Trang chủ

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Xuất bản: 08/04/2019 - Cập nhật: 10/04/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn phân tích bài thơ Chiều tối, lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và tham khảo những bài văn mẫu hay phân tích nội dung bài thơ Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh, hướng dẫn cách làm, lập dàn ý chi tiết và tham khảo những bài văn mẫu 11 hay phân tích nội dung tác phẩm Chiều tối (Hồ Chí Minh).

Hướng dẫn phân tích bài thơ Chiều tối

Để làm được một bài văn phân tích Chiều tối hay và đạt yêu cầu, trước hết các em cần phải xác định đúng yêu cầu của đề (về nội dung, hình thức, phạm vi dẫn chứng...).

1. Phân tích yêu cầu đề bài

- Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh.

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các câu thơ, từ ngữ, chi tiết, hình ảnh,... có trong văn bản thơ Chiều tối.

- Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Luận điểm phân tích Chiều tối

- Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên chiều tối trên đường chuyển lao.

+ Thời gian và hoàn cảnh

+ Hình ảnh cánh chim

+ Hình ảnh chòm mây

- Luận điểm 2: Bức tranh đời sống sinh hoạt của con người.

+ Hình ảnh thiếu nữ xay ngô

+ Hình ảnh lò than rực hồng

3. Sơ đồ tư duy phân tích bài Chiều tối

Dựa trên mẫu dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Chiều tối kết hợp với sơ đồ tư duy Chiều tối dưới đây, các em hoàn toàn có thể triển khai thành một bài phân tích Chiều tối hoàn chỉnh, có thể triển khai thêm câu từ cho các nhóm nội dung chính theo tư duy, cảm nhận riêng của mình về tác phẩm này.

Dàn ý phân tích bài thơ Chiều tối

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa, một chính trị gia, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là một cây bút lớn của nền văn học dân tộc với nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi đặc sắc.

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Chiều tối - một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh, thể hiện cảm hứng trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

2. Thân bài phân tích bài thơ Chiều tối

Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên chiều tối trên đường chuyển lao (Phân tích Chiều tối 2 câu đầu)

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)

- Thời gian và hoàn cảnh:

+ Thời gian: chiều tối, thời khắc cuối cùng của một ngày, một buổi chiều hiu hắt, ánh nắng chỉ còn le lói phía chân trời.

+ Không gian: núi rừng rộng lớn.

+ Hoàn cảnh: chặng cuối của một ngày chuyển lao đày ải, cực khổ.

- Cảnh thiên nhiên được vẽ bằng những nét vẽ đậm:

+ "chim" - "mỏi": cánh chim vội vã mang dáng vẻ sự mệt mỏi, nhọc nhằn sau ngày tháng rong ruổi.

+ "chòm mây" - "trôi nhẹ": áng mây lững lờ trôi, cô đơn, lẻ loi trên nền trời mênh mông, rộng lớn.

=> Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tối thật đẹp, nên thơ, yên bình.

- Hình ảnh cánh chim:

+ Ý nghĩa tả thực: cánh chim chiều nên dáng bay mệt mỏi nhưng hướng bay có mục đích đó là về rừng tìm chốn ngủ.

-> Chiều tối với vạn vật là sự trở về nghỉ ngơi. Hoạt động của chim có động lực thúc đẩy.

+ Ý nghĩa liên tưởng:

  • Giữa chủ thể trữ tình và hình ảnh cánh chim có nét tương đồng là đều mệt mỏi, chim bay liên tục, người tù cũng đi liên tục.
  • Nét khác biệt: chim cố gắng bay về tổ ấm còn người tù tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác; nếu chim có động lực thúc đẩy thì người tù chẳng có động lực nào cả.

-> Cánh chim sau những phút giây mỏi mệt vẫn được nghỉ ngơi nơi tổ ấm còn người sau những giây phút gông cùm, đọa đày lại phải chịu cảnh ngục tù tăm tối. Thế nhưng người ấy lại chẳng một câu than vãn, oán trách mà lại thả hồn vào thiên nhiên cảnh vật để cảm nhận và chấm phá nên những nét tuyệt mĩ nhất của bức tranh cuối ngày.

=> Nỗi nhớ nhà, nhớ nước của người con bị tù đày ở nơi xa xứ ẩn sâu. Trong tâm tưởng người chiến sĩ lúc nào cũng thường trực nỗi nhớ về quê hương, đất nước.

- Hình ảnh chòm mây:

+ Ý nghĩa tả thực: chòm mây lẻ loi trôi lững lờ giữa tầng không.

+ Ý nghĩa liên tưởng: đám mây lẻ loi giữa bầu trời cũng như sự lẻ loi cô đơn của người tù giữa núi rừng bao la.

-> Hồ Chí Minh đã phác họa nên một bức tranh vừa cổ điển nhưng rất bình dị, gần gũi, khoáng đãng.

=> Vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh: nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên tha thiết, nghị lực, bản lĩnh phi thường, phong thái ung dung và niềm lạc quan cách mạng.

Luận điểm 2: Bức tranh đời sống sinh hoạt của con người nơi xóm núi (Phân tích Chiều tối 2 câu cuối)

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

- Thời gian và không gian:

+ Thời gian: chiều muộn sang tối.

+ Không gian: rộng (núi rừng) sang hẹp (xóm núi).

- Những hình ảnh đời sống dân dã, đời thường:

+ “sơn thôn thiếu nữ”: hình ảnh người thôn nữ cùng với công việc lao động giữa miền sơn cước.

-> Hình ảnh thiếu nữ xay ngô là trung tâm của bức tranh, thể hiện vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung, tràn đầy sức sống của người lao động.

=> Sự xuất hiện của thiếu nữ xay ngô khiến bài thơ có tiến triển mới: Thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi nhưng nhịp sống con người vẫn dẻo dai; cảnh trong hai câu đầu rất tĩnh còn ở hai câu cuối này nhờ hoạt động con người mà trở nên sinh động hơn.

+ "lò than rực hồng" trong đêm tối như đang nhen nhóm lên niềm vui, niềm lạc quan, xua tan đi cảm giác lạnh lẽo, cô đơn trong lòng người xa xứ.

-> Nghệ thuật lấy sáng tả tối, lấy không gian để tả thời gian. Hình ảnh lò than rực hồng đã làm bừng lên ánh sáng, xua tan bóng tối, sưởi ấm không gian hiu quạnh, lạnh lẽo, vắng vẻ ở ý thơ trên.

+ “Hồng” là hơi ấm, là ánh sáng, niềm vui và sự tin yêu (màu của ánh lửa lò than hiện thực nơi cô gái đang xay ngô, của ngọn lửa cách mạng luôn thôi thúc Bác không bỏ cuộc, của niềm tin tưởng, sự lạc quan luôn cháy trong tim Bác).

-> Chữ “hồng” rực sáng cả bài thơ vừa làm cho bức tranh chiều tối trở nên sáng hơn vừa sưởi ấm người tù thi sĩ trên con đường giải lao lạnh lẽo, cô đơn.

"Lò than rực hồng trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh chiều tối, tỏa cái ấm ra theo âm thanh nống ấm của chữ hồng" (theo Lê Trí Viễn)

=> Con người hiện lên kì vĩ, làm chủ không gian, thời gian, xua đi sự cô đơn, vắng vẻ của thiên nhiên. Mạch thơ có sự vận động: từ tối đến sáng, từ buồn đến vui, thể hiện cái nhìn lạc quan, hướng tới tương lai của tác giả.

- Vẻ đẹp tâm hồn tác giả

+ Lạc quan, yêu đời

+ Yêu lao động

+ Ý chí, nghị lực phi thường;

+ Tình yêu thương nhân dân, nâng niu tất cả chỉ quên mình.

=> Tác giả quên đi cảnh ngộ của mình để đồng cảm với nỗi vất vả, niềm vui nho nhỏ của người lao động.

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+ Nội dung bài Chiều tối: Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh

+ Đặc sắc nghệ thuật: Đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại; bút pháp chấm phá, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế; điệp ngữ chuyển tiếp, cách dùng từ linh hoạt; ngôn từ tả ít, gợi nhiều, ý tồn tại ngoài lời.

- Cảm nhận của em về bài thơ Chiều tối.

Phân tích bài thơ Chiều tối là một dạng đề có nhiều cách triển khai dựa trên dàn ý cơ bản phía trên. Các em có thể tham khảo và từ đó xây dựng cho mình riêng một bài phân tích bài thơ Chiều tối theo tư duy, ngôn từ và cảm nhận thật độc đáo của mình. Có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu phân tích Chiều tối được tổng hợp phía dưới đây để mở rộng vốn từ cho bài viết.

TOP 10+ bài văn mẫu phân tích Chiều tối của Hồ Chí Minh đặc sắc nhất

Phân tích Chiều tối học sinh giỏi mẫu số 1:

Cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống

“Chiều tối” là bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng - cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại.

Phân tích Chiều tối 2 câu đầu

Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ở đây, bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

“Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ.

Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” - Lí Bạch

“Thiên sơn điểu phi tuyệt” - Liễu Tông Nguyên

Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)

Như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch. Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi. Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình. Ở đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác.

Phân tích Chiều tối 2 câu cuối

Nếu như ở hai câu thơ đầu, bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho bức tranh thì trong hai câu thơ sau, Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh. Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết lò than đã rực hồng)

“Xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.

Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)

Hay:

“Gác mái ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng mục tử lại cô thôn”

(Chiều Hôm Nhớ Nhà - Bà Huyện Thanh Quan)

Còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, tỏa ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi.

Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào.

Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù - thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống.

(Tác giả: Nguyễn Nguyễn Thái Bảo, Lớp 11D2 Chuyên ngữ,
THPT chuyên Hùng Vương, Việt Trì, Phú Thọ)

Phân tích Chiều tối bài văn mẫu số 2

Nghĩ về thơ Bác, có ai đó đã nói rằng sự phân tích cho dù khéo léo đến đâu, cũng không làm nổi bật được hồn thơ. Cũng như tựa là, có gượng nhẹ tay bóc từng lớp cánh hoa hồng cũng chưa dễ gì tìm thấy bí quyết hương thơm. Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh có thể là một đóa hoa thơ như thế. Bài thơ rõ ràng đã để lại trong ta, man mác không cùng, một rung động thật sâu sa, đẹp đẽ, nhưng đó là nỗi rung động thật khó diễn tả, chẳng khác nào ta vẫn khó nắm bắt bí ẩn của hương thơm khi ngón tay cố lật mở những cánh hồng. Song có lẽ vẫn cứ nên thử sẽ sàng lật mở những dòng thơ, để gắng cảm thấu những ý tình được chứa đựng trong từng hàng chữ.

Một người yêu đời say mê cuộc sống bao giờ cũng nhạy cảm trước thời gian. Đối với Hồ Chí Minh, thời gian là nhịp điệu của vũ trụ, nhịp sống của con người, thời gian là sự vận động phát triển của cuộc sống. Khi rơi vào hoàn cảnh tù đày, một hoàn cảnh mà thời gian tâm trạng có độ dài gấp hàng ngàn lần thời gian tự nhiên thì ý thức thời gian của Bác cũng được biểu hiện rõ nét. Đọc bài Chiều tối (Mộ) chúng ta không những thấy được cảm nhận thời gian của Bác mà còn hiểu được dòng tâm trạng của thi nhân trong bước lưu chuyển của thời gian, trong nhịp sống cuộc đời.

Có lẽ cảm hứng của bài thơ Chiều tối xuất phát từ một buổi chiều, trên con đường bị giải, chặng cuối cùng của một ngày bị đày ải, người đi vừa trải qua một chặng đường dài với bao vất vả gian lao. Thời gian và hoàn cảnh dễ gây nên trạng thái mệt mỏi, chán chường. Vậy mà cảm hứng thơ lại đến với Bác thật tự nhiên:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Hai câu thơ đã tái hiện thời gian và không gian của buổi chiều tối chốn núi rừng. Lúc ấy người đi ngước mắt nhìn lên bầu trời và chợt thấy chim bay về tổ, mây chầm chậm trôi. Nhà thơ không trực tiếp nói về thời gian nhưng thời gian vẫn hiện lên qua cảnh vật. Đây là cảm nhận thời gian tính truyền thống đã từng in đậm qua nhiều bài thơ. Chim bay về tổ có ý nghĩa báo hiệu thời gian của buổi chiều tối. Từ trong ca dao đã có hình ảnh:

Chim bay về núi tối rồi

Đến Truyện Kiều, cánh chim mang theo cả thời gian và tâm trạng:

Chim hôm thoi thót về rừng,

Rồi buổi chiều nghiêng xuống theo cánh chim nhỏ bé trong Tràng giang của Huy Cận:

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Còn hai câu thơ của Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa biểu hiện thời gian vừa có ý biểu hiện tâm trạng:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ.

Ở đây không phải chim bay trong trạng thái bình thường mà bay mệt mỏi, bay mải miết cho kịp tới chốn nghỉ ngơi nơi rừng xanh quen thuộc. Qua hình ảnh chim mệt mỏi, người đi còn tìm thấy sự tương đồng hòa hợp với cảnh ngộ và tâm trạng của mình. Cánh chim mệt mỏi mải miết bay về rừng xanh tìm chốn ngủ, nhà thơ cũng mệt mỏi lê bước trên đường đi đày, giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ qua đêm. Sự tương đồng ấy dễ tạo nên sự cảm thông sâu sắc giữa người và cảnh. Cội nguồn của sự cảm thông chính là tình yêu thương rộng lớn của Bác luôn dành cho mọi sự sống chân chính ở trên đời.

Câu thơ thứ hai tiếp tục phác họa không gian, thời gian và tâm trạng:

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Câu thơ dịch chưa chuyển hết được ý tứ trong nguyên bản. Trong nguyên bản Bác viết:

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ giữa tầng không)

Chòm mây như có tâm hồn, như mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi và lặng lẽ lững lờ trôi giữa không gian rộng lớn của trời chiều. Bầu trời có chim, có mây nhưng lẻ loi (cô vân), chim mệt mỏi (quyện điểu) đã thế lại đang ở trong cảnh ngộ chia lìa. Chim bay về rừng, chòm mây ở lại giữa tầng không. Hai câu thơ tả cảnh mà mở ra một không gian tâm trạng. Cảnh buồn, người buồn nhưng trong nỗi buồn trước cảnh chiều muộn còn có một khát vọng tự do ẩn kín trong đôi mắt dõi theo cánh chim lẫn mây giữa bầu trời rộng.

Hai câu thơ tiếp theo tái hiện quá trình vận động của thời gian và không gian:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Sơn thôn thiếu hữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng)

Cảm quan biện chứng về thời gian thấm vào từng hình ảnh, sự vật, sự chuyển đổi của các hình ảnh đã gợi lên bước đi thời gian. Trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ có thể dùng xa để nói gần, dùng động để nói tĩnh, dùng sáng để nói tối. Trong bài thơ Chiều tối, Bác không hề nói đến tối mà người đọc vẫn hiểu được bóng tối đang buông xuống ở xóm núi là nhờ có chữ "hồng" ở cuối bài thơ. Trời tối người đi mới nhìn thấy ánh lửa rực hồng lên đến thế.

Cũng như nhiều bài thơ khác của Bác, hình tượng thơ trong bài Chiều tối vận động thật khỏe khoắn và bất ngờ. Trong cảnh chiều muộn ở vùng sơn cước tưởng chừng chỉ có bóng tối hoàng hôn bao phủ, chỉ có heo hút quạnh hiu, nào ngờ có ánh sáng ấm áp đã rực lên xua tan giá lạnh, bóng tối. Sự xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên lò than rực hồng đã mang lại ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp. Mặc dù thời gian vận động từ chiều đến tối, từ ngày sang đêm nhưng hình tượng bài thơ vẫn vận động theo xu thế phát triển. Đến hai câu thơ này, bức họa trữ tình về trời mây đã nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt gần gũi: một thiếu nữ sơn thôn, với công việc lao động bên bếp lửa gia đình. Một chất thô khác, một hồn thơ trữ tình khác đã được đưa vào để làm cho vẻ đẹp của buổi chiều hôm thêm hài hòa phong phú.

Khi bóng tối của ngày tàn buông xuống nhưng không gian không hề tăm tối, con người đã kịp thắp lên ngọn lửa, con người đã tạo nên ánh sáng, tạo nên hơi ấm để sưởi ấm cho người, cho cảnh thiên nhiên. Ánh sáng, hơi ấm, con người đã đưa lại niềm vui bình dị cho người tù xa xứ. Trong cảnh ngộ buồn của riêng mình, Bác vẫn tìm thấy niềm vui. Niềm vui ấy xuất phát từ cuộc sống lao động của người dân Trung Hoa trên một xóm núi nào đó. Nếu không có một tình người tha thiết thì làm sao Bác có được một niềm vui như thế giữa đất người xứ lạ.

Bài thơ Chiều tối không chỉ miêu tả cảnh nơi sơn cước với làn mây, cánh chim và cuộc sống lao động của con người. Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình, có tấm lòng yêu thương rộng lớn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tâm hồn lạc quan, mạch thơ có sự vận động đến sự sống, ánh sáng và tương lai. Chính cách nhìn biện chứng về thời và cuộc sống, chính tình người tha thiết đã tạo nên giá trị to lớn cho thi phẩm đặc sắc này.

Phân tích Chiều tối bài văn mẫu số 3

Ngâm thơ ta vốn không ham

Nhưng mà trong ngục biết làm chi đây

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

Bài thơ mở đầu tập Nhật kí trong tù đã thể hiện được tinh thần và hoàn cảnh của Hồ Chí Minh trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người không bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một nhà thơ nhưng với tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống, Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành một người nghệ sĩ - chiến sĩ với nhiều tác phẩm giá trị. Nhật kí trong tù chính là một tập thơ như vậy. Tập thơ gồm 134 bài thơ được viết bằng chữ Hán trong hơn một năm Người bị giam giữ ở Trung Quốc. Nhật kí trong tù chính là bức chân dung tinh thần tự họa của Người, thể hiện vẻ đẹp của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Một trong những bài thơ tiêu biểu của tập thơ là bài Mộ (Chiều tối) được viết trên đường Người bị giải từ nhà lao này sang nhà lao khác. Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, thể hiện tâm hồn của một người nghệ sĩ và bản lĩnh, ý chí sắt đá của một chiến sĩ.

Ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc (lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, ngày 27/8/1942, Người tới Túc Vinh thuộc huyện Đức Bảo tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Vừa tới nơi, Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ không lí do, không xét xử tuyên án, bị giải đi nhiều nhà tù trong nhiều tỉnh, chịu bao khổ cực đầy ải. Trong suốt 13 tháng ở tù, Người đã sáng tác được 134 bài thơ bằng chữ Hán tập hợp thành tập thơ có tên Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Mộ (Chiều tối) là bài thơ thứ 31 của tập thơ, được Hồ Chí Minh viết trên đường bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào một chiều cuối thu năm 1942. Chỉ với bốn câu thơ, nhưng Bác đã mang tới cho người đọc cảnh thiên nhiên cùng sơn cước vào thời điểm chiều tối. Ẩn sâu trong đó là tình yêu thiên nhiên, cảnh vật cùng khát khao tự do, trái tim luôn hướng về dân tộc của Người.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ tả cảnh mang vẻ đẹp rất Đường thi:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Dịch thơ:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Bằng bút pháp chấm phá, Hồ Chí Minh đã chọn hai hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa để bắt đầu bài thơ của mình. Sau một ngày chuyển lao vất vả, Người ngước nhìn lên bầu trời ngắm nhìn cảnh vật. Ở đó có một cánh chim mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn đang hối hả bay về rừng tìm chốn ngủ, có một chòm mây trôi nhè nhẹ giữa những tầng không bao la. Hình ảnh cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu quen thuộc rất giàu sức gợi. Bài thơ vì thế mang vẻ đẹp cổ điển gợi đến những thi tứ khác cùng đề tài trong thơ trung đại: người lữ khách xa xứ lúc chiều tà.

Chúng ta đã nhiều lần bắt gặp một cánh chim bay giữa những vần thơ. Từ ca dao: Chim bay về núi tối rồi; tới Truyện Kiều: Chim hôm thoi thóp về rừng; hay trong thơ của các nhà thơ Đường nổi tiếng như Vương Bột với Cánh cò bay với nắng chiều. Đến các nhà thơ Mới ta cũng bắt gặp những cánh chim mang theo dáng chiều Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa (Huy Cận) hay Con cò trên ruộng cánh phân vân (Xuân Diệu). Mỗi cánh chim trong một tứ thơ có thể có những sắc thái biểu cảm khác nhau, nhưng hình ảnh cánh chim dường như đều đi cùng buổi chiều, gợi thời gian lúc hoàng hôn. Cánh chim trong thơ Bác vừa mang tâm trạng của người tù trong những ngày tha hương nhưng cũng là cánh chim đang hối hả tìm về tổ ấm. Câu thơ thứ nhất sử dụng liên tiếp các động từ: "quyện, quy, tầm, túc" như gợi được sự chủ động, sự vội vàng, hối hả của cánh chim chiều, sau một ngày lao động mệt mỏi đang tìm về tổ. Sự hối hả đó gợi đến nhịp sống thường ngày, vì vậy cánh chim dẫu có mỏi mệt nhưng không hề não nề. Cánh chim và con người như cùng mang chung một tâm trạng, gợi sự hòa quyện giữa cảnh và tình. Người tù dường như cũng luôn khát khao được quay về với Tổ quốc, được sống với đồng bào, đồng chí của mình. Phải chăng, chính vì thế mà Người không sợ những gian lao vất vả?

Người chỉ sốt ruột khi không có được tự do để cống hiến cho dân tộc. Tâm trạng cô đơn của người tù khi phải tha hương cũng như cánh chim chới với giữa bầu trời cao rộng. Ở đây, ta bắt gặp một trái tim tự do và tinh tế. Những gian lao của một ngày đi bộ giữa rừng núi hoang vu không giam cầm được trái tim luôn yêu thiên nhiên, giao cảm với thiên nhiên của Người.

Không chỉ hình ảnh cánh chim, chòm mây cũng là một thi liệu quen thuộc. Chúng ta từng thấy những hình ảnh này trên lầu Hoàng Hạc trong thơ Thôi Hiệu “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn đâu); hay cánh chim trong thơ Lý Bạch “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn”. Gần hơn là tầng mây trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Chòm mây giữa bầu trời dường như đã gợi được cái động giữa tĩnh, gợi được cái nhỏ bé đối lập với cái lớn lao vô hạn. Bản dịch thơ đã không lột tả được hết sự tinh tế trong nguyên tác của bài thơ. Chữ “chòm mây” không gợi được sự cô đơn, lẻ loi nhỏ bé của từ “cô vân”. Phải là “cô vân” mới tương phản được với “độ thiên không”, một đám mây cô đơn giữa bầu trời cao rộng mới thể hiện được hết tâm trạng của người tù và sắc thái biểu cảm của hình ảnh thơ. Bên cạnh đó, từ “trôi nhẹ” cũng không thể hiện được hết giá trị biểu cảm của từ “mạn mạn”. “Trôi nhẹ” chỉ gợi được hành động còn “mạn mạn” gợi được cả tâm thế. Chòm mây cô đơn trôi hờ hững, dường như mang theo bao tâm tư sâu kín của con người. Hơn thế, chuyển động “mạn mạn” của chòm mây còn nhấn mạnh vào trạng thái tĩnh của bức tranh, gợi không gian vắng lặng của núi rừng.

Như vậy, hai câu thơ đầu tiên, với bút pháp chấm phá cùng những hình ảnh thơ quen thuộc và thi pháp đặc trưng của văn học trung đại như lấy động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình, dùng điểm tả diện… đã gợi được cảnh núi rừng hoang vắng trong buổi chiều tà. Bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng thoáng buồn thể hiện tâm trạng của người tù sau cả một ngày bị giải đi vất vả và nỗi lòng nhớ mong quê hương Tổ quốc. Tuy thế, nét hiện đại của ý thơ là ngay trong cảnh chiều buồn quen thuộc đó ta thấy được chất thép của người chiến sĩ cách mạng. Đường chuyển lao gian khó nhưng người tù vẫn hướng ánh mắt lên bầu trời tự do cao rộng, vẫn rộng mở tâm hồn với thiên nhiên cuộc sống, vẫn nhìn thấy những nét ấm áp giữa núi rừng hoang vu. Người không buông xuôi ý chí mà tìm thấy trong thiên nhiên sự đồng điệu để rung động và thêm yêu cuộc sống, thêm giàu ý chí nghị lực vượt qua nghịch cảnh.

Hồ Chí Minh từng viết trong bài Cảm hứng đọc thiên gia thi:

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong

Trong thơ của Hồ Chí Minh luôn có bản lĩnh của một người chiến sĩ cộng sản, chất thép của một lãnh tụ cách mạng. Vì vậy, thơ Bác luôn có một mạch vận động cảm xúc khỏe khoắn hướng từ bóng tối đến ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui. Bài thơ Chiều tối cũng có cách vận động cảm hứng như vậy. Hai câu thơ sau mang đến một không khí ấm áp, tràn đầy sức sống:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

Dịch thơ:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển khá quen thuộc trong thơ xưa thì hai câu sau là bức tranh sinh hoạt của con người. Điều đặc biệt là nếu trong thơ xưa, con người chỉ xuất hiện như điểm tô cho cảnh vật, hòa vào cảnh vật như “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ lác đác bên sông chợ mấy nhà” thì trong thơ Bác con người mới là trung tâm của cảnh vật, mới là tâm điểm của bức tranh. Thơ trung đại nếu có hình ảnh con người thường là những hình ảnh ước lệ, những đối tượng thuộc tầng lớp trên và thường trong trạng thái tĩnh, chiêm nghiệm về cuộc sống, về những triết lý nhân sinh. Trong thơ Bác, con người là những người dân bình thường, những người lao động nhỏ bé mang vẻ đẹp gần gũi của cuộc sống thường ngày. Đặc biệt hơn, Người tả cô gái xóm núi đang xay ngô, trong trạng thái lao động gợi sự khỏe khoắn, ấm áp, sinh động. Cô gái xóm núi xay ngô để chuẩn bị cho bữa tối sum họp bên gia đình với bếp lửa ấm áp. Bức tranh như bừng sáng. Không gian được thu hẹp, từ cảnh bầu trời rộng lớn vắng lặng thu về một nếp nhà hướng vào bên lửa ấm áp trong cảnh sinh hoạt đời thường tươi vui. Biện pháp điệp vòng tròn “ma bao túc” - “bao túc ma hoàn” như gợi được những vòng quay nặng nề của chiếc cối xay ngô, gợi được sự vất vả của công việc lao động nhưng cũng như thể hiện một quá trình lao động đã hoàn tất, bữa cơm sum họp sắp diễn ra.

Bản dịch một lần nữa lại không lột tả được hết sắc thái ý nghĩa của nguyên tác. Từ “cô em” không đủ sự trân trọng như từ “sơn thôn thiếu nữ” mà Bác dùng trong phiên âm. Bên cạnh đó chúng ta có thể nhận ra rằng bài thơ có nhan đề là Mộ (chiều tối) nhưng xuyên suốt bài thơ không có bất kì một từ tả thời gian nào được sử dụng. Người đã khéo léo dùng những hình ảnh thơ để chỉ sự vận động của thời gian từ lúc chiều tà sang buổi tối hẳn. Bản dịch thơ không làm được điều này khi dịch “xay ngô tối” khiến cho ý bị lộ. Có lẽ chuyển dịch những bài thơ tứ tuyệt luôn khó như vậy. Bởi những thi phẩm này thường có tính hàm súc rất cao lại tinh tế, cô đọng. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng. Chính ánh sáng rực hồng đó đã gợi được bước chuyển của thời gian từ chiều sang tối. Phải khi trời tối hẳn ánh lửa mới bừng lên trong không gian rộng lớn. Có thể nói, bao sức nặng của bài thơ được đặt cả vào chữ “hồng” cuối bài. Nó không chỉ tả màu sắc của bếp lửa mà còn gợi được sự ấm áp xua đi cái hiu quạnh của vùng sơn cước làm cả bài thơ như bừng sáng lên. Vị trí cuối bài thơ như một điểm nhấn mang tinh thần lạc quan hướng về ánh sáng của Người. Từ “hồng” còn được kết hợp với một động từ mạnh “dĩ” (rực) như thể hiện sự bừng sáng, nguồn năng lượng lan tỏa. Dù đang cô đơn mệt mỏi nhưng người tù chiến sĩ ấy vẫn nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống bình dị của người lao động nơi xóm núi, cảm thông sẻ chia với cuộc sống của họ. Trong lòng Người là cả một niềm vui ấm áp, tình yêu với cuộc sống được bừng sáng lên. Đó chính là chất thép, là bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ tả cảnh chiều nhưng kết thúc không phải là bóng đêm u ám mà là một niềm vui ấm áp. Người tù dù trong hoàn cảnh nào vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống sâu sắc. Chiều tối dù mang vẻ đẹp cổ điển từ đề tài, thi liệu, cấu tứ, bút pháp nhưng cũng mang vẻ đẹp hiện đại bởi một tinh thần lạc quan, cách mạng, cách nhìn cuộc sống gần gũi, chân thực. Nó thể hiện tâm hồn vừa truyền thống của Phương Đông vừa mang lí tưởng cộng sản của thời đại. Hai vẻ đẹp này không tách rời nhau mà được kết hợp nhuần nhuyễn làm nên phong cách của Hồ Chí Minh.

Chiều tối là một bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ của Hồ Chí Minh trong tập Nhật kí trong tù. Bài thơ không trực tiếp bày tỏ tâm trạng của chủ thể trữ tình mà được gửi gắm qua các hình ảnh ngoại cảnh. Ý thơ hàm súc, ngôn ngữ tinh tế giàu sức gợi. Qua bài thơ, ta như thấy được tâm hồn khoáng đạt và bản lĩnh phi thường của Bác. Phải chăng vì thế bài thơ khép lại nhưng vẫn để lại sự ấm áp trong lòng người yêu thơ?

(Tác giả: Minh Thu)

Phân tích Chiều tối bài văn mẫu số 4

Bên cạnh một sự nghiệp chính trị vẻ vang Hồ Chí Minh còn có một sự nghiệp sáng tác rất mực đồ sộ và đáng quý. Có thể nói rằng xuyên suốt chặng đường cách mạng lắm gian lao, thì việc sáng tác văn thơ dường như đã trở thành một phần không thể thiếu, luôn đồng hành trong suốt hành trình giải phóng dân tộc của Bác. Với lối văn thơ trữ tình chính trị đậm nét, các tác phẩm của Hồ Chí Minh, không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước, đả kích quân thù, mà trong đó còn ẩn chứa những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của vị lãnh tụ vĩ đại. Chiều tối (Mộ) là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh, không chỉ bộc lộ những vất vả khó khăn mà Người đã phải trải qua trong quá trình làm cách mạng mà quan trọng hơn hết qua đó chúng ta thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.

Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, vừa về nước chưa được bao lâu, Hồ Chí Minh lại tiếp tục sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Sau nửa tháng đi bộ, vượt rừng đầy vất vả, khi vừa đặt chân sang biên giới bên kia thì Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác rơi vào cảnh tù đày suốt 13 tháng. Cuộc sống nơi ngục tù cùng với những chuyến chuyển lao đầy vất vả đã được Người ghi lại bằng 134 bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký. Nhận xét về tập thơ này, nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng rất cảm động rằng:

“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác

Mười bốn trăng tê tái gông cùm

Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc

Mà thơ bay… cánh hạc ung dung”

Chiều tối là bài thơ tiêu biểu nhất trong số 134 bài của tập Ngục trung nhật ký, được ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, ấy là vào một buổi chiều nhá nhem tối cuối thu năm 1942, khi Bác đang bị áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo (Trung Quốc). Trước cảnh gông xiềng quấn thân, chân đứng trên miền đất xa lạ, thế nhưng bằng tấm lòng lạc quan, yêu thiên nhiên, con người Hồ Chủ tịch vẫn ngẫu hứng viết nên những vần thơ thực ấm áp, xua tan đi cái tăm tối, hiu quạnh nơi núi rừng sơn cước. Bút pháp chấm phá cổ điển cùng với ý thơ hiện đại đã mang đến cho Chiều tối một diện mạo đặc sắc, thơ không chỉ là những cảm tình ngẫu hứng mà còn ẩn chứa trong đó một vẻ đẹp tâm hồn lớn, những hoài bão, những ước vọng về lý tưởng cách mạng đang phát triển mạnh mẽ.

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Khung cảnh thiên nhiên chiều tối được Bác phác họa qua hai hình ảnh cánh chim và chòm mây - những chất liệu quen thuộc thường thấy trong thơ cổ điển xưa, khi thi nhân miêu tả buổi hoàng hôn. Đọc những vần thơ này, dễ có thể liên tưởng đến hình ảnh nhân vật trữ tình đứng giữa trời đất, tầm mắt hướng vào không trung vô tình bắt gặp cánh chim in đen trên nền trời, cùng với những chòm mây trăng trắng có dáng ánh hồng buổi chiều tà, đó là một khung cảnh nhiều xúc cảm thi vị, cảm giác tự do phiêu lãng ngập tràn. Nhưng mấy ai biết được rằng đằng sau những vần thơ ấy là một người tù với gông đeo nặng cổ, cùm quấn chặt chân. Có thể nói rằng, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn như vậy, nhưng Hồ Chí Minh vẫn có thể ung dung nhìn ngắm mây trời, thì người thi nhân phải có một tinh thần lạc quan tuyệt đối đến nhường nào.

Hai câu thơ đầu của Chiều tối là điển hình cho bút pháp “thi trung hữu họa” trong văn học cổ điển, chỉ hai câu thơ ngắn ngủi đã đủ để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đặc sắc, nhiều ý vị. Trước hết là hình ảnh cánh chim trời, nếu trong thi ca xưa cánh chim bay lạc giữa không trung thường đại diện cho sự cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng thì trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim mang màu sắc hiện đại hơn, khi nó có nơi chốn để về sau một ngày dài vất vả kiếm ăn, đó là tổ ấm hạnh phúc. Không chỉ vậy, ngoài sự chuyển động của cánh chim, Người còn tinh tế cảm nhận được sự mỏi mệt ẩn chứa trong từng nhịp vỗ cánh. Sở dĩ có được những cảm nhận như vậy là do xuất phát từ tấm lòng đồng cảm của tác giả với cánh chim, như những người đồng cảnh ngộ. Bác cũng vừa trải qua một ngày dài đi bộ đường trường đầy mỏi mệt, đôi chân Bác cũng như đôi cánh chim đang rã rời, chỉ mong sớm được nghỉ ngơi. Chỉ khác là cánh chim ấy đã có chốn về, còn Bác thì chưa biết đến chốn nghỉ ngơi là khi nào, điều ấy cũng dấy lên những xúc cảm buồn tủi trong lòng thi sĩ.

Tuy nhiên nhiều hơn hết người ta vẫn thấy được tấm lòng lạc quan, yêu đời, luôn hướng đến những điều tích cực, khi Bác đã tự tìm cho cánh chim nơi chốn để về, Người vẫn nhìn nhận thấy những niềm hạnh phúc, ấm áp nhỏ nhoi trong cảnh sắc thiên nhiên vốn hiu quạnh này. Một hình ảnh tiếp theo ấy là hình ảnh chòm mây trôi lơ lửng trên nền trời xanh nhờ nhờ buổi hoàng hôn, đây cũng là một trong những chất liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển. Hình ảnh chòm mây được rất nhiều thi nhân xưa đưa vào thơ của mình để bộc lộ tinh thần tự do, tự tại, phiêu bồng, thoát ly khỏi thực tại đồng thời một phần cũng bộc lộ sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình. Ý này cũng phù hợp để nói về tâm trạng của Hồ Chí Minh trong cảnh ngục tù lắm gian truân, tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì vẫn chưa đủ để diễn tả hết vẻ đẹp trong thơ của Bác.

Bởi, bên cạnh sự lẻ loi, cô độc của chòm mây, người ta còn nhìn ra tâm hồn lạc quan, thư thái, sự tích cực trong cách nhìn nhận sự vật. Hai từ “mạn mạn” diễn tả sự chậm rãi trong cách di chuyển của chòm mây, chính là thể hiện sự ung dung, thong thả của người chiến sĩ tình dù gông xiềng quấn thân. Hai từ “thiên không” tức là bầu trời quang đãng, sạch sẽ, trong trẻo như chính tấm lòng người chiến sĩ cách mạng, không bị trói buộc giam cầm bởi hoàn cảnh. Tất cả những điều đó đều nhấn mạnh và làm nổi bật tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Hồ Chí Minh trong chuỗi ngày bị giam cầm, có thể nói rằng không gì có thể làm suy sụp đi ý chí ấy, mà chỉ làm cho lý tưởng cách mạng trong lòng Người càng thêm sáng rõ.

Văn học là nhân học, từ hình ảnh cổ điển cánh chim, chòm mây vốn hướng tới cảnh buồn bã, hiu quạnh nhưng trong thơ Bác, chúng lại trở nên đầy tính nhân văn. Cánh chim thì hướng về hạnh phúc, tổ ấm, bộc lộ khát khao được trở về quê hương đoàn tụ với Tổ quốc, còn chòm mây là tinh thần lạc quan, quyết chiến thắng mọi sự cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người, dù rằng ẩn chứa trong đó là nỗi chạnh lòng khi đơn độc nơi xứ người của thi nhân.

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”

Trong hai câu thơ tiếp theo Bác đã hướng ánh nhìn vào khung cảnh cuộc sống của người dân vùng sơn cước. Hình ảnh cô gái xay ngô là một hình đẹp và ẩn chứa nhiều ý vị, khi con người trong lao động trở thành trung tâm của bài thơ. Khác hẳn với hình ảnh con người trong thơ ca truyền thống luôn bị lu mờ, che lấp trước thực cảnh thiên nhiên rộng lớn, ví như cảnh thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Lom khom dưới núi tiều vài chú”, hay của Huy Cận “Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiều”, ở trong thơ Hồ Chí Minh, hình ảnh cô gái xay ngô lại thực rõ nét và ấn tượng, tuy giản dị, đời thường nhưng lại bộc lộ sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ trong công cuộc lao động. Có thể nói rằng hình ảnh thiếu nữ xay ngô chính là dấu ấn cho quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò, vị thế của con người trước thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn, con người làm chủ thiên nhiên và sống chan hòa với thiên nhiên. Tất cả đã làm nên một diện mạo thơ đặc biệt với chất cổ điển đôi nét chấm phá và chất hiện đại làm cốt lõi đầy ấn tượng.

Không chỉ thế trong hình cảnh cô gái xay ngô tối, người ta còn nhìn nhận được những khao khát, mong mỏi của tác giả khi Người luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, về mái ấm yên bình, dẫu gian lao lao vất vả, nhưng ẩn chứa những vẻ đẹp tiềm tàng, mạnh mẽ, đầy hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Ở câu thơ cuối “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, khi cô gái vừa kết thúc công việc xay ngô thì lò than cũng đã rực hồng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. Từ “hồng” đã trở thành nhãn tự cho cả bài thơ hai mươi tám chữ. Thông thường, khi trời từ chiều tối sang tối hẳn có lẽ rằng bài thơ sẽ kết thúc bằng cảnh tượng màn đêm đen kịt bao phủ khắp núi rừng, che phủ đi hình ảnh con người, để lại nỗi cô đơn, lạnh lẽo và mênh mang vô tận. Nhưng ở trong Chiều tối, bóng đêm lại được bắt đầu bằng hình ảnh lò than đã rực hồng “lô dĩ hồng”, như một sự khởi đầu ấm áp, biểu hiện cho cuộc sống ban ngày vừa kết thúc, nhưng cuộc sống sinh hoạt mới thực sự bắt đầu. Chính thế người ta đã chẳng còn nhận thấy sự tối tăm, ảm đạm mà thay vào đó là cảm giác ấm áp, một khung cảnh mới có thể tiếp diễn ngay sau khi cô gái xay xong ngô tối, ấy là cảnh bữa cơm nóng ấm, vui vẻ bên gia đình.

Đặc biệt là từ “hồng” dường như làm rực sáng cả bài thơ, xua đi cái không khí tối tăm, hiu quạnh miền rừng núi, khung cảnh thiên nhiên rộng lớn bỗng chốc thu bé lại bằng hình ảnh một lò than, một mái ấm với những con người lao động nhỏ bé, nhưng đậm nét. Thơ của Hồ Chí Minh luôn tích cực và tươi sáng như thế, Người luôn hướng về ánh sáng, sự sống. Nhìn xa hơn về cả cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, từ “hồng” cuối bài là ẩn chứa những ý nghĩa xa xăm, hình ảnh cô gái xay ngô tối đầy khó khăn, vất vả, cũng giống như cảnh Bác nặng nhọc gông xiềng quấn thân. Khi cô gái xay xong ngô thì lò than đã rực hồng, là ẩn dụ cho việc Bác sau khi vượt qua cảnh tù đày, chính là ngày cách mạng rực sáng, tương lai còn tươi sáng phía trước. Có thể nói rằng “hồng” còn chính là đại diện cho màu của lý tưởng cách mạng trong người chiến sĩ, ấm nóng, tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh tối tăm để vụt sáng. Ấy chính là chất thép ẩn hiện trong thơ Hồ Chí Minh, tinh tế và nhiều ý vị.

Chiều tối là một trong những tứ thơ hay nhất của Hồ Chí Minh khi có sự hòa quyện đan xen giữa nét cổ điển và hiện đại, tư duy thơ sâu sắc và tinh tế khi lời thơ ngắn gọn súc tích, nhưng ý thơ phong phú và nhiều trường phát triển. Ở Chiều tối, bên cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống hòa hợp với thiên nhiên, ta còn thấy được vẻ đẹp tấm lòng của vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động, trái tim ấm áp luôn có chất thép ngầm mạnh mẽ, vững vàng và tuyệt đối kiên trung với lý tưởng cách mạng sáng ngời. Trở thành động lực to lớn cho người chiến sĩ bước tiếp con đường giải phóng dân tộc nhiều vẻ vang, nhưng cũng lắm gian lao sau này.

Phân tích bài thơ Chiều tối ngắn gọn mẫu số 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người chiến sĩ quốc tế luôn mang trong mình tình yêu quê hương đất nước và khát khao giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác dành cho sự nghiệp cách mạng không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Cảm hứng thi sĩ đến bất cứ lúc nào với người chiến sĩ cộng sản dù cho khi bị giam bắt, tù đày nhưng không thể giam cầm được tâm hồn của Người. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm được sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của Hồ Chí Minh.

Bài thơ sáng tác bằng chữ Hán. Nhan đề phiên âm là Mộ, dịch sang Việt ngữ là Chiều tối, được trích trong tập Ngục trung nhật kí của Hồ Chí Minh. Hai câu thơ đầu tiên:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;)

Trước nhất, bức tranh thơ này được thể hiện theo lối kí họa của nghệ thuật tạo hình phương Đông. Hình ảnh cánh chim là trung tâm của câu thơ thứ nhất. Nếu ta chỉ chú ý vào chi tiết cánh chim mỏi thì sẽ gây ấn tượng buồn bã. Thế nhưng điều bất ngờ phá tan cái ấn tượng buồn kia là chi tiết tìm chốn ngủ "Cánh chim về rừng tìm chốn ngủ" đã gợi cho người đọc một cảm giác bình yên - cảm giác về tổ ấm. Bởi vậy ở đây không phải là cánh chim lạc loài mà là cánh chim bay về tổ ấm.

Câu thơ thứ hai, từ "cô vân" là đám mây đơn độc. Đám mây cô độc thường gây cảm tưởng buồn bã, vẫn theo logic của câu thứ nhất, ở đây, đám mây không trôi trong tăm tối, mù mịt mà là trôi nhẹ đã tạo cho ta cái ấn tượng ung dung, thanh thản, nên nó là đám mây có chiều kích phóng khoáng. Không gian và thời gian vào buổi hoàng hôn trong Nhật kí trong tù thường được diễn tả qua một số bài thơ: Chiều tôi, Cảnh chiều hôm... Nhưng trong những bức tranh có phần ảm đạm đó, hình ảnh con người toát lên niềm tin yêu cuộc đời vẫn được thể hiện, đặc biệt là trong bài Chiều tối. Vài nét chấm phá đơn sơ đã làm toát lên cái hồn của cảnh vật và gợi lên tư thế ung dung, phóng khoáng của tâm hồn tác giả.

Tâm trạng của tác giả:

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Bóng đêm đã làm sáng lên hình ảnh thiếu nữ đang xay ngô bên lò than. Sinh hoạt của con người dưới ánh lửa hồng ấm áp như xua tan bao cảm giác lạnh buồn, quạnh hiu của núi rừng vào đêm. Thơ Đường tả cảnh thiên nhiên đẹp - thơ Hồ Chí Minh cũng có nhưng không vắng bóng con người, khiến câu thơ hiện thực hơn. Giữa thôn vắng chỉ thấy bóng “cô em” đang im lặng, cần mẫn xay ngô. Cái động của bức tranh cũng nhịp nhàng, lặng lẽ nhưng chứa đựng sức sống.

Xay hết lò than đã rực hồng.

Tháng mười ở sơn thôn tiết trời lạnh vào buổi tối. Thiếu nữ trước khi xay ngô đã đốt bếp lửa, từ lúc trời chưa tối cho đến khi “chim mỏi về rừng...”. Kể từ khi bắt tay vào xay ngô, công việc đã cuốn hút thời gian. Đến khi hết công việc thì bóng đêm đã tràn ngập từ bao giờ!

Nhà thơ, người quan sát, ắt hẳn đã chứng kiến nhịp bước của thời gian, sắc màu từ nhạt đến đậm và cái nền (phông) của bức tranh cũng theo nhịp bước ấy. Sự tương phản màu sắc tỉ lệ thuận với thời gian và cả bóng đêm lẫn bếp lửa. Có như thế ta thấy được cái nhìn tinh tế, cảm xúc của nhà thơ thật nhạy bén: năm bắt kịp thời và ghi lại thành một bức tranh ở giây phút kì diệu kia.

Lò than rực hồng trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh chiều tối, tỏa cái ấm ra theo âm thanh nồng ấm của chữ hồng” (theo Lê Trí Viễn)

Trong hoàn cảnh bị đày ải trên đường xa cô độc, mệt mỏi giữa núi rừng nơi đất khách quê người, giữa cảnh hoàng hôn buồn, tác giả nhìn cảnh vật lại thấy ấm áp, tươi vui, nhất là qua ánh lửa hồng chiếu rọi bóng dáng con người đang lao động. Điều đó chứng tỏ mọi vui buồn của con người, hầu như không phụ thuộc vào cảnh ngộ riêng. Điều đó cũng phản ánh một tâm hồn dào dạt tình yêu thiên nhiên, một tâm hồn luôn rộng mở và luôn hướng về cuộc sống con người và hồng thơ ấy đầy ắp trữ tình.

Phân tích bài thơ Chiều tối mẫu số 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người chiến sĩ quốc tế luôn mang trong mình tình yêu quê hương đất nước và khát khao giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác dành cho sự nghiệp cách mạng không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Cảm hứng thi sĩ đến bất cứ lúc nào với người chiến sĩ cộng sản dù cho khi bị giam bắt, tù đày nhưng không thể giam cầm được tâm hồn của Người. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm được sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của Hồ Chí Minh.

Vào tháng 8 năm 1942 Bác sang Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, sau nửa tháng đi bộ đến Túc Vinh tỉnh Quảng Tây và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt mười ba tháng, những tháng ngày bị tù đày ấy Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” bằng chữ Hán với số lượng 134 bài. Trong đó bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 khi Người bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo năm 1942. Trong khoảnh khắc chiều tà mênh mông cùng với tâm hồn thi nhân đã tạo cảm hứng để người tù sáng tác gửi gắm vào thơ ca tâm trạng, tình cảm của mình. Nổi lên trong bài thơ là hình ảnh thiên nhiên và con người lao động nơi đất khách quê người.

Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng mang đậm chất cổ điển của thi pháp phương Đông Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều đã về. Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng giang” của Huy Cận là hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”.

Từ “quyện” trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, là định ngữ cho danh từ “điểu”, được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “Chim mỏi”. Nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời. Trong khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của mình. Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng.

Đối lập là nếu con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm. Tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày / Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.

Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.

Tuy nhiên mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người khách băn khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột tả được ý nghĩa của từ “cô”. Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám mây đã từng xuất hiện trong thơ Lý Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời cao.

Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật. Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc được tâm hồn thi nhân.

Trên nền cảnh của thiên nhiên hình ảnh con người bỗng hiện lên trong thơ Bác. Con người ở đây là thiếu nữ đang lao động giữa chốn núi rừng mênh mông như một điểm sáng làm cho bức tranh đời sống trở nên có hồn có thần sắc vui tươi hơn:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Hình ảnh con người và cuộc sống được nối tiếp hiện lên qua hai câu thơ. Thiếu nữ ở đây là người con gái (bé gái) trong lứa tuổi dưới thanh nữ chứ không phải như bao bài phân tích khác là cô gái. Hình ảnh bé gái đang xay ngô trong đêm tối là để hô ứng với cánh chim cô đơn, lẻ loi bên trên cô độc đối diện với cối xay. Ngòi bút của Bác hướng đến sự vận động của con người. Đây là một nét hiện đại, mới mẻ trong thơ Hồ Chí Minh. Thiếu nữ miền sơn cước toát giữa núi rừng mênh mông không những không bị hòa tan với thiên nhiên mà nổi bật chói lòa trong không gian ấy.

Không giống như những bài phân tích khác tôi nhận thấy qua cấu trúc liên miên đối ở các từ “ma bao túc” câu trên và “bao túc ma hoàn” câu dưới cho thấy con người ở đây đang phải lao động vất vả, nặng nề, triền miên, kéo dài trong đêm. Trong mạch vận động của của thời gian ở nguyên tác không hề nhắc đến chữ “tối” nhưng với bản dịch thơ người dịch cho thêm vào làm mất đi sự thú vị của ý thơ, khiến cho câu thơ mất đi nét đẹp của ý tại ngôn ngoại không cần nhắc đến nhưng vẫn hiện ra là một đêm tối bao phủ.

Trong câu thơ “Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” theo tôi đó là sự nối tiếp công việc, kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới, nhà thơ đã dùng hình ảnh bếp lửa được đốt lên để nói sự vận động của thời gian. Từ xưa nay đa số mọi người đều hiểu theo nghĩa là hồng tính từ, làm sáng rực lên hình ảnh con người trong đêm nhưng theo nguyên tác chữ Hán đó hồng của động từ mang ý nghĩa hành động là đốt để đối với từ “ma” (xay). Đây là hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán, nếu không cẩn thận tìm hiểu sẽ khiến cho mọi người nhầm lẫn với ý nghĩa khác.

Qua hình ảnh con người trong đêm cho thấy cuộc sống nơi đây cơ cực, khó khăn khiến cho tác giả đồng cảm, đồng điệu. Bác đã dùng vòng xoay của cối xay để nói lên tâm trạng nặng nề của mình, dùng hình ảnh bé gái để nói lên cảm nhận cuộc sống. Nam Cao đã từng viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” nhưng đối với Hồ Chí Minh thì đi ngược lại với điều đó. Bác là một con người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến vô cùng không chỉ là đối với nhân dân Việt Nam mà còn là biết bao những con người cơ cực trên hành tinh này. Đúng như Tố Hữu đã từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”.

Bài thơ là thành công của nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và sự cách tân hiện đại trong ý thơ. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được coi là nhãn tự, là con mắt thần của tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc được Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: “Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối”. Đồng thời chữ “hồng” ấy cũng thể hiện cho niềm tin, hy vọng của Bác vào một tương lai tươi sáng ở ngày mai, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng. Dù ở trong hoàn cảnh ngục từ nhưng con người ấy không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, số phận.

Trong thơ Hồ Chí Minh luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ hồng được xuất hiện rất nhiều lần như trong bài “Tảo giải” hiện lên: “Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn sớm sạch không” hay có câu Bác viết: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” đó là sự lạc quan, niềm tin của Bác vào con đường cách mạng nước nhà, vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.

Như vậy chỉ với 28 chữ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ với trái tim thép người chiến sĩ, bài thơ đã làm xúc động người đọc trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống và sự cảm thông, thương yêu con người của vị cha già dân tộc. Con người Bác là tấm gương sáng để cho biết bao thế hệ đồng bào Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

(Nguồn: Lớp Văn thầy Nhật)

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Phân tích bài thơ Chiều tối ngắn gọn mẫu số 7

Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng.

Bài thơ Chiều tối nằm trong tập thơ "Nhật kí trong tù" đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.

Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không."

Dịch thơ:

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không."

Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi.

Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.

Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rừng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.

Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng."

Dịch thơ:

"Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng."

Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cố điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó. Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối.

Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ "bao túc" ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần. Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.

Nhà văn Nam Cao đã viết: "Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được", để nói rằng, con người ta thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ - một người lúc nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước - vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

Bài thơ "Chiều tối" là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.

   >>> Tham khảo hướng dẫn chi tiết soạn bài Chiều tối của Hồ Chí Minh để củng cố lại những nội dung chính cần phân tích và làm nổi bật trong bài văn.

Phân tích bài thơ Chiều tối mẫu số 8

"Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh được viết từ 2/8/1942 đến 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đày đọa khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ "Nhật ký trong tù" có một số bài ghi lại những thời khắc đáng nhớ trong ngày: Buổi sớm, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều hôm, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm... Mỗi bài là một nỗi niềm trong những tháng ngày "ác mộng".

"Chiều tối" (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong "Nhật ký trong tù". Bài thơ số 32 là bài "Đêm ngủ ở Long Tuyền". Vậy, bài "Chiều tối" ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10/1942.

Đây là nguyên tác bài thơ:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không,

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng''.

Một cái nhìn man mác, một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chỗ dừng chân... của nhà thơ trên con đường lưu đày khổ ải muôn dặm, được hé lộ qua bài thơ, đọc qua tưởng như chỉ tả cảnh chiều tối nơi xóm núi xa lạ.

Hai câu đầu tả bầu trời lúc ngày tàn. Hai nét vẽ "động" cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) bay về rừng xa, tìm cây trú ẩn, một áng mây cô đơn, lẻ loi (cô vân) đang lửng lơ trôi (mạn mạn). Cấu trúc hai câu thơ đăng đối, âm điệu thơ nhẹ, thoáng buồn. Người chiến sĩ bị lưu đày ngước mắt nhìn bầu trời, dõi theo cánh chim bay và áng mây trôi nhẹ mà lòng man mác. Rất tinh tế, nét vẽ ngoại cảnh đã thoáng hiện tâm cảnh. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy chưa thể hiện được chữ "cô" trong "cô vân" nhưng khá hay:

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không".

Hai câu thơ 1, 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít mà gợi nhiều chỉ hai nét phác họa (chim bay, mây trôi) mà gợi lên cái hồn cảnh vật, ngày tàn, màn đêm buông xuống dần, tạo vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi, mệt mỏi. Nghệ thuật lấy điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm thấy bầu trời bao la hơn, cảnh chiều tối êm ả, tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi này còn mang tính ước lệ, nó mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn mỗi chúng ta,... nhớ về một cánh chim bay trong "Truyện Kiều": "Chim hôm thoi thót về rừng"; nhớ đến một cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:

"Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa, khách bước dồn

(Chiều hôm nhớ nhà)

Trở lại bài "Chiều tối", áng mây cô đơn lẻ loi đang lơ lửng, trôi nhẹ trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa lắc! Ngôn ngữ thơ hàm súc, biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, thoáng nhẹ mà đầy ấn tượng, dư ba.

Tiếp theo câu cuối 3 - 4 từ cảnh bầu trời tác giả nói về cuộc sống con người nơi núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".

Một nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ba chữ "ma bao túc" ở cuối câu ba được láy lại "bao túc ma hoàn..." ở đầu câu 4, động tác nhịp nhàng xay ngô, vừa diễn tả sự chuyển động vòng tròn của cái cối đá xay ngô thủ công, đức tính cần mẫn của thiếu nữ xóm núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đã làm cho thơ liền mạch và có về nhạc điệu. Câu thơ dịch: "Cô em xóm núi xay ngô tối", với hai chữ "cô em" đã làm lạc phong cách thơ Hồ Chí Minh; chữ "tối" thêm vào đã làm cho ý thơ lộ, còn đâu nữa ý tại ngôn ngoại trong bài thơ chữ Hán này?

Sự vật như nối tiếp theo dòng chảy thời gian mà xuất hiện: Khi ngô xay xong than đã rực hồng, sáng bừng lên, vô cùng ấm áp. Khi màn đêm đã bao mịt mùng, lò than đỏ rực lên, cảnh vật ấy thu hút tâm trí người tù đang bị giải đi. Buồn biết bao cảnh bếp lạnh tro tàn! Ấm áp biết bao một ngọn đèn, một bếp hồng trong đêm lạnh. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho một mái ấm đoàn tụ gia đình, nó đã làm vợi đi bao nỗi cô đơn tĩnh mịch.

Hướng về một cảnh sinh hoạt dân dã bình dị: thiếu nữ xay ngô, dõi nhìn bếp lửa, lò than rực hồng, khi chân tay mang nặng xiềng xích, bị giải đi trong chiều tối, Bác đã tìm thấy nơi nương lựa tâm hồn mình. Hình như nỗi cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo bị xua tan. Một thoáng ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên con đường đi đày xa xứ trong màn đêm buông xuống.

Cảm hứng thơ dào dạt chất nhân bản. Cái bình dị mà đầy chất thơ. Chất thơ ấy là hồn người và tình người. Hai nét vẽ về thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng là hai nét vẽ bình dị, ấm áp, khỏe khoắn và trẻ trung, làm thơ Bác có sự hòa hợp giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại trẻ trung bình dị.

Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường khổ ải, lưu đày người chiến sĩ cách mạng trong "Nhật ký trong tù" hầu như ít cảm thấy cô đơn, tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh hoàng hôn gió rét căm, vượt lên gian khổ. Người xúc động hướng tới một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước:

"Gió sắc tựa gươm mài đá núi,

Rét như dùi nhọn chích cành cây

Chùa xa chuông giục người nhanh bước,

Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay".

(Nam Trân dịch)

Có lúc trong cảnh bị cùm trói "Thừa cơ rét rệp xông vào đánh" mà Người vẫn "thoát ngục" tìm được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: "Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần" (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp, bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà Bác gắn bó, mến yêu suốt đời.

"Chiều tối" - một bài thơ đáng yêu mang màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế, thể hiện một hồn thơ "bát ngát tình". Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đọa đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống.

Tuyển tập văn phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất

Phân tích bài thơ Chiều tối bài số 9:

Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của thế kỷ XX. Ngoài văn chính luận, người còn để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca đáng trân trọng. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ Nhật ký trong tù. Tập thơ này như một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật ký trong tù:

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

Tháng 8/1942, Bác Hồ sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của bạn bè quốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ khi vừa tới thị trấn Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và bị "mười bốn trăng tê tái gông cùm" trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ "Mộ" (Chiều tối) được xem là áng thơ tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm "chiều tối".

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không"

Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả "luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày". Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: "Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà" hay "Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn" (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lí Bạch trong bài thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết:

"Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn"

(Chim trời bay đi mất

Mây lẻ trôi một mình)

Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được "quyện điểu", thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh.

Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Đúng như Tố Hữu đã từng viết "Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người". Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải "Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày".

Cùng với "Quyện điểu quy lâm", là "Cô vân mạn mạn". Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ "cô" và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy "mạn mạn". Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời. Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng khuâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển.

Mặc dù câu thơ dịch: "Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không" chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó. Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù - thi sĩ Hồ Chí Minh.

Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Thạc sĩ Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng "Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng "Mộ" là bài thơ của thời Thịnh Đường".

Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con người lao động:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"

Sinh thời Hồ Chí Minh chỉ có một ao ước lớn: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của Quốc tế cộng sản.

Câu thơ nguyên bản "Sơn thôn thiếu nữ" dịch là "Cô em xóm núi" đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch. Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu.

Phần lớn người phụ nữ trong cổ thi đều mang nỗi buồn thương man mác vì chiến tranh sinh ly tử biệt hay lỡ dở tình duyên, Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán:

"Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,

Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,

Hối giao phu tế mịch phong hầu."

Dịch thơ:

"Cô gái phòng the chửa biết sầu

Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu

Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu

Hối để chồng đi kiếm tước hầu."

Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ "thiếu nữ" gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lao động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa. Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một nhà phê bình nào đó từng nhận xét rằng "Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một "sơn thôn thiếu nữ" thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa?

Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh "sơn thôn thiếu nữ" ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động".

Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối.

Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) "ma bao túc - bao túc ma hoàn" đã cho ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Đó cũng là lúc mà cô gái kia được quây quần bên mâm cơm ấm cúng của gia đình.

Chữ "hồng" nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được xem là nhãn tự, là con mắt thần, nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối.

Chữ "hồng" trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là "con mắt thơ" (Thi nhãn hoặc là nhãn tự, chữ mắt) nó sáng bùng lên, nó căn lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫn đầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ "hồng" đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.

Như vậy chữ "hồng" rất xứng đáng là "ông thánh thứ hai mươi tám" của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một "sơn thôn thiếu nữ" mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Về nét nghĩa khác, chữ "hồng" còn là biểu hiện của cuộc vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, luôn hướng về ánh sáng. Trong bài thơ Tảo giải, chữ "hồng" ấy cũng đã từng xuất hiện:

"Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không"

Chữ "hồng" ấy với chữ "hồng" trong Chiều tối có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang.

"Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,

Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;

Trong ngục giờ đây còn tối mịt,

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi."

(Trích Nhật ký trong tù)

Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày về thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút.

Qua tìm hiểu và cảm nhận về bài thơ Chiều tối ta càng thêm hiểu, thêm yêu hơn vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết:

"Lại thương nỗi đọa đày thân Bác

Mười bốn trăng tê tái gông cùm

Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc

Mà thơ bay cánh hạc ung dung"

Phân tích bài Chiều tối bài số 10

Bác Hồ khi xưa đã từng nói rằng:

“Làm thơ ta vốn không ham

Nhưng mà trong ngục biết làm chi đây

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”.

Trong lời giãi bày Bác vốn không ham làm thơ, nhưng khoảng thời gian trong ngục làm thơ ngẫm ngợi để vơi đi nỗi buồn, đồng thời làm thơ cũng là để thể hiện ý chí sắt đá của người chiến sĩ cách mạng. Trong tập Nhật kí trong tù ta không thể không nhớ đến bài thơ Chiều tối, tác phẩm được sáng tác khi Bác chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ đã làm bật lên tinh thần kiên cường của người tù cách mạng.

Mở đầu tác phẩm mở ra khung cảnh bức tranh thiên nhiên chiều tối:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Bức tranh chiều tối được gợi lên từ hai hình ảnh: cánh chim, chòm mây. Cánh chim vốn là thi liệu quen thuộc trong thơ xưa như: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan) hay “Chim hôm thoi thót về rừng” (Nguyễn Du). Những cánh chim thường gợi về nỗi cô đơn, gợi nhắc, gợi nhớ về một quãng thời gian nào đó.

Còn cánh chim trong thơ Bác lại xuất hiện hoàn toàn khác, sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi, chúng trở về tìm chốn nghỉ ngơi. Chúng bay đi có mục đích, phương hướng, không hề vô định như trong thơ cổ. Cánh chim ấy gợi liên tưởng về sự tương phản với hoàn cảnh của Bác. Chòm mây trên trời cô đơn, lững lờ trôi giữa không gian mênh mông, cái cô độc của chòm mây cũng như chính sự cô đơn, lẻ loi của Bác.

Bức tranh thiên nhiên không còn dừng lại ở miêu tả bề ngoài mà nó còn là bề sâu của tâm cảnh, ta thấy được tình yêu thiên nhiên của người tù. Bằng những quan sát hết sức tinh tế Bác đã nắm bắt được cái thần, cái hồn của cảnh vật, một không gian chiều mơ màng, thanh bình. Không chỉ vậy ta còn thấy được nỗi cô đơn, mệt mỏi của người tù nhân, khi phải trải qua một hành trình dài, di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng đằng sau nỗi cô đơn ấy còn là một bản lĩnh kiên cường, sắt đá của người chiến sĩ.

Bức tranh của Bác không dừng lại ở đó, từ không gian của thiên nhiên, người tù di chuyển điểm nhìn để thấy hơi thở của cuộc sống sinh hoạt bình dị, đời thường mà vô cùng ấm áp:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

Đến đây con người đã trở thành trung tâm của bức tranh. Hiển hiện trong khung cảnh sinh hoạt là người thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Hình ảnh chân thực, bình dị và vô cùng đời thường nhưng lại lấp lánh tỏa sáng. Đó là ánh sáng của tuổi trẻ, của sức sống hừng hực nơi người con gái; ánh sáng tỏa ra từ công việc lao động bình dị; đồng thời còn là vẻ đẹp của mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên: con người là trung tâm, là chủ thể của vũ trụ. Trước thiên nhiên bao la con người không bị lu mờ mà được làm rõ nổi bật hơn.

Câu thơ cuối là sự kết hợp hài hòa giữa nét vẽ cổ điển và nét vẽ lãng mạn. Tính cổ điển được thể hiện ở bút pháp dùng ánh sáng để nói bóng tối. Hình ảnh lò than rực hồng, tỏa rạng một khoảng không gian đã tái hiện thành công bóng tối bao phủ xung quanh đây. Nhưng đồng thời đây cũng là câu thơ hết sức hiện đại. Chữ "hồng" là nhãn tự của bài thơ, làm bừng sáng cả không gian tăm tối đang bao trùm. “Hồng” thể hiện sự vận động theo hướng từ chiều đến tối, từ lạnh lẽo đến ấm áp (ấm của sự sống, của sinh hoạt lao động con người), từ sự cô đơn đến sum họp và từ nỗi buồn đến niềm vui. Đây là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng thể hiện niềm tin, lạc quan vào tương lai tươi sáng của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc. Bút pháp gợi tả thiên nhiên giản dị, tự nhiên mà vô cùng chân thực. Có sự đan xen, hòa quyện một cách nhuần nhuyễn giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.

Chiều tối đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người nơi núi rừng hoang dã. Đằng sau bức tranh ấy là vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh: luôn mang trong mình tinh thần lạc quan, tin tưởng dù gặp khó khăn vẫn luôn tin rằng ánh sáng đang đợi dân tộc, đất nước nơi cuối con đường.

Phân tích bài thơ Chiều tối bài số 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người chiến sĩ quốc tế luôn mang trong mình tình yêu quê hương đất nước và khát khao giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác dành cho sự nghiệp cách mạng không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Cảm hứng thi sĩ đến bất cứ lúc nào với người chiến sĩ cộng sản dù cho khi bị giam bắt, tù đày nhưng không thể giam cầm được tâm hồn của Người. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm được sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của Hồ Chí Minh.

Vào tháng 8 năm 1942, Bác sang Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, sau nửa tháng đi bộ đến Túc Vinh tỉnh Quảng Tây và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt mười ba tháng, những tháng ngày bị tù đày ấy Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” bằng chữ Hán với số lượng 134 bài. Trong đó bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 khi Người bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo năm 1942. Trong khoảnh khắc chiều tà mênh mông cùng với tâm hồn thi nhân đã tạo cảm hứng để người tù sáng tác gửi gắm vào thơ ca tâm trạng, tình cảm của mình. Nổi lên trong bài thơ là hình ảnh thiên nhiên và con người lao động nơi đất khách quê người.

Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ trượng trưng mang đậm chất cổ điển của thi pháp phương Đông, Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều đã về. Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng giang” của Huy Cận là hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”.

Từ “quyện” trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, là định ngữ cho danh từ “điểu”, được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “chim mỏi”. Nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời. Trong khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của mình.

Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng. Đối lập là nếu con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm. Tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.

Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Tuy nhiên mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người lữ khách băn khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột tả được ý nghĩa của từ “cô”.

Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám mây đã từng xuất hiện trong thơ Lí Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vận độc khứ nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời cao.

Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật. Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc được tâm hồn thi nhân.

Trên nền cảnh của thiên nhiên hình ảnh con người bỗng hiện lên trong thơ Bác. Con người ở đây là thiếu nữ đang lao động giữa chốn núi rừng mênh mông như một điểm sáng làm cho bức tranh đời sống trở nên có hồn có thần sắc vui tươi hơn:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Hình ảnh con người và cuộc sống được nối tiếp hiện lên qua hai câu thơ. Thiếu nữ ở đây là người con gái (bé gái) trong lứa tuổi dưới thanh nữ chứ không phải như bao bài phân tích khác là cô gái. Hình ảnh bé gái đang xay ngô trong đêm tối là để hô ứng với cánh chim cô đơn, lẻ loi bên trên cô độc đối diện với cối xay.

Ngòi bút của Bác hướng đến sự vận động của con người. Đây là một nét hiện đại, mới mẻ trong thơ Hồ Chí Minh. Thiếu nữ miền sơn cước toát giữa núi rừng mênh mông không những không bị hòa tan với thiên nhiên mà nổi bật chói lòa trong không gian ấy. Không giống như những bài phân tích khác tôi nhận thấy qua cấu trúc liên miên đối ở các từ “ma bao túc” câu trên và “bao túc ma hoàn” câu dưới cho thấy con người ở đây đang phải lao động vất vả, nặng nề, triền miên, kéo dài trong đêm.

Trong mạch vận động của của thời gian ở nguyên tác không hề nhắc đến chữ “tối” nhưng với bản dịch thơ người dịch cho thêm vào làm mất đi sự thú vị của ý thơ, khiến cho câu thơ mất đi nét đẹp của ý tại ngôn ngoại không cần nhắc đến nhưng vẫn hiện ra là một đêm tối bao phủ. Trong câu thơ “Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” theo tôi đó là sự nối tiếp công việc, kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới, nhà thơ đã dùng hình ảnh bếp lửa được đốt lên để nói sự vận động của thời gian.

Từ xưa nay đa số mọi người đều hiểu theo nghĩa là hồng tính từ, làm sáng rực lên hình ảnh con người trong đêm nhưng theo nguyên tác chữ Hán đó hồng của động từ mang ý nghĩa hành động là đốt để đối với từ “ma” (xay). Đây là hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán, nếu không cẩn thận tìm hiểu sẽ khiến cho mọi người nhầm lẫn với ý nghĩa khác. Qua hình ảnh con người trong đêm cho thấy cuộc sống nơi đây cơ cực, khó khăn khiến cho tác giả đồng cảm, đồng điệu. Bác đã dùng vòng xoay của cối xay để nói lên tâm trạng nặng nề của mình, dùng hình ảnh bé gái để nói lên cảm nhận cuộc sống.

Nam Cao đã từng viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” nhưng đối với Hồ Chí Minh thì đi ngược lại với điều đó. Bác là một con người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến vô cùng không chỉ là đối với nhân dân Việt Nam mà còn là biết bao những con người cơ cực trên hành tinh này. Đúng như Tố Hữu đã từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”.

Bài thơ là thành công của nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và sự cách tân hiện đại trong ý thơ. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được coi là nhãn tự, là con mắt thần của tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc được Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: “Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối”. Đồng thời chữ “hồng” ấy cũng thể hiện cho niềm tin, hy vọng của Bác vào một tương lai tươi sáng ở ngày mai, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng.

Dù ở trong hoàn cảnh ngục tù nhưng con người ấy không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, số phận. Trong thơ Hồ Chí Minh luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ "hồng" được xuất hiện rất nhiều lần như trong bài “Tảo giải” hiện lên: “Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn sớm sạch không” hay có câu Bác viết: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” đó là sự lạc quan, niềm tin của Bác vào con đường cách mạng nước nhà, vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.

Như vậy chỉ với 28 câu thơ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ với trái tim thép người chiến sĩ, bài thơ đã làm xúc động người đọc trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống và sự cảm thông, thương yêu con người của vị cha già dân tộc. Con người Bác là tấm gương sáng để cho biết bao thế hệ đồng bào Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Phân tích Chiều tối đạt điểm cao bài số 12

Ai đó đã nói rằng: “Điều kì diệu tuyệt đỉnh của nghệ thuật, đặc biệt thi ca, là ở nơi đó ta có thể tự do sắp đặt một thế giới riêng như mình khao khát. Thế giới ấy dẫu ảo huyền hay u ám tới đâu cũng phải thấm đẫm tính nhân văn cao cả, hướng nhân loại tới sự cao đẹp”. Thi ca bao giờ cũng thế, phải gắn mình vào nguồn mạch cuộc sống, nếu thi nhân quay lưng với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu, mọi giá trị văn chương chỉ còn là kỹ xảo. Sức nặng của những trang thơ chính từ cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia mà tạo thành, nhà thơ phải đến đó để viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính hiện thực cuộc sống, dù nó có thế nào đi chăng nữa thì thơ anh vẫn phải “thấm đẫm tính nhân văn cao cả” và phải “hướng nhân loại tới sự cao đẹp”.

Hồ Chí Minh đến với thơ ca cũng vậy, những trang thơ của Người mang đậm trong mình chất “thép”, đó chính là cảm hứng đấu tranh tích cực, là tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật. Người luôn biến những thứ tầm thường thành thú vui tiêu khiển, tạm quên đi cảm giác khó nhọc bị tra tấn nơi đất khách quê người, đặc biệt qua bài thơ “Chiều tối” đã cho ta thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống,‎ ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đầy phi thường của người tù cách mạng:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn là nhà văn, nhà thơ lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Với Bác, người nghệ sĩ phải là một chiến sĩ chủ động tích cực trên mặt trận với vũ khí đặc biệt là các tác phẩm văn chương: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Ta vẫn thường thấy những thi phẩm nghệ thuật thường ra đời trong hoàn cảnh rất đỗi nên thơ, khi trà dư tửu hậu hoặc lúc tức cảnh sinh tình, nhưng thơ Bác ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất vẫn vươn mình để trở thành áng thơ tuyệt bút.

    Mộ (Chiều tối) được Bác lấy cảm hứng từ khung cảnh miền sơn cước vào một buổi chiều trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối tháng 10 năm 1942. Đây được coi là một trong những thi phẩm đặc sắc trích từ tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển song cũng thấm đượm tinh thần hiện đại qua đó góp phần làm nổi bật cốt cách của “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng” (Viên Ưng - Trung Quốc).

Ngay từ những nét phác họa đầu tiên ta đã thấy hiện lên bức tranh cổ kính, đậm nét của thi ca cổ điển:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Bằng bút pháp chấm phá, Bác điểm trong bức tranh chiều tà là hình ảnh cánh chim - hình ảnh ước lệ thường thấy trong văn học cổ có nhiều ý nghĩa biểu tượng, Nguyễn Du đã từng viết: “Chim hôm thoi thóp về rừng” hay như bà Huyện Thanh Quan trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:

“Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

và đến tận sau này cánh chim ấy vẫn làm xao xác cả hoàng hôn trong thơ Huy Cận:

“Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”

Cảnh vật vùng sơn cước là những hình ảnh thực được hiện lên rõ nét qua con mắt và tâm trạng của người tù nơi đất khách quê người. Chiều tối là lúc ánh sáng ban ngày gần vụt tắt hẳn, người đi đường ngước mắt nhìn lên bầu trời - nơi vẫn có chút ánh sáng ban ngày còn sót lại và chợt nhận thấy một cánh chim lẻ bầy mỏi mệt (quyện điểu) đang bay về rừng tìm nơi trú ngụ.

Chẳng lẽ tự nhiên mà cánh chim ấy rơi vào điểm nhìn của Bác, sự cảm nhận đó xuất phát trên cơ sở ý thức sâu sắc của cái tôi cá nhân trước ngoại cảnh, và trên cơ sở sự gần gũi, tương đồng: suốt một ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi mệt, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước trên đường trường. Những cánh chim kia còn biết tìm về tổ ấm khi màn đêm buông xuống còn người tù tha hương nơi đất khách vẫn phải rảo bước trên con đường gian khổ mà chẳng biết điểm dừng chân sẽ là ở đâu.

Sẵn có một tâm hồn nhạy cảm nên Người không thể không chạnh lòng và gợi lên nỗi nhớ quê hương cồn cào, da diết, dường như Bác cũng muốn dừng chân sau một hành trình nhọc nhằn đầy khó khăn:

“Năm mươi ba dặm một ngày trời

Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi…”

Ngược dòng thời gian, ta sẽ bắt gặp tứ thơ tương tự qua những vần thơ của Lí Bạch:

“Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn”

Cũng là cánh chim, chòm mây lẻ nhưng thơ Lý Bạch và thơ Bác chỉ giống nhau ở hình xác thi liệu, còn hai thế giới cảm xúc là hoàn toàn khác nhau: Thơ Lí Bạch tái hiện hình ảnh cánh chim bay vào cõi hư vô lạnh buốt mang cảm hứng thoát tục lánh đời còn cánh chim trong thơ Bác có điểm đến rất rõ ràng: về rừng - về với cõi trần gian gần gũi, về với tổ ấm thật thân thương. Nhìn cánh chim mà Người thấy trong dáng bay của nó có cả sự mệt mỏi.

Phải chăng đó chính là tình cảm nhân đạo, là tấm lòng cảm thương cho cánh chim sau một ngày vất vả lam lũ. Cái nhìn ấy thể hiện sự nhân ái, bao la của Người đối với vạn vật như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người”

Trong câu thơ sau “Cô vân mạn mạn độ thiên không” mang đậm đà phong vị cổ thi và đẹp như một câu thơ Đường, cũng mượn thi liệu quen thuộc là hình ảnh chòm mây để miêu tả cảnh chiều tà:

“Bạch vân thiên tải không du du”

(Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay)

(Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu)

song những áng mây trong thơ Bác không phong lưu, cao sang mà rất bình dị, êm ả của bầu trời miền sơn cước. Đối chiếu với bản dịch thơ, rất tiếc người dịch đã làm mất đi sự cô đơn, lẻ loi của đám mây (cô vân) và dáng vẻ lững lờ như chất chứa nỗi niềm, giúp ta hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cùng chút gió thu nhè nhẹ hiu hắt buồn (mạn mạn).

Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: “cô vân” - “thiên không”, đối lập giữa không gian cao rộng, thoáng đạt của bầu trời với sự lẻ loi của áng mây khiến cho không gian càng rộng mở mênh mông, rợn ngợp và cánh chim càng nhỏ bé, đơn độc, đáng thương. Lối vẽ chấm phá cổ điển không làm cho hình ảnh chòm mây rơi vào ước lệ giống với thơ xưa mà ngược lại giúp chúng sống động như mang tâm tình, xúc cảm.

Áng mây dường như không biết đi đâu, về đâu trong cảnh chiều tàn đang dần khép cửa, nó khiến người tù cách mạng nghĩ đến thân phận bơ vơ nơi đất khách quê người của mình, đó vừa là nỗi buồn cố hữu trước cảnh thiên nhiên vừa là nỗi buồn phải xa quê nhưng lúc nào cũng nhớ về quê hương:

“Năm tròn cố quốc thân vô tội

Hóa lệ thành thơ tả nỗi này”

Bằng những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá chỉ gợi mà ít tả, thi nhân đã dựng lên bức tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước. Bức tranh ấy hoàn toàn không có dây trói hay gông xiềng, tư thế một tù nhân đã thay thế hoàn toàn bởi tư thế của một hành nhân, một thi nhân. Cảnh vật được cảm nhận từ điểm nhìn cao rộng khoáng đạt, vì vậy cảnh tuy hoang vắng, phảng phất chút buồn nhưng không cô liêu, tuyệt vọng. Và người tù cách mạng đã dành những tình cảm yêu thương, trìu mến cho vạn vật, cho tự nhiên vốn dĩ rất thơ mộng này. Tự chủ trong cái nhìn thiên nhiên và đồng thời con người cũng tự chủ trong cả những cảm xúc vui buồn.

Hai câu thơ không khẩu khí mà lại làm ta rung động. Người tù đang tự do tự tại trước cảnh ngộ éo le như Bác đã từng viết khi mới bước vào nơi bị giam cầm:

“Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao”.

Hai câu thơ là tư thế của con người làm chủ hoàn cảnh, làm chủ cuộc đời, càng đặt hai câu thơ trong hoàn cảnh sáng tác của nó, người đọc càng cảm nhận được bản lĩnh phi thường, tinh thần thép của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh trước những khắc nghiệt của cuộc đời:

“Vần thơ của Bác vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”

(Hoàng Trung Thông)

Hai câu thơ cuối có sự vận động về thời gian từ chiều đến tối, có sự vận động từ không gian thiên nhiên đến không gian cảnh sinh hoạt. Nổi bật trong bức tranh là hình ảnh cô thiếu nữ xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, đây là một thi liệu mang đậm tính dân chủ cho văn chương cũng như sự vận động mới mẻ cho hình tượng thơ:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng)

Ta vẫn thường thấy trong thơ xưa, cảnh thiên nhiên thường vắng bóng con người hoặc con người bị hòa vào thiên nhiên, họ thường nhỏ bé, cô đơn, thường tĩnh lặng, thụ động và luôn chịu sự chi phối của ngoại cảnh như trong bài “Qua đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Hay như trong thơ Đường, hình ảnh ẩn sĩ hiện lên dưới cánh chim ngàn mây núi buông câu thả cá mà cũng như buông xuôi cuộc đời:

“Ngàn non bóng chim tắt

Muôn nẻo dấu người không

Thuyền đơn ông tới nón

Một mình câu tuyết sông”

(Giang Tuyết – Liễu Tông Nguyên)

Nhưng khi đến với bài thơ “Chiều tối”, trung tâm của bức tranh giờ đây lại là con người – hình ảnh cô gái đang lao động chăm chỉ xay ngô bên bếp lửa như mang đến sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này, dường như xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ vào sự xuất hiện của thiếu nữ.

Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn liền với cộng đồng “sơn thôn” của mình, đó vẫn luôn là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:

“Làng xóm ven sông đông đúc thế

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”

(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)

Ở câu thơ thứ 3 lại một lần nữa bản dịch thơ không thể thể hiện được hết ý nghĩa của bản nguyên tác khi “sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em xóm núi”. Bác không gọi cô gái bên bếp lửa hồng ấy với hai từ cô em mang sắc thái bông đùa mà Bác trân trọng gọi người con gái ấy là thiếu nữ - gợi cảm xúc về sức trẻ, tuổi thanh xuân của cô. Mặt khác, thơ cổ cũng đã nhiều lần nhắc đến hình ảnh người thiếu nữ, nhưng là những thiếu nữ đài các nơi khuê phòng:

“Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

(Truyện Kiều)

là những mĩ nhân, những quý tộc thượng lưu ở lầu son gác tía như trong thơ Lí Bạch:

“Mĩ nhân nhất tiếu khiên châu bạc

Giao chỉ hông lâu: thị thiếu gia”

(Mĩ nhân nở nụ cười vén bức rèm châu

Rồi chỉ về phía lầu hồng nói với ta: ấy là nhà của thiếp)

còn người thiếu nữ trong “Chiều tối” xuất hiện cùng khung cảnh lao động bình dị nơi xóm làng mang vẻ đẹp khỏe khoắn, mộc mạc mà gần gũi, đầy thương mến và chính cuộc sống lao động bình dị đó càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa rừng núi chiều tối âm u heo hút. Nó mang lại cho người đi đường chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người, tuy vất vả mà tự do.

Trong câu thơ thứ ba ở bản dịch thơ, người dịch đã sơ ý đặt thêm chữ “tối” vào khiến giảm đi ít nhiều tính hàm súc, cô đọng. Xét về thời gian thì quả thực khi cô gái xay ngô thì trời đã tối nhưng cảm quan nghệ thuật của Bác thì rất dị ứng với bóng tối và hơn cả người đọc hoàn toàn có thể nhận thấy được bước chuyển biến của thời gian ngay cả khi không có sự xuất hiện của chữ “tối” như Lê Trí Viễn đã từng bình luận: “Thời gian trôi dần dần theo cánh chim và làn mây, theo vòng xoay của cối ngô quay mãi quay mãi”.

Ở hai câu thơ cuối này, thi nhân đã sử dụng thành công cấu trúc lặp vòng tròn từ cuối câu ba tới đầu câu bốn: “ma túc bao – bao túc ma” mặc dù đối với một bài thơ tứ tuyệt chỉ vỏn vẹn hai mươi tám chữ việc dùng phép lặp rất ít khi xảy ra. Cụm từ “ma túc bao” ở cuối câu thơ thứ ba đã gối đầu vào câu thơ thứ tư theo lối đảo ngược, nếu đọc liên tục ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay đều đặn của chiếc cối xay ngô, nó cứ chuyển động dường như triền miên không dứt: “…ma bao túc… bao túc ma… ma bao túc” đưa ta với một buổi tối sum họp, ấm áp của một gia đình vùng sơn cước.

Hồ Chí Minh đã có phát hiện mới trong bút pháp miêu tả thời gian đó là sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, vòng quay của chiếc cối chấm dứt đồng nghĩa rằng công việc kết thúc và lò than cũng vừa đỏ. Ánh lửa hồng xuất hiện bất ngờ tỏa sáng vào đêm tối đã xua tan cái lạnh lẽo, tối tăm thắp lại ánh sáng và sự ấm áp cho đêm miền sơn cước. Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ có một vị trí đặc biệt, nó được xem là nhãn tự của toàn bài.

Nhà thơ Hoàng Trung Thông nhận xét: “Với một chữ hồng Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã…” Ánh hồng không chỉ tỏa ra từ bếp lửa mà còn tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của người tù cách mạng. Dường như trong thơ Bác luôn hướng về những thứ cao cả, đẹp đẽ: “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh), trong bài “Giải đi sớm” chữ “hồng” cũng đã từng xuất hiện:

“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”

và ta luôn biết rằng, con đường cách mạng Việt Nam cũng đi từ trong đêm trường nô lệ để đến với con đường vinh quang cũng được biểu tượng qua ánh hồng:

“Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”

Như vậy, chữ “hồng” đã tạo lên một điểm sáng nghệ thuật đem lại giá trị thẩm mĩ, nó vừa xua tan cái lạnh lẽo, vừa gợi cảm giác vui tươi, bình yên, đầm ấm của cuộc sống, vừa biểu tượng cho sự lạc quan, yêu đời của Bác. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng chất thép trong thơ Hồ Chí Minh. Đó là chất thép của những tình cảm lớn lao, của niềm tin và nghị lực phi thường.

Những năm 40 của thế kỉ trước, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái.

Đọc thơ Người ta khám phá được “từ màu sắc cổ điển bỗng tỏa sáng tinh thần thời đại”, thấy được tư thế ung dung của người tù cách mạng như nhà thơ Tố Hữu từng viết:

“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác

Mười bốn trăng tê tái gông cùm

Ôi chân yếu, tay mờ, tóc bạc

Mà thơ bay cánh hạc ung dung”

“Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,

Hoa tàn hoa nở cũng vô tình,

Hương hoa bay thấu vào trong ngục

Kể tù nhân nỗi bất bình.”

Thời gian có thể làm cho cái đẹp bị tàn phai, nhưng không thể giết chết cái đẹp. Hoa hồng tàn về thân xác cánh hoa có thể rơi, đài hoa có thể rụng nhưng hương hoa vẫn còn thơm mãi, hồn hoa biết bay đi để tìm người bạn tri âm tri kỉ cùng chia sẻ nỗi buồn, nỗi bất bình, tài năng của người nghệ sĩ có thể làm cho cái đẹp bất tử. Những vần thơ “Chiều tối” cũng vậy, nó vẫn vươn mình trong “vùng đất chết” để trở thành một thi phẩm chói lòa, vượt ra khỏi nỗi khổ của người tù chuyển lao, thoát khỏi “cái dơ bẩn thấp hèn” và thay vào đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và yêu con người đến tha thiết.

(Nguồn: Thích văn học)

Phân tích bài Chiếu tối siêu ngắn mẫu số 13

Thơ ca tử cổ chí kim, đã có biết bao bóng chiều ngả xuống, bao bản nhạc chiều xuyên suốt, bao bức tranh chiều hiện lên qua các con chữ… mà các nghệ sĩ, tao nhân để lại cho di sản văn học dân tộc. Về mặt này, Hồ Chí Minh trong tư cách nhà thơ cũng không phải là một ngoại lệ. Trong tập ‘Nhật kí trong tù’, có một buổi chiều với hoàn cảnh thật đặc biệt, nhưng lại được tái hiện rất đỗi bình thường. Đó chính là những dư âm êm ả, vang lên từ tấm lòng rung động đáng trân trọng của Người trong bài thơ ‘Chiều tối’ (Mộ).

Thi phẩm Chiều tối được sáng tác vào cuối thu năm 1942, trên con đường chuyển lao khổ ải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Ở thời điểm chiều tối ấy, những đày đọa ban ngày vẫn chưa qua mà những khó khăn ban đêm sắp đến. Thế nhưng, trong bài thơ của Bác, tuyệt nhiên không có một chữ ‘chiều’ hay ‘tối’, không một chi tiết nói về cảnh tù đày. Ta chỉ thấy hiện lên là một thiên nhiên bát ngát, cao trong, thanh bình êm ả; chỉ có một hồn thơ thư thái, say mê hướng về sự sống, về phía ánh sáng và niềm hạnh phúc trong lao động.

Cảnh chiều tối hiện ra qua những nét vẽ cổ điển của Đường thi, không miêu tả âm thanh mà nghe thật vắng vẻ quạnh hiu, không có màu sắc mà thấy thật thâm u, huyền bí:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Với nét chấm phá quen thuộc, bút pháp lấy động tả tĩnh, lấy điểm gợi diện: cánh chim – chòm mây – bầu trời, tất cả như lắng đọng trong một thiên nhiên u trầm. Không đơn thuần điểm xuyết thời gian, không gian như những vần thơ cổ điển: “Chúng điểu cao phi tận / Cô vân độc khứ nhàn” (Lý Bạch), mà ở đây, Người đặt chữ ‘quyện’ lên đầu câu, như nhìn thấu sự mệt mỏi của cánh chim sau một ngày kiếm sống. Hướng tầm mắt lên phía cánh chim, là hướng tới bầu trời hữu hình – một tín hiệu thẩm mĩ trong thi ca.

Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang màu sắc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung của tác giả. Mọi hoạt động dường như chững lại, đám mây lơ lửng, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Vốn dĩ, hai chữ ‘thiên’ và ‘không’ đều nói về bầu trời, nhưng nhà thơ lại gắn liền hai từ cùng nghĩa lại với nhau, cực tả cảm giác mênh mang vô tận, nhấn mạnh đến sự vận động cô đơn của chòm mây trôi chậm chạp, lững lờ từ chân trời này sang chân trời khác mà không có điểm dừng. Người đã phá vỡ rào cản khắt khe, tính chất quy phạm của thơ Đường, biến thế giới khách quan trở thành thế giới nội tâm. Dù bị áp giải từ lúc ‘gà gáy một lần đêm chửa tan’, phải hứng chịu ‘rát mặt đêm thu trận gió hàn’, nhưng ý chí vượt lên hoàn cảnh cùng ước mong sum họp, khát vọng tự do đã thôi thúc người nghệ sĩ hòa hợp đồng điệu hồn mình với thiên nhiên.

Bức tranh phác họa thiên nhiên giờ đây lại nhường chỗ cho bức tranh sơn mài sắc nét, rực rỡ, đầy tính hội họa về một khung cảnh rất đỗi đời thường:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

(Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.)

Hai câu thơ diễn tả sự vận động thời gian từ lúc chiều tối đến lúc tối hẳn. Cặp mắt của thi nhân đã thôi không ngước mãi về phía bầu trời, mà hướng về mặt đất, để rồi ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô, một chiếc lò than trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị. Với ý thơ khéo léo này, bản dịch tỏ ra bất lực khi sử dụng hai chữ ‘cô em’, đồng thời thêm chữ ‘tối’ vào câu thơ, làm mất mát đi chút ít cái tinh tế của ý thơ và lòng trân trọng của tác giả dành cho con người. Nghệ thuật láy âm, vắt dòng với điệp ngữ “ma bao túc” - “bao túc ma hoàn” gợi lên nhịp làm việc không ngừng nghỉ của người thiếu nữ xóm núi trong vòng quay của động tác xay ngô - song song với dòng lưu chuyển của thời gian đất trời. Người thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi, mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình, đó là cách nhìn nhận đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:

“Làng xóm ven sông đông đúc thế

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh”

(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)

Chính vì tấm lòng hướng về con người, nên trái tim Bác lại rung lên những tiếng thơ đầy nhân ái mỗi lần bắt gặp những hoàn cảnh khác nhau. Từ tiếng khóc oa oa của cháu bé trong nhà lao Tân Dương - “Cha trốn không đi lính nước nhà”, hay người thợ phu làm đường (…). Còn trong bài thơ ‘Mộ’, Bác dành tình thương cho người thiếu nữ lao động vất vả. Vòng quay cối xay ngô mang nhịp lao động, là hơi thở của sự sống, là sự vận động thời gian; sâu xa hơn là vòng đời luẩn quẩn của những kiếp người bé nhỏ dưới chế độ Tưởng Giới Thạch.

Tuy bài thơ mở ra với cảnh chiều tối u trầm, song đã khép lại ở hình ảnh ‘lô dĩ hồng’. Bút pháp vẽ mây nảy trăng vốn dĩ thường có ở những bậc thi nhân tài xuất như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, nhưng nay lại được vận dụng đầy khéo léo trong những vần thơ của Bác. Dưới ánh mắt người tù đày, “lô dĩ hồng” là hình ảnh bình dị của đời sống, làm bừng sáng gương mặt của người thiếu nữ, xua đi cái lạnh lẽo ở miền sơn cước. Chữ “hồng” vang lên như một thanh âm trong trẻo giữa núi rừng, mà nhà thơ Hoàng Trung Thông từng có lời nhận xét: “nó sáng bừng lên, nó cản lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫu nặng đến mấy đi chăng nữa”. Trời càng tối dần, ma lực của màu hồng lại càng phát sáng, làm thay đổi gam màu bức tranh toàn cảnh. Chữ hồng ấy cũng chính là tình thương, là chất thép, là bản lĩnh và trí tuệ của Hồ Chí Minh:

“Người ghét sự chói chang, nhưng chính Người là nguồn ấm nóng

Của vầng hồng đánh dẹp bóng đêm lui.”

Tác phẩm hoàn toàn đảm bảo cấu trúc đặc trưng của một bài thơ tứ tuyệt, nhưng điều đặc biệt là có sự vận động của tứ thơ: từ bóng tối lan tràn, theo con mắt của người tù mà hướng về phía ánh sáng. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện đại, giữa chất thép và chất trữ tình, là sự hòa điệu tuyệt diệu giữa cái nhịp nhàng của thiên nhiên và cuộc sống nhịp nhàng của con người. Nhịp thơ có sự chuyển biến rõ rệt: chậm rãi ở hai dòng đầu và bắt đầu mạnh mẽ hơn ở hai dòng sau, rồi kết thúc nhanh bởi ba chữ ‘lô dĩ hồng’ - nhãn tự và thần sắc của toàn bài thơ. Bài thơ Chiều tối đã thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm tỏa ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Qua đó, người đọc thấy được cảm hứng lãng mạn cách mạng, cùng cái nhìn lạc quan, tươi sáng của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại.

Kiến thức mở rộng về bài thơ Chiều tối

1. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Chiều tối

- Bài thơ rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng.

- Cảm hứng được gợi lên bởi cuộc chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trên đường chuyển lao suốt một ngày dài với xiềng xích đi bộ đường rừng đến tận chiều tối mà chưa được nghỉ chân.

2. Bản phiên âm và dịch nghĩa Chiều tối

Bản phiên âm:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Bản dịch nghĩa:

Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,

Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không

Thiếu nữ xóm núi xay ngô,

Ngô vừa xong, lò than đã đỏ.

3. Một số nhận định về Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối

- “Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được”

(Hoài Thanh)

- "Hồ Chí Minh rất Đường mà không Đường một tí nào. Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong 3 câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay ngô tối. Chữ "hồng" trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là "con mắt" thơ (thi nhã hoặc nhãn tự), nó bừng sáng lên, nó cân lại chỉ một chữ thôi với 27 chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ "hồng" đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác".

(Nguyễn Trung Thông)

- "Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu thơ đầu thì thơ Hồ Chí Minh không khác gì thơ Liễu Tông Nguyên đời Đường:

Thiên sơn điêu phi tận

Vạn kính nhân tông diệt

Cô thuyền xuy lạp ông

Độc điếu hàn giang tuyết

(Nghìn non chim bay hết

Muôn nẻo dấu người mất

Trên thuyền cô độc lão già

Một mình cầu sông tuyết lạnh)

(Hoài Thanh)

-/-

Trên đây là những gợi ý chi tiết cho bài phân tích Chiều tối cùng những bài văn mẫu 11 hay đặc sắc nhất mà Đọc tài liệu đã tổng hợp và biên soạn gửi đến các em tham khảo. Hi vọng, bài viết sẽ mang đến những thông tin hữu ích cho các em trong quá trình tìm hiểu và phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh. Chúc các em làm bài tốt!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM