn quân.

2. Thân bài phân tích khổ 1 Tây Tiến

a) Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến

- “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.

- “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.

=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải, lạc lõng trong lòng tác giả.

b) Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính

- “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.

- Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.

- Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.

- Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.

- “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.

- “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.

c) Hình ảnh người lính và kỷ niệm tình quân dân

- Hai câu thơ “Anh bạn… quên đời”:

+ Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.

+ Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.

- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều… nếp xôi

+ Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.

+ Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu.

3. Kết bài

- Giá trị nội dung: Đoạn thơ 14 câu tái hiện rõ nét thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng.

- Giá trị nghệ thuật:

+ Nghệ thuật tương phản và cường điệu, cách sử dụng từ láy gợi hình, gợi cảm để khắc họa một bức tranh giàu màu sắc, đường nét.

+ Bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn; chất họa kết hợp với chất nhạc => dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng.

+ Nghệ thuật hài thanh: Tác giả sử dụng câu thơ nhiều thanh trắc tạo nên sự trắc trở.

+ Thơ mộng, trữ tình: với các từ ngữ độc đáo, ấn tượng: “hoa về” chứ không phải “hoa nở”; “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”.

>> Xem lại nội dung soạn bài Tây Tiến đã được tìm hiểu trên lớp để gợi nhớ lại kiến thức về đoạn thơ.

TOP 9 văn mẫu phân tích đoạn 1 Tây Tiến (14 câu đầu) hay và đặc sắc nhất

Phân tích đoạn 1 Tây Tiến ngắn gọn nhất mẫu số 1

Quang Dũng là một nhà thơ lãng mạn và tài ba, ông để lại rất nhiều tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam, trong đó có Tây Tiến. Quang Dũng viết Tây Tiến vào năm 1948 với cảm hứng chủ đạo là nỗi nhớ đồng đội thân yêu, nhó binh đoàn Tây Tiến, nhớ cả bản mường và núi rừng Tây Bắc, những kỷ niệm một thời trận mạc đầy gian khó hiểm nguy… Bài thơ cũng ghi lại hào khí lãng mạn của những người trẻ Việt Nam, luôn sẵn sàng chiến đấu vì độc lập tự do dân tộc.

Hai câu thơ đầu tác giả nói lên nỗi nhớ, nhớ đoàn quân Tây Tiến, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”

Hai tiếng “xa rồi” gợi nỗi nhớ nhớ da diết đến quặn lòng, không thế nào nguôi được, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên sao tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng hiện về trong tâm tưởng.

Hai câu thơ tiếp theo nói lên chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

Giữa những dãy sương mù dày đặc, giữa đêm gió rừng gào thét, dù biết bao mệt mỏi vất vả thì đoàn quân vẫn miệt mài đi qua. Chút lãng mạn, nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm thâu nhận ra được hương hoa rừng lan tỏa. Bên cạnh bên tiếng pháo, tiếng bom, mùi súng đạn tàn khốc ngày đêm vang vọng, món quà nhỏ bé từ thiên nhiên ấy đã được các anh đón nhận thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” phảng phất hương thơm.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” được tác giả sử dụng hết sức tài tình, đặc tả được những gian khổ, gian truân trên nẻo đường hành quân chiến đấu của binh đoàn Tây Tiến. Đứng trên đỉnh núi mù sương, mũi súng của các chiến sĩ như chạm vào trời. Đây cũng là hình ảnh dược nhân hóa giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn, thi vị. Đồng thời nó cũng khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ.

Hai câu thơ sau tiếp tục khơi gợi những gian khổ, sự nguy hiểm tiềm ẩn trên con đường hành quân.

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

Không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu. “Chiều chiều” rồi tới “đêm đêm” luôn có biết bao nhiêu nguy hiểm rình rập, có thể lấy đi mạng sống của các chiến sĩ bất cứ lúc nào. Nhưng không vì thế mà đoàn quân Tây Tiến chùn bước, Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây Bắc để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của những người chiến sĩ bộ đội, để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước.

Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội qua 2 câu thơ:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”

Chiến tranh luôn có những hậu quả nặng nề, sự hy sinh của người lính là điều tất yếu, xương máu đổ xuống để mang về tự do độc lập cho đồng bào. Vần thơ nói lên sự mất mát, hy sinh nhưng lại không hề tham thương, bi lụy. Thể hiện sự anh dũng, hào hùng và tinh thần chiến đấu quật cường của những người lính bộ đội cụ Hồ.

Kết thúc khổ 1 bài thơ Tây Tiến, tác giả Quang Dũng đã thành công khắc họa hình ảnh người chiến sĩ can trường và lạc quan, luôn sẵn sàng hy sinh bản thân để đổi lấy tự do dân tộc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp về thơ ca chiến sĩ. Bằng nét bút tài hoa, nghệ thuật dùng từ tài tình, trải qua bao nhiêu thế hệ bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẫn giữ nguyên được giá trị của mình.

Phân tích đoạn 1 Tây Tiến học sinh giỏi mẫu số 2

Nhận xét về Quang Dũng, nhà thơ Vân Long đã sử dụng một cách ví rất thơ: “Nhà thơ Quang Dũng như bóng mây qua đỉnh Việt và là một áng mây bay qua sông núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. “Bóng mây” ấy mang dư vị của một hồn thơ hồn hậu, phóng khoáng, tài hoa và đã nhiệm màu biết bao vần thơ hay, biết bao bài thơ đẹp. Một trong những thi phẩm đặc sắc, mang đậm dấu ấn của hồn thơ Quang Dũng nhất, đó là thi phẩm Tây Tiến với đoạn thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên cùng người lính vô cùng đặc sắc:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Tây Tiến là tên một đoàn quân được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với đơn vị bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp, đơn vị bộ đội ấy có xuất thân chủ yếu là thanh niên Hà Nội, phần lớn là học sinh, sinh viên, trí thức, tiểu tư sản Hà thành.

Quang Dũng viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh - Hà Đông vào một buổi chiều mưa cuối năm 1948. Bài thơ là tiếng lòng của Quang Dũng với nỗi nhớ đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển công tác ở đơn vị khác. Để đi tới sáng tác thi phẩm “Tây Tiến”, một trong những thi phẩm đặc sắc, đem đến thành công độc đáo trong hồn thơ của mình, những kỷ niệm về Tây Tiến phải như lớp phù sa màu mỡ, lắng đọng và bồi tụ trong tâm hồn của Quang Dũng, chính từ lớp phù sa ấy, những kỉ niệm, kí ức một thời của tác giả về đoàn binh Tây Tiến mới cất cánh bay cao, xây hồn thơ đặc sắc trong tác phẩm của ông.

Viên Mai đã từng viết: “Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Nhận định ấy thật đúng đắn khi ta soi chiếu vào “cái tôi” làm thơ đầy hồn hậu, phóng khoáng và lãng mạn của Quang Dũng. Có lẽ bởi thế mà ông có thể sáng tác ra những vần thơ lãng mạn và tại hoa, đặc biệt là khi viết về người lính trong bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ là nỗi nhớ về đơn vị cũ của nhà thơ, tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Mười bốn câu đầu tiên của bài thơ đã tái hiện lại những khó khăn, gian khổ trên chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến, trên chặng đường ấy, thiên nhiên Tây Bắc cũng hiện lên với nét hùng vĩ dữ dội xen lẫn vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Bài thơ mở ra với những khó khăn, gian khổ trên chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến, trên chặng đường ấy, thiên nhiên Tây Bắc cũng hiện lên với nét hùng vĩ dữ dội xen lẫn với vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Hai câu thơ đầu giới thiệu cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn, toàn bài, đó là nỗi nhớ nhung tha thiết:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Câu thơ mở đầu với ngữ điệu của một câu cảm thán, khơi gợi nhiều cảm xúc của nhà thơ đã cất lên tiếng gọi đoàn binh của mình. Nhà thơ đã cất tiệng gọi “Sông Mã”, là hiện thân của thiên nhiên Tây Bắc, địa danh đã đồng hành, gắn bó với đoàn binh suốt chặng đường hành quân nhưng gọi về những gì thân thuộc nhất. Nếu như Huế có sông Hương êm ả, Hà Nội có cầu Long Biên cùng đồng hành trong những chặng đường lịch sử thì con sông Mã tựa như một sinh thể sống, một chứng nhân lịch sử ghi lại chiến công và những chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Hai tiếng “xa rồi” như một tiếng nấc nghẹn, bật ra trong nỗi niềm ngậm ngùi, xót xa, khi mà giờ đây, những kỉ niệm với dòng sông Mã năm xưa đã trở thành lịch sử, tác giả chỉ có thể trở về trong tâm tưởng. Tiếng nghẹn ấy đã làm cho âm điệu của câu thơ êm ái, gợi niềm lưu luyến tiếc nuối, bâng khuâng. Bởi lẽ “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi” (Puskin), xuất phát từ nỗi nhớ thẳm sâu, da diết trong trái tim mình, Quang Dũng đã viết nên những vần thơ chân thật, khởi nguồn từ những kỷ niệm về chiến khu cũ của mình.

Hai từ “Tây Tiến” bật ra nghe mới thật thân thương làm sao! Tây Tiến là sản phẩm của nỗi nhớ nhưng không chỉ có nỗi nhớ, nỗi nhớ là mạch nguồn để khơi gợi tình cảm, cảm xúc chân thật, khát vọng, cho dù đã xa nhưng tâm hồn mãi thủy chung với Tây Tiến. Điệp từ “nhớ” xuất hiện với tần suất lớn có tác dụng làm nổi bật lên nỗi nhớ nhung tha thiết của nhân vật trữ tình tạo nên tính nhạc cho câu thơ tựa như một điệp khúc vang vọng mãi trong sâu thẳm tâm hồn của độc giả làm cho ta không thể không đồng ý với lời nhận xét của Voltaire: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”.

Cách sử dụng từ ngữ của Quang Dũng đặc biệt “nhớ chơi vơi”. Có nhiều hình thức nhớ được thể hiện trong kho tàng văn học Việt Nam thế nhưng “nhớ chơi vơi” thật đặc biệt và chính cụm từ này làm cho nguồn cảm xúc trong bài thơ tỏa sáng theo cách riêng của nó. “Chơi vơi” là từ láy tượng hình, diễn tả trạng thái lơ lửng của con người trong không gian, không điểm đầu không điểm kết thúc. Như vậy nhớ chơi vơi là nỗi nhớ thường trực, triền miên, khắc khoải, khiến con người ta đứng ngồi không yên. Trạng thái lơ lửng, bồng bềnh của “chơi vơi” cộng hưởng với niềm xúc cảm nồng nàn, say đắm là miền nhớ đã tạo nên một nỗi “nhớ chơi vơi” có một không hai trên thi đàn. Có lẽ vì nó gắn với “rừng núi” bao la, trời đất rộng lớn và quá khứ bi hùng nên nó phải “chơi vơi” như thế, giống như đám mây lơ lửng trong không trung kia, như là những làn sương-mây-khói giữa Pha Luông khi những người chiến sĩ dừng chân bên lưng núi: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”… Hai câu thơ đã thể hiện trọn vẹn cảm xúc chủ đạo của bài thơ, tạo nền tảng để cho những nỗi nhớ được nâng lên thành tình cảm luyến lưu sâu sắc.Từ nỗi nhớ của Quang Dũng gợi ta nhớ về nhân vật trữ tình trong ca dao:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Tác giả như đang trôi theo dòng nhớ để những sợi tơ lòng giăng mắc khắp không gian núi rừng Tây Bắc. Hai âm “ơi” kéo dài tạo nên nhạc tính cho cả câu thơ, tưởng rằng Quang Dũng đã đánh lên một hồi chuông thương nhớ vượt tới tận miền Tây Bắc xa xôi rồi dội lại, đi thẳng vào đáy sâu hồn người, ngân nga, ngân nga mãi! Người ta có thể quên một dáng hình, một cảnh vật, một kỉ niệm trong Tây Tiến, nhưng có lẽ sẽ chẳng ai quên nổi một nỗi nhớ chơi vơi mới lạ và say đắm tới như vậy.

Có những mùi hương trăm năm không quên, có những nỗi nhớ thẳm sâu đến vô cùng. Nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về đoàn binh, về một thời tuổi trẻ mà gian khổ có, khó khăn có, nhưng cũng thật hào hùng, hào hoa trong tâm hồn Quang Dũng như một thứ trầm hương, mang trong mình hương thơm “thọ thiên địa chí khí”, hương thơm ấy thanh thoát, dịu nhẹ trở lại trong tâm tưởng nhà thơ với đầy đủ sắc bị tuyệt diệu của nó. Có lẽ cũng bắt nguồn từ nỗi nhớ như Quang Dũng mà nhà thơ Giang Nam cũng từng vẽ nên những âm điệu đầy thi vị cùng niềm tự hào khôn xiết:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”

Đến với hai câu thơ tiếp theo, tác giả mở ra khung cảnh con đường hành quân của những người chiến sĩ Tây Tiến:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng đã sử dụng thủ pháp liệt kê những địa danh mà mình đã từng đi qua như Sài Khao, Mường Lát. Văn học là môn nghệ thuật đặc thù bởi lẽ nó sử dụng ngôn từ ngắn gọn, hàm súc nhưng lại chứa đựng tầng sâu ngôn từ đa nghĩa, buộc chúng ta phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều để khám phá dụng ý của tác giả. Hình ảnh tả thực “sương lấp” cho ta thấy sương ở đây bao phủ dày đặc tưởng chừng như có thể nuốt chửng cả một đoàn quân, khiến cho bước chân của đoàn binh Tây Tiến mệt mỏi rã rời. Thời tiết nơi đây khắc nghiệt, khiến cho chặng đường hành quân của người lính khó khăn, vất vả, gian khổ. Mặt khác, “sương” ở đây còn là ẩn dụ cho những khó khăn, gian khổ, thử thách cũng như những cạm bẫy mà những người lính chiến đấu phải đối mặt, vượt qua, chấp nhận nó như một phần của cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh ấy cũng đã được Tố Hữu đưa vào bài thơ Việt Bắc:

“Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

​Những gian nan, vất vả ấy được thi nhân gói ghém trong một từ rất đỗi lãng mạn “sương” càng tô đậm nét hào hoa, vô tư và lạc quan của các chiến sĩ cho dù có những lúc “đoàn quân mỏi”. Câu thơ này vừa hào hùng lại cũng rất trữ tình làm cho Đinh Minh Hằng phải thốt lên rằng: “Tây Tiến - sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn”.

Đối lập với câu thơ trên, câu thơ thứ hai là một nét vẽ lãng mạn, mềm mại, thơ mộng. Nét vẽ đó cho chúng ta thấy vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Biện pháp nhân hóa “hoa về” khiến cho thiên nhiên tạo vật trở nên sống động, có hồn. Liệu rằng, “hoa” ấy, có phải là ngàn hoa của núi rừng Tây Bắc xuất hiện trong bản nhạc “Tình ca Tây Bắc” đầy yêu thương? Hay “hoa” ấy không phải là hoa như cách nói thông thường, mà lại là những ánh đuốc bập bùng được người lính thắp để soi đường trong đêm hơi? Dù hiểu theo cách nào thì “hoa” kia vẫn cứ nhẹ nhàng êm ái như một hơi thở vậy. Câu thơ đã hé trước tâm hồn lãng mạn bay bổng vốn có của một người lính Tây Tiến.

“Hoa về trong đêm hơi” khiến cho đêm nơi núi rừng bạt ngàn bồng bềnh, chơi vơi tựa như trong cõi mộng chứ không phải là thực tại nhân sinh nữa. “Đêm hơi” chính là đêm trong nước, đêm trong mưa bụi. Ở miền núi sẩm tối, sương xuống bàng bạc, trong thời khắc ấy, ngòi bút tài hoa của Quang Dũng thay vì viết "màn đêm buông" là 'hơi đêm", một cách thể hiện táo bạo. Nhưng dùng "hơi đêm", nghĩa là "mới vào đêm", không thể lột tả hết vẻ yên tĩnh, bí ẩn bằng "đêm hơi". Mặt khác, từ “hoa” còn có thể hiểu là ẩn dụ của những mỹ nữ miền sơn cước nơi đây, kết hợp với độ nhòe mờ của từ “hơi” làm cho câu thơ trở nên lãng mạn nhưng cũng không kém phần bi tráng. Quang Dũng đã làm cho hình ảnh thơ trở thành ẩn số nhưng ẩn số ấy lại động lại sâu lắng trong tâm tư người đọc. Việc sử dụng từ độc đáo “đêm hơi” cũng cho thấy sự tinh tế trong cách cảm nhận và sự táo bạo trong cách sử dụng ngôn từ. Từ “đêm hơi” đã lột tả vẻ đẹp yên tĩnh và bí ẩn nơi rừng núi hoang vu.

Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, một câu thơ có bảy tiếng, ngoài địa danh Mường Lát được đề cập tới thì các tiếng còn lại đều có thanh bằng, đọc câu thơ lên, con người như hòa vào không gian yên bình, dịu êm, lãng mạn, tan vào hương hoa để cảm nhận được những vẻ đẹp diệu kỳ nhất của nó. Hình ảnh con đường hành quân của những người lính Tây Tiến vừa khắc nghiệt, khó khăn, gian khổ lại vừa thơ mộng, bay bổng, yêu đời.

Quang Dũng đã gắn bó với thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc trong suốt chặng đường hành quân hối hả, từng địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khéo léo tiếp nối nhau đi vào những vần thơ êm dịu, mỗi nơi mà bước chân nhà thơ từng đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều thấy yêu thương, gắn bó, ta cũng bắt gặp những tình cảm thắm thiết, sâu nặng như thế qua ý thơ của Chế Lan Viên:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.

Mảnh đất Tây Bắc trở nên xa xôi, hoang vu với những địa danh: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... từng in dấu chân người chiến sĩ.

Ba câu thơ tiếp theo khắc họa được rõ nét địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Quang Dũng đã sử dụng đặc trưng văn học, đó là lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng để lột tả chân thực địa hình núi rừng hiểm trở qua nhiều từ láy giàu giá trị tạo hình khác nhau. Từ “khúc khuỷu” diễn tả con đường ghồ ghề, ghập ghềnh, uốn lượn, quanh co, khó đi. Từ “thăm thẳm” vừa diễn tả được độ cao chót vót, lại vừa gợi cảm nhận về độ sâu hun hút. Điệp từ “dốc” đứng đầu mỗi vế có tác dụng tô đậm những con đường dốc cao nối nhau đến vô tận. Người lính vừa leo xong con dốc này lại tiếp tục đối mặt với những con dốc khác, mà con dốc sau còn hiểm trở hơn con dốc trước, nhiều khó khăn gian khổ chất chồng thách thức người lính. Từ láy “heo hút” gợi lên không gian hoang vu, hoang sơ, lạnh lẽo, hiu quạnh, xa cách với cuộc sống của con người.

Thiên nhiên đa sắc là phông nền để hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với những vẻ đẹp ấn tượng. Người lính phải hành quân trên chặng đường khó khăn với bao gian nan thử thách hiểm nguy và thậm chí hi sinh. Họ phải hành quân qua những địa điểm xa lạ, chưa bao giờ đặt chân đến khác với Hà Thành mà họ lớn lên. Thời tiết nơi đây khắc nghiệt, khiến cho chặng đường hành quân của người lính thêm khó khăn, vất vả, gian khổ mà ta từng bắt gặp trong thơ của Tố Hữu:

“Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Biện pháp nhân hóa “súng ngửi trời” vừa diễn tả độ cao của địa hình vừa hé mở sự đùa vui, nghịch ngợm, tếu táo mang khẩu khí người lính Tây Tiến. Bởi văn học sử dụng ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng nhân vật, do vậy trong tác phẩm “Tây Tiến”, tác giả Quang Dũng đã sử dụng lớp ngôn từ tinh túy để khiến cho câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” trở nên hóm hỉnh, tinh nghịch, nhưng không kém phần hào hoa của những chàng trai Hà thành hoa lệ, các anh đã chiếm lĩnh tầng cao của núi đèo, khiến hình tượng người lính Tây Tiến sánh ngang tầm vũ trụ. Ngỡ như các anh đang đi trong mây, đang cưỡi trên mây để lên đến đỉnh trời.

Và khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất thì “súng” các anh đã “ngửi trời”! Có một tiếng cười thú vị mà tinh nghịch của người lính hào hoa Hà Nội khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất. Không phải súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Khẩu súng được nhân hóa như người đã khiến câu thơ trở nên hóm hỉnh, tinh nghịch, mang chất hào hoa của những chàng trai đất kinh thành hoa lệ lên đánh giặc ở miền Tây. Câu trên nặng nhọc, gấp gáp; câu dưới nhẹ nhàng, thơ mộng trong sự tự hào của người chiến thắng. Ta hiểu đây không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên mặt đất mà chính là đỉnh cao trọng sự chiến thắng của tinh thần, nghị lực người chiến sĩ. Hình ảnh ấy mĩ lệ không kém gì “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu cả! Cách lựa chọn từ ngữ thông minh, sắc sảo đã khiến cho ba câu thơ không một câu nào non nớt, bằng phẳng, trái lại câu nào cũng có nội lực riêng, tạo nên khí vị chung cho bài thơ, một khí vị bi hùng, hoang dã và quả cảm.

​Câu thơ thứ ba với nghệ thuật đối lập, tương phản, điệp từ “ngàn thước” đi nhịp 4/3 khiến câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi gợi liên tưởng tới những vách núi dựng đứng đem lại cảm giác ghê rợn, hãi hùng. Thiên nhiên lúc này không phải là đối tượng thưởng thức nữa mà trở thành đối thủ thách thức ý chí của con người. Ta nhớ đến những câu thơ cũng thể hiện sự hiểm trở trên đường đi trong vần thơ Lý Bạch: “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên” (Đường Thục khó đi).

Tô đậm địa hình hiểm trở là cách nhà thơ làm nổi bật khó khăn gian khổ trên chặng đường hành quân của người lính từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của con người, dũng cảm kiên cường của người lính Tây Tiến. Nói khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua / Kẻ thù nào cũng đánh thắng!” làm ta liên tưởng đến người lính trong thơ Tố Hữu:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.”

(Lên Tây Bắc)

Câu thơ thứ tư “Nhà ai pha Luông mưa xa khơi” mang đậm tính chất lãng mạn trong tâm hồn thơ Quang Dũng. Nếu ba câu thơ trên sử dụng hình nhiều thanh trắc khiến cho âm điệu trong câu thơ nặng nề gợi sự mệt mỏi của người lính khi phải leo dốc vượt đèo thì đến câu thơ này, nhà thơ hoàn toàn sử dụng thanh bằng khiến âm điệu trở nên nhẹ nhàng, dịu êm, tha thiết hơn. Âm điệu đó hé mở tâm hồn nhẹ nhõm, thanh thản, tươi mát của người lính trẻ trong chặng đường hành quân vất vả. Không chỉ miêu tả sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc mà nhà thơ còn cho thấy nét đẹp thơ mộng, tình tứ, mềm mại, đáng yêu của thiên nhiên tạo hóa nơi đây. Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi ra sự bí ẩn khiến độc giả vô cùng tò mò. Liệu rằng ẩn sau màn mưa ấy, trong một căn nhà nhỏ bé vùng quê là bóng hình của một thiếu nữ đảm đang hay có thể là dáng hình còm cõi của người mẹ nuôi quân?

Bốn câu thơ cuối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng thật đặc biệt. Nếu ba câu thơ đầu được vẽ bằng những nét gân guốc khi tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đối, ngắt nhịp, nhiều thanh trắc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ bằng nét mềm mại, toàn thanh bằng. Bút pháp tạo hình giống như một bức tranh thủy mặc - một vài nét chấm phá gợi lên không gian ba chiều cao, sâu, rộng. Chiều nào cũng để lại dấu ấn trên bức tranh tuyệt đẹp kia.

Hai câu thơ tiếp theo tập trung khắc họa sự hy sinh anh dũng của người lính, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Từ láy "dãi dầu" gợi sự vất vả nhọc nhằn, “dầu sương dãi nắng”. Cụm từ “không bước nữa” thể hiện sự kiệt sức, không bước được nữa. Có thể vì quá mệt nên các anh tì súng nằm nghỉ một chút hay có thể là cách nói giảm nói tránh “bỏ quên đời” nhằm xoa dịu sự mất mát, hy sinh khiến cho câu thơ bi mà không lụy. Cõi chết đến với người lính nhẹ nhõm, thanh thản, nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ. Thấy được sự hy sinh của người lính Tây Tiến, thấy khó khăn gian khổ khiến cho họ phải đối mặt với cái chết, cùng với đó là vẻ đẹp của người lính, sẵn sàng hy sinh ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, dáng hình của các anh tượng trưng cho thế hệ trẻ thời kháng chiến, như cây súng chắc trong tay lưỡi lê sáng ngời, khiến cho quân thù bàng hoàng khiếp sợ, dáng hình của các anh đã đi thẳng vào lịch sử để trở thành tư thế Việt Nam tự hào thế hệ. Đó là sự hiên ngang của người lính, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Tư thế ấy đã được Tố Hữu ca ngợi trong Trăng Trối:

“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng”

Đọc câu thơ ấy lên, ta mới thấu hiểu được hết hiện thực của chiến sĩ chiến tranh, hiện thực ấy là hy sinh, mất mát, hiện thực ấy là cả một bài ca mà ta sẽ không bao giờ quên với giai điệu hào hùng về những con người đã ngã xuống, gửi trọn đời cho tất cả, để đất nước ta được độc lập, để ta có cuộc sống ngày hôm nay. Câu thơ đã thể hiện được cuộc chiến đấu gian khổ khắc nghiệt, hiện thực chiến tranh khốc liệt bi thương được khắc họa rõ nét, những cũng chính vì vậy đã nêu cao được tinh thần kiên cường, ý chí chiến đấu và tư thế hiên ngang của người lính Tây Tiến. Đó là người lính trong thơ Chính Hữu:

“Bạn ta đó chết trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong”

(“Giá từng thước đất” - Chính Hữu)

Hai câu thơ tiếp theo tập trung làm nổi bật lên sự bí ẩn linh thiêng của rừng núi Tây Bắc:

“Chiều chiều oai linh thác ghầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” khơi gợi những âm thanh ghê rợn, đặc trưng của rừng già, đem lại cảm giác hãi hùng cho con người, khắc nghiệt mà người lính phải đối mặt. Biện pháp nghệ thuật tương phản, đối lập kết hợp với điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm” có tác dụng làm nổi bật lên sự nguy hiểm, chết chóc luôn rình rập người lính ở mọi thời điểm. Dòng chảy thời gian vô tận cứ lặp đi lặp lại đã biến rừng già trở thành chốn “rừng thiêng nước độc” đối với những người lính Tây Tiến. Khó khăn và gian khổ luôn hiện hữu trước mắt người lính, nhưng họ vẫn dồn toàn tâm toàn lực để tiếp tục tiến bước trên con đường thiêng liêng ấy:

“Đoàn vệ quốc một lần ra đi

Nào có xá chi đâu ngày trở về”

Như vậy thiên nhiên Tây Bắc không chỉ hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội nó còn bí ẩn oai linh. Sống chiến đấu trên một địa bàn như vậy đòi hỏi người lính phải gan dạ, can trường, dũng cảm cực kì. Oai linh, bí hiểm là thế nhưng Quang Dũng đã vô cùng tinh tế “thả” một chữ “trêu” vào câu thơ. Chính cách dùng từ độc đáo của nhà thơ đã làm lộ ra sự vui tươi, lạc quan, khẩu khí chiến đấu cũa chiến sĩ Tây Tiến. Họ nào có ngại gì khó khăn mà vẫn bước tiếp trên con đường hành quân, đối với họ bây giờ cọp không còn là mối nguy hiểm nữa mà đó tựa như là trò chơi giao đấu giữa đôi bên. Cách nói như thế khiến câu thơ không còn quá nặng nề nhưng vẫn tôn vinh được vẻ đẹp của người chiến sĩ.

Sau chặng đường hành quân gian khổ, vất vả giờ đây người lính có dịp dừng chân tại một bản làng có tên gọi rất đỗi ngây thơ Mai Châu, được đồng bào dân tộc đón tiếp nồng nhiệt:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hai câu thơ thể hiện tình quân dân thắm thiết. Từ cảm thán “nhớ ôi” thể hiện sự nhớ nhung tha thiết, dạt dào tình cảm, tác giả như thốt lên, muốn nói lên nỗi nhớ ấy. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có bao nhiêu cách diễn tả. Nếu nỗi nhớ trong ca dao hiện lên bổi hổi bồi hồi:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Thì đến với Tố Hữu, đến với Việt Bắc, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ thắm sâu trong tình cảm cách mạng:

“Nhớ gì như nhớ người yêu,

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Hình ảnh “cơm lên khói” gợi cho người đọc cảm nhận được một khung cảnh bình yên, đầm ấm. Người lính Tây Tiến được đồng bào Tây Bắc đón tiếp một cách nồng hậu. Bác cơm nghi ngút khói được trao từ tay em làm ấm lòng người chiến sĩ, xua tan đi bao vất vả nhọc nhằn. Trong hàng trăm hàng nghìn nỗi nhớ Quang Dũng đặc biệt dành một phần trái tim mình cho đất Mai Châu khi bước vào mùa mới. Quên sao được cảm giác ấm tình quân dân bên các bản làng khi dừng chân ngơi nghỉ. Chẳng thế mà giọng thơ êm đềm tha thiết như khúc nhạc tâm tình gợi nhớ gợi thương, như mãi vấn vương một nỗi niềm. Thử hỏi rằng mùi hương nếp xôi có gì mà sao làm bồn chồn, thao thức tâm hồn Quang Dũng đến vậy? Đơn giản lắm! Đó là hương vị tích tụ từ sự mặn mòi của đất, từ những giọt mồ hôi mặn chát của con người, từ thần khí thiêng liêng của xứ sở anh hùng. Hơn nữa, hương nếp xôi còn hòa trộn cả tình người ấm áp, keo sơn. Vì thế mà theo suốt cuộc đời những ai đã một thời sống cùng Tây Tiến, hương nếp xôi đã trở thành nhịp cầu nối bắc quá khứ, hiện tại và tương lai để thêm một lần nhà thơ được trở về với Mai Châu, được sống với những kỉ niệm của một thời chinh chiến.

Cách sử dụng từ ngữ độc đáo của Quang Dũng “mùa em” gợi liên tưởng tới những thiếu nữ Tây Bắc xinh đẹp, trẻ trung, duyên dáng, những bóng hồng sơn cước tràn đầy sức sống. Câu thơ hé mở một tâm hồn tươi trẻ, lạc quan, vui tươi, yêu đời của  người lính Tây Tiến. Mọi khó khăn gian khổ giờ đây bị đẩy lùi thay vào đó là khung cảnh đầm ấm, thắm thiết tình quân dân. “Thơm nếp xôi” - cụm từ ấy gợi cảm nhận về một hương vị đặc trưng của núi rừng, của đất trời Tây Bắc, cũng là hương vị của tình người, tình quân dân cả nước. Còn lại sau một chặng đường dài hành quân người đọc không nghe hơi thở mệt mỏi, chẳng nghe một lời than vãn mà chỉ thấy dìu dịu, ngọt lành trong hương nếp xôi, trong tình người thắm nghĩa. Hoàng Cầm khi xa rời Kinh Bắc mang theo “lúa nếp thơm nồng”, Nguyễn Đình Thi rời xa Hà Nội mang theo mùi hương cốm mới, còn Quang Dũng xa Tây Bắc nhớ lắm “hương nếp xôi". Hai câu thơ đóng vai trò như tấm bản lề, khép lại khung cảnh hùng vĩ dữ dội của núi rừng Tây Bắc, mở ra cảnh đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân.

Qua đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và người lính, ta thấy được tài năng sử dụng bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Khi miêu tả thiên nhiên Tây Bắc và những người đồng đội của mình, nhà thơ đã vận dụng khéo léo cả bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn. Thiên nhiên trong đôi mắt nhà thơ bộc lộ một cách chân thực với những nét đặc trưng của vùng núi Tây Bắc: vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ tình. Hình ảnh những người chiến sĩ gian khổ trong chiến đấu và hào hoa lãng mạn bằng tâm hồn trẻ trung lạc quan từ đó sáng ngời vẻ đẹp bi tráng. Có thể thấy hình ảnh thơ trong “Tây Tiến” đã được nhà thơ khám phá và thể hiện một cách trọn vẹn và đủ đầy sắc thái nhất. Bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn đã khiến những vần thơ thêm sâu sắc và ấn tượng, đọng lại những tình cảm đẹp trong lòng người đọc. Thiên nhiên và người lính hiện lên trong nỗi nhớ “chơi vơi” của nhà thơ với những hình ảnh vừa chân thực vừa đẹp một cách ấn tượng  bất chấp sự trôi chảy của thời gian. Với phong thái hào hoa lãng mạn của một người nghệ sĩ và một người chiến sĩ từng chiến đấu với đoàn quân Tây Tiến, Quang Dũng đã thể hiện phong cách sáng tác nổi bật trong nền thơ ca hiện đại như quan niệm của nhà thơ Sóng Hồng: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”.

Trải qua hơn một nửa thế kỉ, những vần thơ “Tây Tiến”, đã vượt qua biết bao lớp bụi thời gian để in sâu, bám rễ vào tâm tưởng của biết bao thế hệ độc giả người Việt. Xin được mượn lời của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thay cho lời kết: “Tây Tiến giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài thì càng sáng, càng lấp lánh và hấp dẫn. Đó là một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng… một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người”…

(Nguồn: Học Văn Cùng Cô Đường Mai)

Phân tích 14 câu đầu Tây Tiến mẫu số 3

“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng” (Nguyễn Đăng Điệp). Đề tài người chiến sĩ - người trực tiếp xông pha vì nền độc lập tự do của Tổ quốc là một đề tài phổ biến trong thơ ca cách mạng. Thế nhưng, mỗi tác giả lại có riêng cho mình một cảm nhận khác nhau về vẻ đẹp của những người cầm súng. Đối với Quang Dũng, hình tượng những người lính Tây Tiến trong ông được tái hiện bằng “đôi cánh lãng mạn”.

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ngoài sáng tác văn chương ông còn soạn nhạc và vẽ tranh. Ông có một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, hào hoa - đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài tức Sơn Tây - quê hương ông. Bài thơ Tây Tiến là sự thăng hoa trong sự nghiệp văn học của Quang Dũng. Được sáng tác năm 1948, khi Quang Dũng ở Phù Lưu Chanh công tác ở đơn vị mới và nhớ về những tháng ngày cũ tại trung đoàn 52 Tây Tiến. Đoạn thơ đầu tiên gồm 14 câu diễn tả nỗi nhớ da diết của ông về thiên nhiên miền viễn Tây, về những nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã đi qua trong các cuộc hành quân đầy gian khổ.

Hai câu thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc bao trùm của cả đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ nhung của tác giả về dòng sông Mã, về binh đoàn Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Một tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” nghe sao mà thân thương đến thế. Nỗi nhớ phải cồn cào, da diết đến đâu thì tác giả mới gọi một tiếng ấy, gọi người bạn cũ, gọi người thương cũ đã từng trải qua bao gian lao, bao vất vả. Sông Mã là con sông chảy dọc biên giới Việt Lào, qua các tỉnh Sầm Nưa, Điện Biên, Sơn La… Sông Mã như một thành viên của đoàn binh Tây Tiến, là một chứng nhân lịch sử, nhìn thấy hết mọi gian khổ, hi sinh và cả mọi chiến công của người lính.

Ngoài dòng sông, kí ức về một thời đã xa của nhà thơ còn là ký ức về rừng núi miền viễn Tây: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Mảnh đất yêu thương của từng người lính Tây Tiến - mảnh đất Tây Bắc, nơi họ đã sống và chiến đấu, giờ đây trở thành kỉ niệm thật đẹp trong tâm trí. Rừng núi xứ Tây Bắc như Chế Lan Viên nói là “Xứ thiêng rừng núi anh đã từng/ Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất” (Tiếng hát con tàu). Vần “ơi” được điệp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, da diết, vang vọng của nhà thơ. Ta biết tới nỗi nhớ chơi vơi trong ca dao: “Ra về nhớ bạn chơi vơi” hay trong thơ Xuân Diệu: “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Nhị Hồ). Nhưng khác với nỗi nhớ về tình riêng, nỗi “nhớ chơi vơi” trong thơ Quang Dũng là dành cho Tây Tiến, dành cho những người đồng đội. Từng địa danh gắn liền trong chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến lần lượt hiện ra trong các câu thơ một cách chân thực: Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Châu Mộc. Mỗi nơi xa xôi, hoang sơ ấy hiện về trong kí ức của nhà thơ với bao thương nhớ da diết, khôn nguôi. Đó có chăng là “Những tên làng, tên núi, tên sông / Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc”?

Tác giả nhớ về những cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến qua miền Tây hoang sơ, dữ dội. Trước hết là đoạn đường qua Sài Khao sương mờ lối và cảnh Mường Lát thơ mộng:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hiện thực chiến đấu khắc nghiệt được miêu tả hết sức chân thực: sương che khuất lối, làm mờ đường đi, khiến đoàn quân mệt mỏi, rệu rã vì chặng đường gian khổ trùng điệp. Từ “mỏi” khiến cho âm điệu câu thơ chùng xuống. Thế nhưng, đối lập với vẻ khắc nghiệt còn là vẻ thơ mộng, trữ tình của núi rừng Tây Bắc: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ nhưng người lính không hề đánh mất đi tâm hồn lãng mạn, hào hoa, lạc quan, yêu đời của bản thân mình. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là sự cảm nhận tinh tế của họ trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây. Những thanh bằng kết hợp với các từ ngữ “hoa về” (thay vì hoa nở), đêm hơi (thay vì đêm sương) đã gợi nét nhẹ nhàng, êm ả bên cạnh cái dữ tợn của thiên nhiên.

Chặng đường hành quân qua các tỉnh miền Tây có bao nhiêu đèo dốc trùng điệp nối nhau, có bao nhiêu hiểm nguy đều được gợi ra rõ ràng trong ba câu thơ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Nghệ thuật điệp từ “dốc” kết hợp với các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả một không gian chỉ gồm những dốc núi hiểm trở: có lúc khúc khuỷu, gập ghềnh, lúc thì sâu thăm thẳm. Người lính Tây Tiến cứ đi, đi mãi, chưa qua hết dốc này đã đến dốc khác. Câu thơ tiếp theo tô đậm thêm vẻ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời miền Tây, tô đậm độ cao của những vách núi nơi đây. Hình ảnh “heo hút cồn mây” khiến chúng ta hình dung đến những ngọn núi cao chót vót, heo hút vắng người, quanh năm phủ kín mây mờ. Cách nói nhân hóa “súng ngửi trời” là cách nói hóm hỉnh của người lính. Dường như dốc cao đến độ, đầu súng trên vai người chiến sĩ có thể chạm đến tận trời xanh. Câu thơ đã cho thấy phong thái ngang tàn, ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Về tư thế làm chủ này, trong bài “Lên Tây Bắc”, Tố Hữu cũng từng nhắc đến, rằng: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều/ Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo/ Núi không đè nổi vai vươn tới”.

Nhà thơ Quang Dũng sử dụng phép điệp “ngàn thước” cùng nghệ thuật tương phản, một bên “cao” một bên “xuống” nhằm diễn tả khung cảnh một bên núi cao chót vót, một bên lại thăm thẳm. Nhịp điệu 4/3 làm câu thơ như bị bẻ đôi, lại một lần nữa nhấn mạnh sự hiểm trở của đèo dốc núi rừng Tây Bắc. Khung cảnh đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc, cao chót vót, sâu thăm thẳm như thế này cũng được nói qua trong “Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn): “Hình khe thế núi gần xa/ Đứt rồi lại nối, thấp đà lại cao”. Đoạn thơ sử dụng nhiều thanh trắc nhằm khắc họa rõ nét chặng đường hành quân về miền tây Bắc của đoàn binh Tây Tiến đầy những vất vả, gian lao, hiểm trở. Nói lên cái khó khăn hiểm trở bao nhiêu thì càng nhấn mạnh ý chí kiên cường của những người lính trẻ bấy nhiêu. Thông qua cái khắc nghiệt của núi rừng miền Tây, ta nhìn thấy được cả bao nhiêu vất vả của người lính Tây Tiến.

Sau chặng đường đầy vất vả, người lính cùng đồng đội như đang dừng lại nghỉ ngơi bên triền dốc, họ nhìn xuống lung thũng quan sát những bản làng nơi Pha Luông, những mái nhà nho nhỏ ẩn hiện trong làn mưa:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Đối lập với đoạn thơ trên chiếm chủ yếu là các từ mang thanh trắc, câu thơ này lại chứa các từ chỉ mang thanh bằng. Việc sử dụng thanh bằng đã làm không gian yên ả được mở ra, một sự thanh bình, một nét thanh thản được len lỏi vào trong tâm hồn người lính trẻ. Có thể nói, nhà thơ Quang Dũng đã rất tài tình khi kết hợp sử dụng các thanh điệu vừa để diễn tả chặng đường khúc khuỷu, gập ghềnh và nét êm ả, nhẹ nhàng; bên cạnh đó còn tạo nên nhạc tính cho bài thơ. Bàn về điều này, Xuân Diệu từng nhận xét: “Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm nhạc trong miệng”.

Trong hồi ức về khung cảnh miền Tây của nhà thơ còn có hồi ức về những người bạn, người đồng đội cùng đồng cam cộng khổ với ông trong suốt quãng thời gian công tác tại Trung đoàn 52:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Cách gọi “anh bạn” thân thương là cách gọi mà tác giả dành cho người đồng đội đã ngã xuống trong chặng đường hành quân. Một hiện thực khốc liệt hiện lên, đó là sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Họ “gục lên súng mũ”, họ “bỏ quên đời”, về với đất mẹ, về nơi xa xăm. Cách nói giảm nói tránh của nhà thơ làm cho sự mất mát của người lính trở nên nhẹ nhàng hơn, đỡ đau xót hơn. Ờ đây Quang Dũng miêu tả cái chết của đồng đội như một sự xả thân cho lý tưởng. Người lính chết mà vẫn cầm chắc tay súng, chết trong tư thế lên đường, tư thế hành quân. Đây là hình ảnh vừa bi vừa hùng làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính.

Gian khổ đâu chỉ là núi đèo cao chót vót, đâu chỉ là cái chết rình rập mà còn là sự nguy hiểm, dữ dội từ nơi rừng thiêng nước độc. Chặng đường hành quân càng thêm khó khăn khi người lính phải hành quân qua những nơi hoang vu đầy thú dữ, phải vượt qua từng cơn giận giữ của các con thác:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Tây Bắc dữ dội ngoài mở ra theo chiều rộng không gian bằng cách địa danh: Pha Luông, Sầm Nưa, Mường Hịch,… mà còn mở ra theo chiều rộng thời gian với hai cụm từ “chiều chiều”, “đêm đêm”. Có chăng cả ngày và đêm ở mảnh đất này chỉ có cọp dữ và thác thiêng ngự trị. Cách nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” nhấn mạnh cái hoang vu, rùng rợn và cái uy lực của thiên nhiên. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với tất cả những điều ấy: cơn thịnh nộ của các con thác và chúa tể của rừng xanh - loài cọp hung dữ. Chặng đường qua những địa danh với người đọc thuở ấy còn đầy bí hiểm, hoang sơ có biết bao hiểm nguy luôn chực chờ người lính. Thậm chí, những địa danh ấy còn khiến nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng hai chữ “Mường Hịch” nghe như bước chân cọp rậm rịch rình người trong đêm tối.

Sau bao ngày trèo đèo, vượt núi, băng rừng, binh đoàn Tây Tiến dừng lại nơi bản làng Mai Châu ngày mùa, đón nhận tình yêu, lòng nhiệt thành từ đồng bào nơi đây dành cho họ:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Các anh đã được đồng bào, đặc biệt là các cô gái miền sơn cước xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở bằng những bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước quân hành. Hương thơm ấy quyến luyến còn đọng lại mãi như nhà thơ Quang Huy đã viết: “Buổi tiễn anh đi em hơ tầu chuối ngự/ Gói xôi rền thơm mãi giữa hàng quân” (Màu kỷ niệm). Và trong “Tiếng hát con tàu”, nhà thơ Chế Lan Viên cũng nói về hương thơm của vắt xôi: “Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng…/ Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”. Hình ảnh “cơm lên khói”, “mùa em thơm nếp xôi” là những hình ảnh mà tác giả nhớ da diết về Tây Bắc, về tình quân dân ấm nóng giữa Tây Tiến và “em” cùng các đồng bào dân tộc nơi bản làng Mai Châu. Người lính Tây Tiến có đâu quên những khung cảnh hạnh phúc xóm làng trong ngày mùa, có đâu quên những tấm lòng thơm thảo nơi đất lạ.

Mười bốn dòng thơ mở đầu chủ yếu khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hùng vĩ trong nỗi nhớ của Quang Dũng. Từ thiên nhiên ấy, nhà thơ làm nổi bật hình ảnh những người lính Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Bút pháp chủ đạo là lãng mạn kết hợp với bút pháp hiện thực đã đưa độc giả đến với những địa danh xa xôi của miền viễn Tây, hình dung về cuộc sống chiến đấu gian khổ của trung đoàn Tây Tiến. Ngôn ngữ thơ giàu tính hình tượng và nghệ thuật tương phản, đối lập đã làm nên bức tranh núi rừng miền Tây giàu đường nét, màu sắc. Cuối cùng, nghệ thuật hài thanh đã góp phần tính nhạc cho đoạn thơ.

Nhà giáo Lương Duy Cán đã rất say sưa ca ngợi Tây Tiến “có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng”. Dẫu trải qua bao nhiêu cuộc “bãi bể hóa nương dâu”, “Tây Tiến” đã đang và sẽ mãi sống trong lòng người đọc với hình ảnh người lính lãng mạn, hào hoa, phong nhã nhưng không hề bi lụy.

(Tác giả: Châu Nguyễn Ái My)

Phân tích đoạn 1 Tây Tiến bài mẫu số 4

Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu trong giai đoạn chống Pháp. Ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa vẽ tranh, soạn nhạc, lại vừa làm thơ. Với hồn thơ lãng mạn, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu phải kể đến "Tây Tiến". Bài thơ là nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến trong hoài niệm của tác giả. Và ở khổ thứ nhất tác giả đã làm nổi bật bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh người lính dũng cảm, hào hùng nhưng cũng rất lãng mạn, hào hoa.

Ở hai câu thơ đầu tiên đã khơi nguồn nỗi nhớ về đoàn binh Tây Tiến:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

"Sông Mã", "Tây Tiến" là những địa danh gắn bó với biết bao kỉ niệm thân thương của tác giả. Vừa đọc lên đã khiến thi nhân thấy thương, thấy nhớ. "Sông Mã" đó là con sông chảy dọc theo chặng đường hành quân của những người lính. Còn "Tây Tiến" gợi nhắc đến đoàn binh một thời gắn bó chiến đấu cùng tác giả. Thế nhưng hai tiếng "xa rồi" như một tiếng thở dài đầy xót xa vì tất cả giờ chỉ còn là trong kí ức. Không chỉ nhớ về "Sông Mã", "Tây Tiến" mà Quang Dũng còn nhớ về núi rừng miền Tây một thời gắn bó. "Nhớ chơi vơi" đó là nỗi nhớ rất rộng và sâu không gì có thể đong đếm được. Vậy chỉ qua hai câu thơ, độc giả đã phần nào cảm nhận được nỗi nhớ của thi nhân về những kỉ niệm ấm áp bên đoàn quân Tây Tiến.

Những câu thơ tiếp theo đó là kí ức chân thực của tác giả về con đường hành quân đầy gian khổ và hình ảnh người lính:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

Bằng bút pháp tả thực nhà thơ Quang Dũng đã gợi lên những khó khăn nơi rừng núi miền Tây. "Sài Khao", "Mường Lát" là những địa danh quen thuộc trên cung đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến. Họ phải chịu đựng thời tiết khắc nghiệt, lạnh giá của sương giá, mưa rét. Con đường người lính đi không bao giờ là dễ dàng mà có vô vàn trắc trở. Những từ láy cực tả như "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" đã tô đậm sự hiểm trở, nguy nan. Câu thơ "Heo hút cồn mây súng ngửi trời" đã diễn tả độ cao chót vót của núi rừng miền Tây, tưởng như mũi súng đã chạm đến bầu trời. Không chỉ vậy, việc sử dụng từ "ngửi" còn phần nào thể hiện tâm hồn lãng mạn, hóm hỉnh của người lính. Câu thơ "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" như nhấn mạnh sự nguy hiểm tột cùng của con đường hành quân. Đối mặt với chặng đường hành quân có nhiều vất vả nhưng những người lính vẫn luôn dũng cảm, kiên cường. Tuy nhiên, họ cũng có lúc mệt mỏi "gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đây là một nét bút tả thực sự hi sinh của người lính trên con đường hành quân. Qua đó, tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương dành cho những người lính.

Bốn câu thơ cuối ở khổ đầu, nhà thơ một lần nữa mở ra bức tranh thiên nhiên miền Tây:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

Thiên nhiên miền Tây mở ra ở chiều kích thời gian: chiều chiều, đêm đêm. Cái huyền bí, linh thiêng đã ngự trị ở chốn này từ ngàn đời khiến cho con người không khỏi cảm thấy rợn ngợp và sợ hãi. Nhà thơ đã miêu tả ấn tượng về rừng miền Tây được bộc lộ qua những âm thanh đầy dữ dội. "Thác gầm thét" đó là âm thanh vừa linh thiêng, vừa dữ dội của rừng già dội xuống từ vòm cao thăm thẳm. Còn "cọp trêu người" là âm thanh rùng rợn và bí ẩn vọng lên từ bề sâu mênh mông của rừng già. Vậy thiên nhiên miền Tây hiện lên vừa huyền bí, đầy bất trắc và thử thách ý chí con người. Nhưng những câu thơ sau lại như một nốt trầm xao xuyến, gợi vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên miền Tây. "Nhớ ôi Tây Tiến", "Mai Châu mùa em" gợi lên tâm hồn lãng mạn của người lính. "Cơm lên khói" và "mùa em thơm nếp xôi" gợi tình người thơm thảo nơi núi rừng hoang sơ.

Bằng việc sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình, phối hợp với thanh điệu tinh tế sáng tạo, nhà thơ Quang Dũng đã làm nổi bật bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến. Đoạn thơ đã để lại cho người đọc dấu ấn đẹp đẽ về những người chiến sĩ Hà Thành. Dù trải qua bao nhiêu gian truân, họ vẫn cố gắng chiến đấu bảo vệ hòa bình cho Tổ Quốc. Chính tinh thần đó đã giúp chúng ta có cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay. Vậy nên mỗi người cần biết trân trọng và khắc ghi công lao đó.

Phân tích khổ 1 Tây Tiến mẫu số 5

Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.

Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đột xuất mà vẫn là sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.

Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh mông.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi nhớ… nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữa, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.

Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội ấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ, khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với bao kỷ niệm chồng chất, ào ạt xô tới:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cái mệt mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại có một cái rất thơ, dường như huyền thoại:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi. 

Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn sương vẫn cảm thấy hoa. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân dường như đã tan biến hết. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người, khác với:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời mà là “súng ngửi trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm hỉnh.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng ngay sau đó lại là một câu thơ toàn vần bằng. Xuân Diệu trước đây cũng chỉ viết được hai câu toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:

Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.

Còn Quang Dũng trong Tây Tiến đã có khá nhiều câu thơ hầu hết là vần bằng, chất tài hoa của ông bộc lộ ở đó.

Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” không thể nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy.

Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế của tác giả bắt rất nhạy từ một làn sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt, rồi ông thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một nỗi niềm bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp.

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nên thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ không gì khuất phục nổi.

Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng cũng rất bình thản. Những chiến sỹ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa quen chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió. Hình như tác giả không muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về những hiểm nguy ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” - có một cái gì đó rất nghịch ngợm, rất lính. 
Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:

Ôi nhớ Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. Hương thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương từ đôi bàn tay em - cô gái Mai Châu.

Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không bi lụy, mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh mới mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.

Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.

Tham khảo thêm: Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài văn phân tích 14 câu đầu Tây Tiến ngắn nhất mẫu số 6

    Tây Tiến bài thơ được viết trong giai đoạn nước nhà căng mình để chiến đấu chống thực dân Pháp. Bài thơ giúp người đọc cảm nhận được tình đồng đội trong thời chiến, nhớ binh đoàn hùng mạnh Tây Tiến đặc biệt là trong đoạn đầu tiên. Nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Nhớ về con sông Mã thân thương, rừng núi bạt ngàn. Tình cảm nhớ nhung ở đây khó có thể diễn đạt, lâng lâng đó là nỗi nhớ “chơi vơi”, hai từ nhớ liên tiếp lặp lại thể hiện cảm xúc trong đoạn đầu tiên đó là sự hoài niệm, cảm xúc nhớ thương da diết với con sông Mã và thiên nhiên miền Tây.

Tiếp tục trong 2 câu thơ tiếp theo là các địa danh binh đoàn từng ghé thăm đó là Sài Khao, Mường Lát. Những chiến sĩ phải vượt qua muôn vàn khó khăn hiểm trở trên đường hành quân, những địa danh nghe xa lạ như nói lên sự hiểm trở, khó nhọc, đi đến nơi cũng là khi “đoàn quân mỏi”, sự mệt nhọc nhưng vẫn phải hành quân trong điều kiện khắc nghiệt của thời tiết “sương lấp”. Đâu đó có những hình ảnh hoa trong đêm nói lên sự lãng mạn của những người lính.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Hành trình của những người lính chẳng khác gì chuyến đi sinh tử, với địa hình vô cùng khắc nghiệt. Những dốc lên như dựng đứng, còn dốc xuống heo hút tựa như vực thẳm, chỉ những sai sót có thể trả giá bằng tính mạng. Khó khăn thử thách là như thế nhưng người lính luôn quyết tâm, hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện đầy sự lãng mạn, yêu đời của những binh đoàn Tây Tiến.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Trong những cuộc hành quân đó tác giả đã chứng kiến nhiều người kiệt sức đến nỗi “không bước nữa”, thực tế khắc nghiệt của chiến tranh đã có rất nhiều các chiến sĩ mãi mãi nằm lại trên con đường hành quân, hành trang của họ vẫn còn đó là “súng”, “mũ”, các chiến sĩ nằm lại nhưng vẫn bi tráng và trong tư thế người chiến sĩ. Tác giả nhớ về họ như những người anh hùng và không quên cảm phục tinh thần của những người lính cụ Hồ, cuộc đời dành cả tuổi thanh xuân tươi đẹp để cống hiến cho độc lập của đất nước, dân tộc.

Trong hai câu thơ cuối của đoạn 1 tác giả thể hiện cảm xúc tình cảm dạt dào với địa danh nổi tiếng Mai Châu:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Dừng quân nghỉ ngơi sau quãng đường hành quân mệt mỏi, khó nhọc. Những chiến sĩ Tây Tiến và bà con Tây Bắc như trở thành một nhà, quây quần cùng nhau bên nồi cơm đang lên khói. "Nhớ ôi" là từ cảm thán thể hiện nỗi nhớ tha thiết, mãnh liệt. Những hình ảnh cơm lên khói, thơm nếp xôi là những hương vị đặc biệt của Tây Bắc thể hiện tình cảm khăng khít, thủy chung với đồng bào nơi đây đối với cách mạng. Chắc chắn những kỉ niệm trên sẽ không thể phai nhòa trong tâm trí những người chiến sĩ Tây Tiến.

Đoạn 1 chỉ vỏn vẹn 14 câu nhưng đã giúp người đọc hiểu hơn thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng. Đồng thời thể hiện sự gắn bó với thiên nhiên và con người Tây Bắc đó cũng chính là tấm lòng yêu đất nước của tác giả.

>>> Có thể bạn quan tâm: Văn mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài văn phân tích khổ 1 Tây Tiến mẫu số 7:

   “Có một bài ca không bao giờ quên…”

Và cũng có một bài thơ như thế, những năm tháng như thế, khắc sâu vào tiềm thức bao nhiêu thế hệ người Việt ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai. Đó là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước và cả sự chiến đấu và hy sinh cao cả, trong đó đẹp nhất là hình ảnh người lính. Có rất nhiều bài thơ khai thác đề tài này, và bài “Tây Tiến” của Quang Dũng được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất. Bài thơ là nỗi nhớ về một thời chiến đấu gian khổ nhưng anh hùng của chính nhà thơ bên cạnh đoàn quân Tây Tiến.

Đoàn quân Tây Tiến tập hợp lực lượng đông đảo tầng lớp thanh niên khắp các phố phường Hà Nội. Họ rời bỏ chốn ngàn năm văn hiến vì lý tưởng chung của dân tộc lúc bấy giờ: “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Những chàng trai từ nông dân đến tri thức, từ đồ tể đến cả bác sỹ tất cả làm thành đội quân “Tây Tiến” hoạt động ở biên giới Lào để bảo vệ yên bình cho nơi này. Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Quang Dũng phải chuyển đơn vị sang Phù Lưu Chanh (Hà Tây), nhưng những ngày chiến đấu qua chưa lâu, Quang Dũng cồn cào nhớ về Tây Tiến đó là khơi nguồn cảm hứng của bài thơ.

Đoạn thơ khởi đầu bằng một nỗi nhớ bật lên thành lời:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi"

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được. Ngày xưa lại ùa về trong lòng. Biết bao là gắn bó với đồng đội cũng như là gắn bó với những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. Trải qua một thời càng khó khăn như thế thì nỗi nhớ càng đong đầy càng sâu sắc.

Khi nhắc tới Tây Tiến thì lại gắn với sông Mã, nó không chỉ là một chứng nhân của ngày tháng hào hùng mà còn ôm trong lòng bao vui buồn của đoàn quân. Vần ơi và dấu chấm than ở cuối cùng là cho câu thơ trở nên âm vang và có sức lan tỏa mạnh mẽ, khẳng định ấn tượng về một chốn rừng núi khắc nghiệt chẳng thể phai mờ. “Xa rồi” như một tiếng thở dài đầy tình cảm, nỗi nhớ dâng tràn:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Một nỗi nhớ hiện lên không hình, không tượng, không thể diễn tả được bằng lời, nó như tràn ra không gian xoáy vào lòng người. Người chưa từng trải qua thì không thể có được nỗi nhớ ấy. Với nỗi nhớ da diết một lần nữa vần ơi hô ứng ở Tây Tiến ơi của “nhớ chơi vơi” lan rộng, vọng vào thời gian năm tháng. Trong ca dao cũng có một nỗi nhớ như thế:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi.”

Thông thường, khi người ta nhớ thì thường gợi lên kỷ niệm nhưng đến với Quang Dũng thì chốn núi rừng lại hiện lên thi trung hữu họa.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Đọc đoạn thơ không cần suy ngẫm về nội dung của nó. Ta cũng có thể nhận ra nét vất vả gian truân của con đường hành quân nhờ vào thanh điệu. Kết cấu với nhiều vần trắc trải dài vô tận làm con đường hành quân sao mà gập ghềnh quá. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng có những câu thơ:

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non.

Gan không nản chí không mòn.

Nếu Tố Hữu miêu tả thẳng cảnh sống của người lính thì Quang Dũng không làm thế. Nhà thơ tập trung vào thiên nhiên và qua đó người đọc hình dung được đời người lính Tây Tiến là như thế nào.

Nhà thơ đưa ra một loạt địa danh không chỉ gợi lên bao nỗi nhớ thương mà còn gợi lên những chốn thâm sơn cùng cốc. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày. Như thực như mộng, lúc này đoàn quân dường như đã quá mỏi mệt có thể ngã xuống, chìm vào trong sương bất cứ lúc nào với những cuộc hành quân đã qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối phía trước. Nhưng một câu thơ nhiều vần bằng lại làm cho tinh thần sức mạnh như vút cao lên.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Một câu thơ giảm đi cái mỏi mệt tiếp sức đoàn quân tiếp tục trên con đường còn lắm gian nan với dốc thì “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, "heo hút”. Toàn những từ láy tượng hình có sức gợi cảm cao làm cho con đường hành quân trở nên khó khăn vất vả hơn bao giờ hết. Điệp từ dốc diễn tả sự trùng trùng điệp điệp của dốc núi thẳng đứng, cheo leo. một khung cảnh hoang vu, xơ xác nhưng kì vĩ và hoành tráng vô cùng. Hai từ “heo hút” làm khung cảnh trở nên vắng vẻ hiểm trở. Cụm từ “súng ngửi trời” rất giàu chất thơ, lại miêu tả được độ cao đến ngất trời của núi rừng Tây Bắc. Cao đến nỗi mà người lính đứng trên đỉnh núi mà cảm nhận được chạm được tới bầu trời.

Đúng là trong thơ có họa, Quang Dũng miêu tả chân thực tới mức mà núi cao vực thẳm sương mờ cứ sống dậy trước mắt người đọc. Mặc dù khó khăn là thế nhưng những người lính này là thanh niên với tâm hồn còn rất chi là mơ mộng, và còn nét tinh nghịch của tuổi trẻ. Đứng trên cồn có mây che mà tưởng như mình đang đứng trên mây.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.

Một câu thơ như bẻ đôi ra vừa diễn tả được độ cao ngất trời với sườn cheo leo vừa tạo được độ sâu thăm thẳm.
Năm câu thơ đọc lên mà “vừa nghe đã muốn mòn chân, mỏi gối” (Trần Lê Văn) mới biết được cái tài tình trong thơ Quang Dũng. Nhưng khó khăn gian khổ là thế tất cả trở nên nhẹ nhõm đi rất nhiều nhờ một câu thơ toàn vần bằng:

"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Khi đã lên đến đỉnh núi cao, những người lính mở rộng tầm nhìn ra xa tới các bản làng ẩn hiện trong sương. Làm ấm lòng người lính đã quá mệt mỏi. Họ nhìn vào đó để tiếp thêm sức mạnh mà chiến đấu, vì họ đang chiến đấu để bảo vệ cho nơi đó. Khó khăn tràn ngập là thế vậy thì người lính sẽ như thế nào:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Quang Dũng nói lên sự thực trên con đường Tây Tiến, bao người chiến sĩ đã nằm lại bên đường. Những nấm mồ mọc lên giữa núi rừng không một nén nhang cảm giác thật lạnh lẽo và hiu quạnh. Gian khổ khó khăn của đường hành quân, của nơi xứ lạ thử thách những chàng trai thành phố biết mấy. Có những người vượt qua được nhưng không ít người không thể. Họ chết không phải vì súng đạn quân thù mà vì căn bệnh sốt rét rừng và muôn vàn mưa nắng dãi dầu khó khăn gian khổ, chịu hết thử thách này tới thử thách khác nhưng chẳng nề hà. Trong bài “Đồng chí”, Chính Hữu cũng đã từng nói tới:

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Người lính chết đi nhưng cũng chết cho ra dáng người lính “gục lên súng mũ” đó là khí thế của người lính Việt Nam.

Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng lên tì súng lên xác trực thăng. 

Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

(Dáng đứng Việt Nam)

Gục lên súng mũ là cách nói của những chàng thanh niên Hà Nội giúp làm giảm đi nỗi đau của cái chết và nỗi tang thương đi rất nhiều. Người lính ra đi nhưng đồng đội của anh lại tiếp tục tiếp bước. Thiên nhiên lại tiếp tục thử sự chịu đựng của người lính với những nỗi đe dọa đến tính mạng:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm về Mường Hịch cọp trêu người

Mối nguy hiểm hiện ra xung quanh không chỉ theo thời gian mà còn theo không gian. Cảnh tượng này không phải những người lính mới gặp lần đầu mà họ đã quen với nó. Dường như chiều nào tiếng ghê rợn ấy của núi rừng cũng đều vọng lại đều đặn, nên giờ đây khi họ nghe thấy tiếng thú dữ, tiếng thác gầm họ không còn sợ nữa. Họ xem đó là một thú vui trên đường dài vất vả. Từ “trêu” thể hiện rõ điều này.

Đối mặt với cuộc sống gian khó là thế nhưng những chàng trai Hà Nội vẫn cứ vươn lên và vượt qua tất cả để bước tiếp trên con đường họ đã chọn, không ngại ngần chùng bước:

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi

Nào có xá chi đâu ngày trở về”

Đây là tinh thần chung của người lính Việt Nam cũng như những chàng trai Tây Tiến. Và như thế họ vui lên trong khó khăn với một giọng thơ đằm thắm thiết tha đầy chất thơ mộng:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Những vất vả gian truân để chỗ lại cho cảm giác đầm ấm của tình quân dân. Câu thơ như một lời động viên nhẹ nhàng tiếp sức cho người lính trên đường dài.

Khổ thơ quả là một bức tranh chân thực về cuộc sống và về chính những người lính Tây Tiến. Dù khó khăn nhưng họ đã vượt qua bằng nghị lực bằng niềm lạc quan phơi phới vốn có của tuổi trẻ. Những người lính như họ đã làm nên đất nước. Bên cạnh nội dung khổ thơ là cả một đặc sắc về nghệ thuật, cách sử dụng phối hợp nhiều câu thơ vần trắc vẽ nên khung cảnh hoang vắng cùng với sự kết hợp hài hòa với những câu thơ vần bằng giúp tạo cảm giác nhẹ nhõm. Cách dùng điệp từ và ngắt câu tạo cho khổ thơ âm hưởng lúc thì dữ dội lúc thì nhẹ nhàng. Dùng các địa danh cụ thể nghe là ta cũng biết được phần nào nỗi khó khăn.

Qua đoạn thơ, Quang Dũng thể hiện nỗi nhớ cũng như lòng tự hào của mình đối với một thời để nhớ, làm sống lại cả một thời chinh chiến gian khổ và bức tranh thiên nhiên hũng vĩ hoang sơ mà nên thơ. Để từ đó khẳng định tinh thần vượt khó cũng như những hy sinh đi vào bất tử của anh bộ đội Cụ Hồ trong cuộc kháng chiến gian khổ mà anh hùng vĩ đại.

Tham khảo thêmCảm nhận bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc qua khổ đầu bài thơ Tây Tiến

Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến mẫu số 8:

Có một người nghệ sĩ đã từng viết trong tác phẩm của mình:

“Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ

Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”

Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Đó là nỗi nhớ thương Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất của mình qua bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là nỗi nhớ thương của những kẻ đi xa qua bài thơ “Bếp lửa” - Bằng Việt, đôi khi cũng là nỗi nhớ thương tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho người bên này qua “hương bưởi” trong bài thơ “Hương thầm” - Phan Thị Thanh Nhàn. Trước những rung cảm của con tim, người nghệ sĩ dùng ngòi bút để trải lòng, viết về nỗi nhớ niềm thương nhiều như vậy. Quang Dũng - người nghệ sĩ đa tài cũng không ngoại lệ khi đặt để những tình cảm của mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”. Nổi bật trong bài thơ này là mười bốn câu thơ đầu tiên diễn tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, trữ tình cùng hình ảnh người lính Tây Tiến dũng cảm, hào hùng nhưng cũng vô cùng lạc quan, dí dỏm và yêu đời.

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Quang Dũng ghi dấu ấn của mình với hình ảnh của một người nghệ sĩ đa tài. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn mang trong mình những tài năng khác như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,… Thế nhưng xét ở mọi phương diện, điều mang người nghệ sĩ này đến gần nhất với người yêu mến mình đó chính là những thi phẩm hay. Thơ của Quang Dũng bất cứ khi nào cũng vậy, luôn lột tả một chất thơ: hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa - phong cách nghệ thuật rất riêng của một chàng trai Hà Nội khoác áo lính lên đường.

Tây Tiến” là thi phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng, được ông viết vào năm 1948 khi đang tham gia Đại hội thi đua ở làng Phù Lưu Chanh. Những ký ức quay trở lại lung linh. Vào năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến và từng giữ chức vụ đại đội trưởng. Sau đó không lâu, ông điều chuyển sang đơn vị khác. Khi những niềm thương nỗi nhớ rủ nhau về bầu bạn, Quang Dũng không thể ngăn nổi lòng mình mà viết lên bài thơ này – Bài thơ được coi là khúc độc hành của nỗi nhớ thương.

Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời chiến binh, ta chợt nhận ra, “Tây Tiến” được bắt đầu bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến như thế:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha “Tây Tiến ơi!” - đó cũng chính là cách mà Quang Dũng mở đầu bài thơ của mình. Cảm xúc hiện hình trong nỗi nhớ “chơi vơi”. Đó vừa là trạng thái của nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật được nhớ. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy. Nỗi nhớ trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi phẩm. Mạch bài thơ là mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những sực nhớ miên man, những vụt hiện bất chợt...

Cũng từ đây nỗi nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến đâu muôn vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ mà những hình ảnh của những ngày qua cồn cào sống dậy. Chính nỗi nhớ “chơi vơi” đã dẫn ngòi bút tác giả đi miên man trong thế giới thơ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả thời đại, của cả dân tộc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động gắn với một đời chiến binh nay cũng đã xa rồi, binh đoàn Tây Tiến cũng đã xa rồi, tất cả chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có thể thấy từ “xa rồi” cũng chính là điểm rơi thấp nhất của câu thơ này, nó giống như một khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm chỉ giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm xúc đong đầy.

Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Giữa khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. Chỉ với hai câu thơ đầu tiên, những ký ức gắn với binh đoàn đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành quay về với những ký ức, nhà thơ Quang Dũng thêm một lần đi lại những con đường đã qua.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha trìu mến ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan tỏa như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đẫm kỷ niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những kỷ niệm trong bao chặng được hành quân vất vả.

Và ở câu thơ tiếp theo này, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung Thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trung, tâm trí người đọc.

Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc trở về với sự cân bằng. Không gian được liên tưởng tới là địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức mạnh. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

“Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận. Còn trong thơ Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của một bài thơ tứ tuyệt, đặc tả bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập ghềnh cũng được vẽ ra một cách chân thực ở đoạn thơ này. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Những con dốc là hình ảnh đầu tiên được đề cập tới.

Những con dốc được miêu tả bằng từ láy tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng tới địa hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai miêu tả độ cao của những ngọn núi nơi đây.

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với những khoảnh khắc tinh nghịch, dí dỏm, đậm chất lính. Đường hành quân dài thăm thẳm muôn trùng, có khoảnh khắc đi lên cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là nguyên cớ có hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”. Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng. Nó rất giống với liên tưởng trong thơ của Chính Hữu:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

(“Đồng chí”)

Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét tinh nghịch của anh bộ đội cụ Hồ chính là điểm nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", khiến người đọc dường như đang chơi một trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ đe dọa bởi địa hình hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những chặng đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy, người chiến binh Tây Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình hay không?

Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính dẫn chặng đường hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại trong những vần thơ của mình:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ "gục" có phần nặng nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên một sự đối chiếu thầm lặng để rồi từ đó tôn vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía, mọi nơi

Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe dọa bởi thác dữ, thú rừng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này chứng tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào cũng như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc những bữa ăn của đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng, để rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn thấy vương vấn đâu đây nếp nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.”

Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có tên nghe thật mềm mại, êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu” nếu như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng “Lai Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần. Đặc biệt lưu ý, ở trong câu thơ cuối có một danh từ nghe rất lạ, đó là “mùa em”. Đất trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng lại có một mùa thật lạ đó là mùa em. Mùa em là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự đủ đầy.

Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hòa bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

Cái hay của nhà thơ là bên cạnh những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.

Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm những điều ẩn phía sau của “đoàn binh không mọc tóc” và hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận chiến. Yêu quý, khâm phục, tự hào là những dư vang tha thiết trong lòng người đọc khi biết về binh đoàn Tây Tiến qua vần thơ của Quang Dũng. Xin được mượn lời thơ của Giang Nam để thay lời kết cho bài viết này, có lẽ Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết bao người yêu mến nhà thơ Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến”:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông”

Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến mẫu số 9:

Nước chúng ta

“Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đât
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.

Người lính cách mạng vẫn thường hiện lên trong ký ức những người con đất Việt với niềm tự hào và xúc động mãnh liệt nhất. Ta đã tìm thấy anh giữa đoàn quân trùng trùng ra trận, ta đã nhận ra anh giữa chiến trường lửa đạn. Có người lính lam lũ, hiền lành trong thơ Chính Hữu, có người lính sôi nổi, trẻ trung trong thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng chưa ở đâu, người lính lại hài hòa bi tráng như trong Tây Tiến của Quang Dũng. Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời lên giữa âm u, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, đặc biệt là trong khổ thơ đầu.

Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã chuyển về đơn vị mới. Nhớ về một thời oanh liệt đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây Tiến cháy lên trong lòng tác giả. Đó là cảm hứng của những chàng trai Hà Nội từ giã quê hương lên đường đi kháng chiến, đó là kí ức của một đất nước những năm đầu Cách mạng, đất nước với cảnh núi non hùng vĩ nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ đi, có lẽ cũng bởi bao trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng.

Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vần thơ tươi thắm nhất của lòng mình. Hình ảnh người lính hiện về trong hồi ức nhà thơ như một biểu tượng xa vời trong không gian và thời gian. Kỉ niệm về người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để khi nhìn lại, nỗi nhớ bỗng bật ra thành lời:

“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”

Sông Mã trong ký ức Quang Dũng và những người đồng đội là nơi xuất phát kỉ niệm, khởi đầu của một chặng đường gian khổ, là cái gốc nỗi nhớ trong miền ký ức rất riêng của cuộc hành quân chiến đấu những người lính năm xưa. Dòng sông Mã ấy như một nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo từng bước chân của người lính; “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng kí ức vẫn còn rõ rệt lắm! Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi” dâng lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào của cảm xúc nỗi nhớ. Nỗi nhớ vang vọng lên, khắc sau tình cảm nhớ thương của người chiến sĩ năm nào. Điệp từ “nhớ” đi liền với tính từ “chơi vơi” xoáy sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt như một cái thác lũ trong ký ức Quang Dũng. Nỗi nhớ cuộn trào trong tâm hồn nhà thơ, đẩy ông vào trạng thái hư ảo, triền miên của ký ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai trận chiến ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ chơi vơi.

Chơi vơi! Một nỗi nhớ thật lạ lùng! Xuân Diệu hình như cũng từng chơi vơi trong nỗi nhớ như thế:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.

“Nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ nhẹ tênh mà nặng vô cùng, lơ lửng, vương vấn trong tâm hồn, bao la bát ngát lại có chiều sâu. Nếu nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu là tình cảm lứa đôi thì điểm đến của nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng là tình cảm thiêng liêng, dữ dội dành cho mảnh đất Tây Bắc nhớ thương. Âm hưởng của câu thơ trong cách sử dụng vần giữa “chơi vơi” và “ơi” tạo lên một hiệu quả ngữ âm trọn vẹn. Nó lan tỏa, ngân dài từng tiếng vọng vào vách đá để rồi vang lại vào tâm hồn người đọc xúc cảm thiêng liêng mà Quang Dũng dành trọn cho Tây Tiến. Cũng bằng tình cảm thiêng liêng ấy, Quang Dũng đưa người đọc đến với những kỉ niệm đã lùi vào quá vãng, đến với âm u khắc nghiệt của núi rừng, đến với cái can đảm, hào hùng của người chiến sĩ.

Là người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến tranh, hơn ai hết, Quang Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ nơi biên cương:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân nếm trải là màn sương dày đặc ở bản làng Sài Khao. Nó bao phủ, che mờ tầm nhìn của đoàn quân, nó thấm vào từng thớ thịt lạnh buốt. Sương giá khiến đoàn quân lãnh lẽo, thấm mệt. Những khắc nghiệt của tự nhiên không làm tinh thần người chiến sĩ nao núng. Tình yêu nước đã khiến những chàng trai Hà thành thêm quật cường, bất khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy mệt mỏi gian lao. Trên chặng đường hành quân xưa của Chế Lan Viên sương giá cũng là một kí ức thấm đượm nỗi nhớ:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”

Chế Lan Viên với Quang Dũng đã gặp nhau ở một ý thơ, một nỗi nhớ gọi lên trong ta cảm tưởng họ đang cùng hành quân trên một chặng đường. Nhưng người lính đó dẫu có là ai, chiến đấu ở đâu thì họ đều vượt qua khắc nghiệt tự nhiên rồi bừng sáng lên vẻ đẹp hùng dũng, kiên cường. Quang Dũng là một cây bút lãng mạn, hào hoa, cách sử dụng từ ngữ của ông mang nhiều lớp nghĩa. Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy theo cách hiểu của mỗi người lại mang một sắc thái độc đáo. Đó có thể là hình ảnh người con gái Tây Bắc, cũng có thể là sự mỏi mệt trên đường hành quân khiến người chiến sĩ hoa mắt. Hoặc, “hoa về” là ánh sáng lấp lánh của ngọn đuốc trong cảnh chập tối mờ hơi sương. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh thưo Quang Dũng vẫn thật đẹp đẽ, thi vị, sáng ngời. Câu thơ xóa tan mỏi mệt để đoàn quân tiếp bước. Khó khăn này chưa qua thì khó khăn khác đã đến:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.

Ta cảm nhận được cái thô ráp, gồ ghề trong câu thơ như chính hình thể gập ghềnh, cheo leo của dốc núi. Một hiện thực khắc nghiệt của vùng cao Tây Bắc. Bức tranh hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút được lột tả thành công dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng. Đó là con dốc khúc khuỷu, gập ghềnh, hiểm nguy mà đoàn quân phải đối mặt, con dốc thăm thẳm không có điểm dừng, triền miên kéo dài như cuộc kháng chiến chống Pháp bấy giờ. Nó cũng xa xôi như ngày đất nước độc lập, song gian khổ không làm khó được người chiến sĩ, họ vẫn lạc quan, quật cường vững bước. “Heo hút cồn mây” sao mà lại lắng lặng, hoang sơ thế! Ấy vậy mà Quang Dũng vẫn lột tả rõ nét sự tinh nghich, trử trung qua cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời”. Đó là cách sử dụng từ táo bạo, sôi nổi, lạc quan đậm chất người lính. Thử hỏi trong cảnh gian nan, mệt mỏi ấy mấy ai còn giữ được phong thái tự tin, yêu đời như vậy?

Bên cạnh hiểm nguy, người lính với tư thế oai phong vẫn dũng cảm chinh phục, để đến khi đứng trên đỉnh núi cao họ nhìn lại chặng đường gian khổ mình từng trải qua:

“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Một sự đối lập kín đáo trong câu thơ cũng như trong tâm hồn người chiến sĩ. Trải qua bao thăng trầm hiểm trở anh vệ quốc quân đã đặt chân lên đỉnh dốc. Điệp từ “ngàn dốc” mở ra một khoảng không gian đa chiều, vừa gợi lên cái hoang sơ, vừa đặc tả vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng Tây Bắc. Sau tất cả những dồn dập, va vấp người chiến sĩ lắng lại một miền đất lãng mạn “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thanh bằng trong từng từ trải dài làm cả câu thơ mênh mang lắng đọng tạo nên một bức tranh núi rừng phủ mưa trắng xóa. Vượt qua mọi gập ghềnh trước mắt, người lính bắt gặp những ngôi nhà ở Pha Luông, được chứng kiến cuộc sống con người đang hiện hữu. Lẫn trong màn mưa rừng bản làng hiện lên trầm mặc, lấp ló. Nếu ở Mường Lát người lính bị sương giá làm cho lạnh lẽo thì ở đây, đối mặt với cơn mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên gấp bội. Trên con đường hành quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi mãi nằm lại những mảnh đất xa lạ:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.

Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm nên lịch sử, góp phần vào sự trưởng thành của đất nước, họ cũng chính là những con người “sinh ra trong thời đại của anh hùng”. Tất cả thương mến, tự hào dành cho đồng đội dường như đã được Quang Dũng gửi gắm trọn vẹn trong từ “anh bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc nghiệt của thiên nhiên núi rừng người chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng không vì thế mà bài thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi trong một tư thế rất đỗi hào hùng:

“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.

Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn nặng nề, giảm nhẹ đau thương và mất mát. Quang Dũng viết về anh như viết về một đất nước dẫu có mưa bom bão đạn cũn không chịu cúi đầu: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ là những chàng trai còn mang trong mình ước mơ và hoài bão tuổi trẻ. Vậy mà giờ đây, họ hy sinh vì lý tưởng chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng thường tình của chàng trai trẻ. Người lính xé toạc thanh xuân, xé toạc cuộc đời mình để ghép vào bức tranh hòa bình đất nước:

“Ta sẵn sàng xé trái tim ta

Cho Tổ quốc và cho tất cả”

Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu vì quê hương nên cái chết cũng nhẹ nhàng như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi sinh là bấy nhiêu sự hào hùng, can đảm ta được chứng kiến:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.

Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước. Họ hiên ngang, đường hoàng khi ra trận và cũng hào hùng khi ngã xuống cũng bởi:

“Ta hiểu vì sao ta chiến đấu

Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.

Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì độc lập, vì tự do của nhân dân Việt Nam anh nguyện hiến dâng tính mạng thực hiện lý tưởng cao đẹp ấy. Người chiến sĩ nằm lại nhưng đồng đội anh vẫn tiếp bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Cảnh chiều tà luôn khiến lòng người chứa chan nỗi niềm tâm sự. Giữa núi rừng hoang sơ, cạnh anh là những người đồng đội xa quê chất chứa nỗi nhớ quê hương. Khó khăn vất vả cộng hưởng nỗi nhớ nhà để khiến người ta nhụt chí nhưng với anh lính Tây Tiến nó không những không ngăn được lý tưởng cách mạng, ngược lại còn là động lực thôi thúc anh mạnh mẽ hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả khắc nghiệt và dữ dội về một miền đất âm u, khắc khổ. Địa danh “Mường Hịch” được sử dụng rất khéo, rất tài tình, nó nghe nặng nề đáng sợ như bước chân thú dữ khiến cảnh sắc núi rừng trở nên thật hoang sơ lạnh lẽo. Rừng núi trùng điệp nhưng cũng khắc nghiệt biết bao!

Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong tâm hồn những chàng trai trẻ Hà Nội nét hào hoa, lãng mạn vốn có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn vẫn chẳng hề mất đi dọc cuộc hành trình:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Hai tiếng “nhớ ôi” thốt ra bằng tất cả nỗi niềm kìm nén. Lắng đọng lại những kỉ niệm tình người ấm áp, tình quân dân đằm thắm qua những bản làng dọc đường hành quân. Sau bao nhiêu gian khổ khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc, người chiến sĩ dừng lại tại Mai Châu. Quây quần bên nồi xôi nếp mới với các cô gái bản làng xinh đẹp khiến bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn bỗng chốc được xua tan, trả lại người lính nét can đảm hùng tráng vốn có. Phải trải qua quãng đường trường chinh, gian khổ, phải là những con người “chẳng tiếc trời xanh” như Quang Dũng thì mới có thể viết nên những vẫn thơ kiêu hùng đến thế. Ông vẽ nên người lính Tây Tiến trong những năm tháng khói lửa với một niềm xúc động thiêng liêng nhất. Bao nhiêu năm kháng chiến là bấy nhiêu năm chiến đấu trường kì gian khổ. Cũng từ đó hiện lên hình tượng người lính Tây Tiến bất khuất, kiên trung giữa khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc.

Hôm nay, đọc lại những vần thơ “Tây Tiến” chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ oanh liệt của dân tộc, về người lính chống Pháp bi tráng, can đảm mà còn phải ý thức trách nhiêm với non sông đất nước bởi những người lính đã ngã xuống để bảo vệ hai tiếng “độc lập” vẹn nguyên. Ta nợ anh một lời cảm ơn, một tấm chân tình, ta nợ anh cả cuộc đời tốt đẹp:

“Kính chào anh, con người đẹp nhất

Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất

Sống hiên ngang, bất khuất trên đời

Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.

(Tác giả: Khánh Huyền)

-/-

Trên đây là tài liệu phân tích đoạn 1 Tây Tiến của Quang Dũng bao gồm hướng dẫn làm bài chi tiết cùng những bài văn hay nhất được Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Các em có thể xem thêm nhiều bài hướng dẫn Văn mẫu 12 khác được cập nhật đầy đủ và liên tục tại Doctailieu.com. Hy vọng bài viết sẽ mang lại những kiến thức hữu ích giúp các em trong quá trình viết bài cũng như ôn luyện tác phẩm Tây Tiến. Chúc các em học tốt!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM