Trang chủ

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

Xuất bản: 03/07/2023 - Cập nhật: 04/07/2023 - Tác giả:

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín gồm dàn ý và những bài văn mẫu tuyển chọn giúp học sinh hiểu cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước

Hướng dẫn phân tích bài thơ Mùa xuân chín

I. Khổ 1 Mùa xuân chín

1. Vẻ đẹp của hình ảnh thơ

* Các hình ảnh thơ:

- Làn nắng ửng: ảnh nắng nhẹ, tươi tắn của mùa xuân.

- Khói mơ tan: làn khói nhẹ, mơ màng.

- Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng: hình ảnh những mái nhà tranh với sắc vàng lấm tấm.

- Tà áo biếc: tà áo màu xanh biếc hoặc có thể hiểu màu xanh của thiên nhiên như tấm áo.

- Giàn thiên lí: mùa xuân đến cùng giàn thiên lí thắm tươi.

* Bức tranh xuân hiện lên với diện mạo tươi tắn:

- Màu sắc được miêu tả cụ thể.

- Các sự vật sống động.

⇒ Thiên nhiên mùa xuân được miêu tả như một người thiếu nữ ngập tràn tình xuân rạo rực.

2. Vẻ đẹp các kết hợp từ của ngôn ngữ thơ

- Các kết hợp từ: làn nắng ửng, khói mơ tan, mái nhà tranh lấm tấm vàng, tà áo biếc là những kết hợp danh từ, tính từ độc đáo.

⇒ Hệ thống các tính từ đặc sắc đã miêu tả sắc xuân sinh động, phong phú.

3. Vẻ đẹp của các yếu tố nghệ thuật

- Nhịp điệu, cách gieo vần

+ Nhịp điệu: 4/3.

+ Gieo vần chân, vần lưng linh hoạt, tự do tạo không khí phóng khoáng cho bức tranh thiên nhiên rực rỡ sắc xuân.

- Các biện pháp tu từ:

+ Nhân hóa: gió trêu. Có thể hiểu "gió" là một chàng trai đa tình.

+ Đảo ngữ: sột soạt gió trêu tà áo biếc nhằm nhấn mạnh âm thanh sột soạt của gió.

+ Hoán dụ: tà áo biếc – hình ảnh con người. Có thể hiểu đây là hình ảnh người con gái thẹn thùng trong tà áo biếc.

- Các yếu tố từ, câu:

+ Từ láy: lấm tấm, sột soạt → gợi hình, tạo liên tưởng cho người đọc về một mùa xuân sinh động.

+ Câu đặc biệt: Trên giàn thiên lí. → không phải một trạng ngữ chỉ nơi chốn, giàn thiên lí là sự vật hiện tượng trong mỗi bước xuân sang.

⇒ Khổ thơ miêu tả sự hiện diện của mùa xuân đã, đang len lỏi trong từng cảnh vật qua cách cảm nhận của một tâm hồn thi sĩ tài hoa với niềm yêu đời tha thiết.

II. Khổ 2 Mùa xuân chín

1. Vẻ đẹp của hình ảnh thơ

- Các hình ảnh thơ:

+ Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời: cỏ mùa xuân tươi tắn như chuyển động thành làn sóng trải rộng trong không gian, mở biên độ tới chân trời.

+ Bao cô thôn nữ hát trên đồi: những cô thôn nữ đang độ xuân thì phơi phới. Họ tặng cho cuộc đời những tiếng hát của tuổi trẻ đầy hi vọng.

+ Đám xuân xanh: những con người tuổi xuân thì trẻ trung.

+ Kẻ theo chồng: những người thiếu nữ lấy chồng.

- Nhận xét về hình ảnh thơ:

+ Thiên nhiên và con người mang vẻ đẹp của độ xuân thì rạo rực, căng tràn sức sống.

+ Thiên nhiên và con người không nằm ngoài dòng chảy của thời gian và những quy luật của cuộc đời, hình ảnh thơ vận động từ những cô thôn nữ theo thời gian trở thành người phụ nữ theo chồng.

2. Vẻ đẹp các kết hợp từ của ngôn ngữ thơ

- Kết hợp hai danh từ sóng và cỏ tạo nên hình ảnh sống động, gợi sự vận động của thiên nhiên, kích thích những tưởng tượng thị giác.

- Sóng cỏ - nghĩa là sự rung động của cỏ. (Chu Văn Sơn) → Tình xuân chất chứa bên trong sự vật và ứa tràn ra bên ngoài thành những chuyển động đến tận chân trời.

3. Vẻ đẹp các yếu tố nghệ thuật

- Nhịp điệu, cách gieo vần:

+ Chủ yếu cách ngắt nhịp 4/3 (câu 1, 2, 4), xen lẫn cách ngắt nhịp 2/2/3 (câu 3)

+ Gieo vần chân.

4. Cái tôi trữ tình

- Nhân vật trữ tình mang trong mình niềm yêu rạo rực trước mùa xuân, tình xuân.

- Nhân vật trữ tình bộc bạch cảm giác hụt hẫng, buồn tiếc khi nghĩ về tương lai.

⇒ Khổ thơ miêu tả sự vận động của mùa xuân trong lòng thiên nhiên và đồng thời miêu tả sự vận động trong lòng con người: đi từ rạo rực, xuyến xao đến cảm giác tiếc nuối, lo lắng.

III. Khổ 3 Mùa xuân chín

1. Vẻ đẹp của hình ảnh thơ

- Các hình ảnh gợi ra nhiều liên tưởng về âm thanh của “tiếng ca”:

+ Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

+ Hổn hển như lời của nước mây

+ Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

- Lấy hình ảnh gợi âm thanh là nét đặc sắc và độc đáo của ngòi bút Hàn Mặc Tử.

2. Vẻ đẹp của các yếu tố nghệ thuật

- Nhịp điệu, cách gieo vần

+ Nhịp điệu: 4/3 (câu 1, 4); 2/2/3 (câu 2, 3)

+ Gieo vần chân: núi – trúc, mây – ngây.

- Biện pháp tu từ

+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tiếng ca vắt vẻo, âm thanh được gợi tả qua hình ảnh vắt vẻo – trạng thái của sự vật ở vị trí trên cao nhưng không có chỗ dựa vững chắc, chỉ được vắt ngang qua cái gì đó... hoặc ở trạng thái buông thống từ trên cao xuống.

- So sánh tiếng ca hổn hển như lời của nước mây thể hiện tiếng hát rạo rực, vúi cao bay lên thành lời của nước mây.

⇒ Sắc xuân và tình xuân đã vào độ chín.

- Các yếu tố từ, câu:

+ vắt vẻo, hổn hển là từ láy tượng hình, diễn tả sống động trạng thái vận động của tâm hồn con người.

+ thầm thĩ là từ láy tượng thanh, vừa diễn tả âm thanh thầm thì vừa biểu hiện cảm xúc tha thiết.

- Khổ thơ như một câu văn dài miêu tả tiếng hát (chủ ngữ) và các đặc điểm của chủ thể được miêu tả bởi các vị ngữ gợi nhiều liên tưởng cả về hình ảnh và âm thanh.

3. Cái tôi trữ tình

- Nhân vật trữ tình là người lắng nghe và thu nhận tất cả những âm thanh (tiếng hát) của sắc xuân, tình xuân với một niềm nâng niu, trân trọng tha thiết.

⇒ Khổ thơ miêu tả cụ thể mùa xuân chín qua tiếng hát. Tiếng hát là kết tinh của mùa xuân chín – tình xuân nảy nở, căng tràn ở cả thiên nhiên và con người phát lộ ra thành hình ảnh vắt vẻo, hổn hển và âm thanh thầm thĩ.

IV. Khổ 4 Mùa xuân chín

1. Vẻ đẹp của hình ảnh thơ

- khách xa: người lữ khách từ xa đến, đi ngang qua.

- mùa xuân chín:

+ mùa xuân đang ở độ tươi đẹp, viên mãn nhất

+ mùa xuân đang và sẽ trôi qua, cái đẹp không tồn tại vĩnh viễn

- Chị ấy năm nay còn gánh thóc:

+ hình ảnh nhọc nhằn của lao động

+ hình ảnh thơ mộng trong kí ức nhà thơ

- bờ sông nắng chang chang: hình ảnh cái nắng vượt ra ngoài cõi xuân – xuân đã tàn.

⇒ Những hình ảnh trong khổ thơ như một cuốn phim kí ức được bật lên trong một thời điểm - mùa xuân chín, khiến người khách xa sực nhớ về quá khứ với niềm khát khao đầy nuối tiếc.

2. Vẻ đẹp các kết hợp từ của ngôn ngữ thơ

- bâng khuâng sực nhớ: hai tính từ cùng miêu tả trạng thái của nỗi nhớ đặt liền nhau đã nhấn mạnh tâm trạng nhớ nhung, luyến lưu một điều gì đến ngẩn ngơ của con người.

- lòng trí: hai danh từ miêu tả hai khía cạnh của phần tinh thần con người (cảm xúc và lí trí) đi liền nhau như biểu hiện sự đồng điệu hoàn toàn của trái tim và lí trí khi suy tư.

- bờ sông trắng - nắng chang chang: hai cụm danh từ có phần phụ sau là hai tính từ (trắng, chang chang) cho thấy sắc trắng tinh khôi, lóa sáng không nhìn ra.

3. Vẻ đẹp của các yếu tố nghệ thuật

- Nhịp điệu, cách gieo vần

+ Nhịp điệu: 2/2/3 (câu 1, 2, 3), 4/3 (câu 4)

+ Dấu phẩy (câu 1, 3) tạo điệu nhấn cho nhịp điệu; tách biệt, nhấn mạnh cho đối tượng khách xa và chị ấy.

+ Các cặp vần “trắng – nắng” cùng vần “ang” kết hợp năm phụ âm “ng” ở các tiếng trong dòng cuối làm câu thơ kéo dài, ngân nga mãi...

- Biện pháp tu từ: Câu hỏi tu từ: Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

→ Bộc lộ những xúc cảm băn khoăn, nỗi lo âu cho hiện tại, cho sự phôi phai theo thời gian.

- Các yếu tố từ, câu:

+ Cụm danh từ bờ sông trắng: từ trắng có nhiều cách hiểu: trắng của bờ cát ven sông?/ nắng chói chang làm trắng cảnh vật?

+ Từ láy chang chang: miêu tả sinh động cái nắng; bổ sung và làm tăng sắc trắng của bờ
sông trắng.

4. Cái tôi trữ tình

- Được khách thể hóa thành hình ảnh khách xa với nỗi niềm bâng khuâng, nhớ thương hoài niệm và lòng ưu tư, trắc ẩn cùng niềm thương cảm.

- Đó là niềm khao khát có thể giữ mãi được những kí ức tươi đẹp.

- Khổ thơ là những dồn nén xúc cảm của con người khi thực sự bước vào thời điểm mùa xuân chín – thời điểm của xuân tàn phai.

V. Đánh giá chung Mùa xuân chín

Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp; con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Mùa xuân chín mãi là kiệt tác bất hủ của Hàn Mặc Tử.

Tham khảo thêm: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân chín

Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

Dàn ý Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

Dưới đây là 2 mẫu dàn ý ngắn gọn và chi tiết giúp học sinh tham khảo và viết tốt bài văn phân tích Mùa xuân chín.

Dàn ý ngắn gọn Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

1. Mở bài

- Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử.

2. Thân bài

– Dấu hiệu báo xuân sang:

  • Làn nắng ửng
  • Khói mơ
  • Mái nhà tranh bên giàn thiên lý

→ Thanh tĩnh, bình dị, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương

– Cảnh vật thôn quê đẫm hơi xuân:

Làn mưa xuân tưới thêm sức sống

Cỏ cây xanh tươi” gợn tới trời”

Niềm vui của con người khi xuân đến

– Niềm hạnh phúc của lứa đôi

– Tiếng thơ ngây sao khiến lòng người bâng khuâng, xao xuyến

⇒ Xuân mang vị “chín” của lòng người, của đời người

3. Kết bài

Ngôn ngữ kết tinh với tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một ” mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

A. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

B. Thân bài

1. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình

- Nhan đề bài thơ: gợi ra sự căng tràn, tròn đầy của mùa xuân.

- Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.

2. Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ đã được sử dụng

a) Khung cảnh mùa xuân:

- Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống:

+ Hình ảnh thơ gợi hình gợi cảm: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời".

+ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang". Đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với từ láy "sột soạt" để miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc.

+ Nhịp thơ: có sự thay đổi linh hoạt. ⇒ Gợi mở không gian.

+ Gieo vần: "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" ⇒ Không gian rộng lớn.

⇒ Ngôn từ của bài thơ gợi lên khung cảnh của một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, rực rỡ và căng tràn sức sống.

- Con người đang độ tuổi xuân rực rỡ:

+ Hình ảnh thơ giàu sức gợi: "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "khách xa", "chị ấy".

+ Biện pháp tu từ:

  • Nhân hóa "tiếng ca" - "vắt vẻo", "hổn hển"
  • So sánh "tiếng ca" - "lời của nước mây"

+ Nhịp thơ cũng có sự thay đổi để phù hợp với tâm trạng nuối tiếc của nhân vật trữ tình.

⇒ Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.

b) Tâm trạng của nhân vật trữ tình:

- Câu hỏi tu từ: "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"

- Gieo vần "làng" - "chang chang" bày tỏ sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình.

- Hệ thống từ láy: "Hổn hển", "thầm thĩ", "chang chang", "bâng khuâng".

⇒ Thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với người, với đời.

3. Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác cùng đề tài, chủ đề, thể loại

- So sánh với bài thơ "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn .

C. Kết bài

- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ.

Top 3 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

Dựa vào dàn ý chi tiết học sinh có thể dễ dàng triển khai bài văn phân tích với đầy đủ chi tiết chính. Để giúp các em bổ sung thêm vốn từ và cách diễn đạt bài văn hấp dẫn hơn, Đọc tài liệu đã tổng hợp một số bài văn hay dưới đây:

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 1

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ đi đầu trong các phong trào thơ mới. Các bài thơ của ông mang một tâm hồn, niềm đam mê mãnh liệt với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Một trong những bài thơ hay nhất của ông phải kể đến là bài “Mùa xuân chín” - được in trong tập Thơ năm 1988 để lại cho người  nhiều cảm xúc.

Mùa xuân là thời điểm muôn hoa đua nở, cảnh sắc vùng quê tươi đẹp. Bài thơ " Mùa xuân chín" được nhà thơ sáng tác vào năm 1973, trong thời gian đầu mà nhà thơ lâm bệnh và đăng trong tập Nắng.

Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, hơi thở của mùa xuân thể hiện sâu sắc trong từng câu thơ của Hàn Mặc Tử. Xuân về, mang theo những tia nắng ấm đầu tiên sau một mùa đông giá rét:

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan,

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.

Sột soạt gió trêu tà áo biếc, 

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang"

Nắng xuân không như nắng thường. Đó là "ánh nắng" bởi vì nó có ánh sáng dịu dàng, ấm áp. Từ “làn” gợi cảm giác hơi thở và nắng như một “tảng” mỏng manh, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “thắp sáng” trong “khói mơ”. Khung cảnh thật nhẹ nhàng, xinh đẹp và huyền diệu. Ngòi bút của nhà thơ vẫn hướng đến lối thơ truyền thống, cổ điển, cảnh mà như nhập hồn, như có tình tràn trề. Ánh mặt trời mùa xuân đang tô điểm cho những mái nhà tranh trong làng quê một chút màu sắc và hương thơm của mùa xuân. Tiếng xào xạc trêu đùa của gió với những tà áo xanh biếc. Màu xanh của chiếc áo là sự báo hiệu của một tình yêu mùa xuân. Một chữ “trêu” sao mà ngọt ngào, thật đặc biệt, chẳng gì bằng nghe hương quê trong những câu ca dao, tình ca luôn làm xao xuyến lòng ta…Sự hô ứng vần thơ tạo nên một sự hài hòa, cân xứng và đậm chất thơ mộng của mùa khung cảnh mùa xuân. Chỉ với những điều đơn giản đấy đã gợi lên một sức sống tràn ngập, bình yên đặc biệt ở làng quê.

"Trên giàn thiên lý bóng xuân sang". Câu thơ đã thể hiện rõ sự mong ngóng mùa xuân đến sớm của tác giả. Cảm giác ngưng đọng trong cảm xúc vừa dịu dàng, vừa bâng khuâng của mùa xuân. Mạch thơ chùng xuống như mạch cảm xúc, xuân bước vào lấp đầy khoảng trống. Xuân đến mang theo những hơi ấm, giàn hoa thiên lý đã đến lúc vươn mình, phát triển xanh tốt. Mùa xuân thật dịu dàng, bình yên, bao trùm lên khắp không gian các làng quê.

Cứ tưởng mùa xuân sẽ đến một cách thật chậm như khung cảnh mà nó bao trùm, nhưng trong tâm hồn thơ mộng của nhà thơ thì mùa xuân lại đến một cách vội vàng:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.

Bao cô thôn nữ hát trên đồi.

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi."

Mùa xuân mang đến cho vạn vật trong thiên nhiên một màu tươi mới. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ"  trong xanh mãi mãi "gợn tới trời" giống như những làn cỏ đang nhảy múa khi gió mùa xuân thổi qua lại. Bầu trời đang dần hồi tưởng lại những hình ảnh đẹp đẽ đang lan tỏa khắp không gian. Nó thể hiện tình cảm đặc biệt nhất đối với những cánh đồng, những cô gái đang hát vang ngọn đồi. Trong sắc xuân ấy, tiếng hát vang lên giữa đồi núi xanh ngát thật vui tươi, như một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam. Hình ảnh "đám xuân xanh" là cách nói  dụ tượng trưng cho những cô gái đến tuổi trưởng thành, sắp phải xa người thân để đi lấy chồng. Niềm vui được nhân lên nhiều lần khi có thêm niềm vui của hạnh phúc lứa đôi. Như vậy, là ngày mai cô gái đến tuổi xuân thì đã đi lấy chồng, bỏ lại những ngày tháng được cùng bạn bè đi chơi. Tuy có chút nuối tiếc của tuổi trẻ nhưng cũng là niềm vui khi cô gái tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Mùa xuân đến, tô điểm thêm cho cuộc sống những niềm vui, tình yêu, hạnh phúc màu hồng. Qua đó, cho thấy mức độ nở rộ và nó tràn đầy sức sống của vạn vật đang dần sinh sôi, nảy nở.

Với nhà thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên chưa bao giờ là hết:

"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây."

Tiếng hát "vắt vẻo" và " thơ ngây" giữa rừng mùa xuân bát ngát đấy sao mà thân quen đến vậy. Tình cảm của đôi lứa đã đến lúc chín muồi, nhất là trong lòng của những cô gái đang tuổi xuân thì, tiếng hát " vắt vẻo" như một bản tình ca mùa xuân. Đời sống tình cảm, nồng nàn của nhà thơ được thể hiện sâu sắc trong lời bài hát đấy, và nó càng "chín" hơn trong những mùa xuân khi có người thì thầm, tâm sự cùng. Âm thanh bài hát còn đọng lại trong từng ý thơ, hòa nhịp âm trầm, bay bổng tạo nên một sự chuyển đổi âm thanh hài hòa, tinh tế. Tâm hồn thơ mộng của nhà thơ đã hòa cùng là một với thế giới của những âm sắc mùa xuân. Tiếng hát "hổn hển" được ví von "như lời của nước mây", nó như nhịp thở vội vàng của mùa xuân đến. Đôi lứa thì thầm, tâm sự dưới những rừng trúc bao la, gắn kết tình cảm với nhau để tìm niềm vui, hạnh phúc. Đoạn thơ mang nhiều cung bậc âm thanh của mùa xuân, chan chứa niềm vui, sự tươi đẹp mới mẻ. Chính những điều đó để rồi đến những người đọc cũng cảm nhận được sự "ý vị và thơ ngây". Khung cảnh thiên nhiên của mùa xuân "chín" mang lại cho con người ta một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, một tình cảm gắn kết đặc biệt nếu ta đã từng ghé qua:

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng.

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông nắng trắng chang chang."

Những người khách, người con xa quê trong một lần bắt gặp khung cảnh mùa xuân yên bình, tươi đẹp trên những làng quê mà lưu luyến, khó quên được. Những khung cảnh thiên nhiên ấy làm cho tâm hồn của họ có một nỗi buồn, nỗi nhớ da diết về những kí ức xưa cũ mà bao nhiêu năm họ mới được nhìn lại. Nếu ở đầu bài thơ tác giả đã gợi tả một mùa xuân tươi đẹp, xanh ngát thì bây giờ đã đến lúc mùa xuân chín. Đã đến lúc những ánh nắng chói chang của mùa hè thay thế cho sự ấm áp, phát triển xanh tốt của mùa xuân. Hình ảnh người chị gánh thóc dọc bờ sông đấy là hình ảnh người con gái lúc xuân thì, sau khi có gia đình phải tần tảo lo toan. Cuộc sống đã đưa họ đến những vất vả, nhọc nhằn nhưng đó  nét đẹp lao động của người vợ, người mẹ Việt Nam lúc bấy giờ.

Bài thơ nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị, giúp nhà thơ chuyển tải rõ ràng cảm xúc của mình. Từng câu chữ như cả một bầu trời chan chứa yêu thương, cả cho quê hương đã khó rời xa và cho những kỷ niệm về mái ấm ấy. Ngôn ngữ kết tinh và tấm lòng nhân hậu của nhà thơ đã làm cho bài thơ “Mùa xuân chín” chan chứa đầy cảm xúc.

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ "Mùa xuân chín" là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.

Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng" Mùa xuân chín", ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét "chín" của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý bóng xuân sang"

Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió nhẹ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng" sột soạt", tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hoà quyện lấy nhau:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi;"

Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi "gợn tới trời" như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:

"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi."

Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.

"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây,

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây..."

Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch "tiếng ca vắt vẻo" trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, "hổn hển" "thì thầm" với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.

"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang", vần "ang" cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:

"Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"

Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, "chị ấy" giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.

Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một "mùa xuân chín" vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín - Mẫu 3

Tạo hóa ban tặng chúng ta bốn mùa trong năm, mỗi mùa đem đến những cảm xúc và vẻ đẹp độc đáo. Mùa hạ tỏa sáng rực rỡ, tràn đầy sự sống. Mùa thu mang lại vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm, khiến lòng người đong đầy những cảm xúc buồn. Mùa đông dù lạnh lẽo nhưng lại đưa chúng ta gần nhau hơn bên ngọn lửa ấm áp. Tuy nhiên, có lẽ mùa xuân là mùa được mong chờ nhất trong chuỗi thời gian vì nó mang đến sự sống, sức sống dồi dào cho mọi sự vật và là mùa khởi đầu của một năm mới. Chính vì thế, mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho văn chương. Trong số những tác phẩm về mùa xuân, không thể bỏ qua bài "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm này đã đóng góp vào danh tiếng của Hàn Mặc Tử và nằm trong phần "Hương thơm" trong tập "Đau thương", sáng tác trước năm 1937.

Ngay từ nhan đề, Mùa xuân chín đã mang tới cho người đọc sự tò mò về “mùa xuân” mà Hàn Mặc Tử mang tới như thế nào? Chúng ta thường thấy từ chín để miêu tả về một loại quả đang ở độ thơm ngon nhất. Mùa xuân Hàn Mặc Tử gửi gắm qua tác phẩm cũng mang theo ý nghĩa như vậy. Đây là một mùa xuân đang ở khoảng thời gian đẹp nhất và tràn ngập sức sống nhất. Vậy mùa xuân chín đẹp ra sao? Hàn Mặc Tử đã trả lời câu hỏi này qua hai khổ thơ đầu của tác phẩm:

"Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…”

Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh mùa xuân thật thanh bình nơi làng quê. Mùa xuân tới, không còn nắng gắt của mùa hạ mà thay vào đó là những “làn nắng” nhẹ nhàng chỉ đủ để “ửng” lên. Trong làn nắng đó là những làn sương mờ ảo như khói trong một giấc mơ đang hòa tan vào nắng. Cách sử dụng từ của Hàn Mặc Tử thật độc đáo, khiến trước mắt người đọc hiện ra khung cảnh thật êm ả và thơ mộng. Cái nắng tinh khiết của độ xuân chín ấy đã chiếu lên “Đôi mái nhà tranh” quen thuộc của làng quê Việt Nam một cách rất dịu dàng, chỉ “lấm tấm vàng”. Mùa xuân đẹp nhất ấy còn thể hiện qua những cơn gió khẽ lướt “sột soạt” để trêu “tà áo biếc”.

Khi mùa xuân đến, cỏ cây đơm chồi nảy lộc, phủ khắp nơi một màu xanh biếc đã được ví như “tà áo biếc”, không chỉ vậy, tác giả đã thật khéo léo sử dụng biện pháp đảo ngữ để từ chỉ hoạt động “sột soạt” lên trên đầu câu thay vì tả gió sột soạt để nhấn mạnh hoạt động của gió. Từ “trêu” cũng thật là đáng yêu, gió đang len lỏi vào từng chút quang cảnh xanh biếc của màu xuân, như đang trêu đùa cây cỏ, khiến không khí thật sôi động, vui tươi. Rồi từ cái nhìn bao quát khung cảnh mùa xuân có nắng có gió, Hàn Mặc Tử chuyển tầm mắt đến với những sự vật chi tiết hơn, đó là “giàn thiên lý”, để rồi chợt nhận ra “bóng xuân sang”. Trong những câu thơ trên, tác giả không hề nhắc tới mùa xuân mà chỉ mượn sự vật có trong mùa xuân để tả về xuân chín. Nhưng đến câu thơ cuối của đoạn này, tác giả đã khẳng định “bóng xuân sang”, bởi vì sau khi ngắm nhìn khung cảnh xung quanh từ bao quát đến chi tiết, mùa xuân đã hiện hữu ra ngay trước mắt của tác giả, không còn là thứ vô hình nữa.

Đến đoạn thơ tiếp theo, mùa xuân chín thật sự đã tới gần với Hàn Mặc Tử và chúng ta hơn bao giờ hết với “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Câu thơ này làm gợi nhớ đến một câu thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân đó là “Cỏ non xanh tận chân trời”. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử cũng là hình ảnh cánh đồng cỏ xanh bất tận “tới trời”, nhưng bên cạnh đó nhà thơ đã sử dụng từ một cách tài tình với từ “Sóng cỏ”, khiến cho cánh đồng cỏ như những cơn sóng, đang dập dờn bởi làn gió xuân. Mùa xuân chín, không những được biểu hiện bởi cảnh vật mà còn thể hiện ra bởi con người. Đó là những “cô thôn nữ” đang hát trên đồi, bởi mùa xuân đến có các lễ hội mùa xuân với những bài dân ca, ca dao được cất lên, đây là một nét đẹp trong văn hóa bao đời nay của Việt Nam. Niềm vui rộn ràng chào xuân hòa cùng với hạnh phúc lứa đôi, vì ngày mai trong “đám xuân xanh” có người phải đi lấy chồng, “bỏ cuộc chơi”. Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ cho “đám xuân xanh” chỉ những người con gái đang ở tuổi xuân rực rỡ nhất. Vậy đấy, mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử không chỉ tô điểm cho cuộc sống đẹp hơn mà còn kết quả cho tình yêu lứa đôi.

Niềm hân hoan chào xuân chín của con người được thể hiện rõ hơn ở đoạn thơ thứ 3:

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thì với ai ngồi dưới gốc trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây.”

Những tiếng mừng xuân sang từ “trên đồi” đã bay bổng lên để rồi “vắt vẻo” ở lưng chừng núi. Tiếng ca hòa vào thiên nhiên được tác giả so sánh “Hổn hển như lời của nước mây”. Tiếng ca không còn được miêu tả chỉ bằng thính giác nữa mà Hàn Mặc Tử đã miêu tả chúng bằng cả thị giác, chúng “vắt vẻo” và “hổn hển”. Những tiếng ca đang ở nhịp cao vút đến độ phải “hổn hển” đột nhiên lại “thì thầm” với “ai”. Từ “ai” không chỉ rõ ràng một người nào, đây là nhân vật trữ tình bí ẩn trong thơ của Hàn Mặc Tử. Và những tiếng ca đó thì thầm truyền vào “ai” những ý vị và thơ ngay. Đây là những câu thơ thật lãng mạn, phù hợp với mùa xuân chín.

Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tự mình hóa thành một vị “khách” để cảm nhận cái tình của “mùa xuân chín” rõ ràng nhất:

“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.”

Vị khách bất ngờ gặp “mùa xuân chín” mang theo cảm giác tiếc nuối, lưu luyến nhớ về mùa xuân năm nào đó nơi quê nhà “Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng”. Và trong mùa xuân chín xa xôi đó, vị khách nhớ cả người chị của mình. Không biết “chị ấy” năm nay như thế nào? có còn tiếp tục “gánh thóc không? Thực chất, ở đây Hàn Mặc Tử đã sử dụng đai từ phiếm chỉ cho từ “chị ấy”. Chị ấy có thể là chị của vị khách xa, nhưng đây cũng là những người dân lao động nơi làng quê, đang chăm chỉ lao động đầu năm cùng mùa xuân tràn nhựa sống, với ánh nắng chang chang, dọc bờ sông. Một khung cảnh thật hữu tình, báo hiệu một năm mới bội thu và mùa xuân đó càng rực rỡ hơn bởi nó nằm trong kí ức của người khách “xa quê”.

Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang tới cho người đọc là mùa xuân đang ở độ đẹp nhất với đầy đủ các sắc thái khác nhau. Lúc thì nhẹ nhàng, dịu dàng, khi thì nhiệt huyết, rực rỡ và lúc lại mang tới cảm xúc tình lặng, tiếc nuối. Qua tác phẩm, tác giả cũng đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước qua từng nét bút tả cảnh xuân vô cùng chân thật. Và cùng với đó là tình yêu thương và chân trọng con người, những con người Việt Nam tràn ngập sức sống và chăm chỉ lao động vì Tổ quốc, giống như “mùa xuân chín” vậy. Chính vì vậy, tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn nguyên vẹn những giá trị cho tới hiện nay.

-/-

Hy vọng với những bài văn mẫu "Phân tích bài thơ Mùa xuân chín" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM