Trang chủ

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Xuất bản: 09/09/2020 - Cập nhật: 02/07/2024 - Tác giả:

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để thấy được những nét mới mẻ, độc đáo trong cách cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích Đất nước để hiểu và cảm nhận rõ hơn cảm nghĩ mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa,... cùng với sự nhấn mạnh tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" qua giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha.

Bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm mang đậm chất trữ tình và triết lý, thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và cái nhìn mới mẻ về đất nước gắn liền với nhân dân. Để phân tích tác phẩm này một cách trọn vẹn, em cần nắm vững những bước cơ bản và có một hướng tiếp cận phù hợp. Bài viết này sẽ hướng dẫn các em cách làm bài văn phân tích bài thơ Đất Nước một cách chi tiết và hiệu quả, từ việc tìm hiểu tác phẩm, tác giả đến việc xây dựng dàn ý và triển khai thành bài văn.

Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất nước

1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm

a) Tiểu sử cuộc đời

- Nguyễn Khoa Điềm (1943) sinh ra tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền nhưng quê gốc ở làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng.

- Lúc nhỏ ông học ở quê nhưng đến năm 1955 ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam.

- Năm 1964, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội

- Ông vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế, tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ,... cho đến năm 1975.

- Năm 1975, ông trở thành hội viên hội nhà văn Việt Nam.

- Năm 1994, ông ra Hà Nội công tác và giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.

- Năm 1995, ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.

- Năm 1996, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, là Đại biểu Quốc hội khóa X và giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.

- Năm 2001, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001 - 2006).

- Hiện tại ông đã nghỉ hưu và đang sinh sống tại Thành phố Huế.

b) Sự nghiệp văn học

- Phong cách sáng tác:

Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận hấp dẫn bởi:

+ Lấy chất liệu từ văn học Việt Nam, cảm hứng từ quê hương, con người và tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước...

+ Có sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam.

+ Thể hiện rõ được con người Việt Nam và bản chất anh hùng bất khuất của chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

- Thành tích:

+ Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ "Ngôi nhà có ngọn lửa ấm".

+ Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ "Cõi lặng" (2010).

c) Các tác phẩm tiêu biểu

- Đất ngoại ô (thơ, 1973)

- Cửa thép (ký, 1972)

- Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974)

- Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986)

- Thơ Nguyễn Khoa Điềm (thơ, 1990)

Cõi lặng (tập thơ, 2007)

- ...

2. Bài thơ Đất nước

a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ

- Bài thơ Đất nước ra đời vào mùa đông năm 1971, khi Nguyễn Khoa Điềm đang tham gia chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ và tay sai của cả dân tộc.

- Xuất xứ: Đoạn trích “Đất nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng.

- - Vị trí trong thơ ca Việt Nam hiện đại: Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những đoạn thơ hay nhất về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

b) Nội dung chính

- Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình với quê hương đất nước.

- Cảm hứng bao trùm đoạn trích là ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân trên hành trình dựng nước và giữ nước.

c) Bố cục đoạn trích

- Phần 1: “Khi ta lớn lên… Đất Nước muôn đời” => Cách cảm nhận và lí giải của nhà thơ về đất nước.

- Phần 2: Từ “Những người vợ nhớ chồng… trăm dáng sông xuôi” => Tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân.

>>> Tham khảo lại nội dung hướng dẫn soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

Sơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

>>> Xem thêmSơ đồ tư duy Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

3. Một số nhận định hay về Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích Đất nước

- "Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân."

(Nguyễn Khoa Điềm)

- “… Điều may mắn với tôi là được sống trong những tháng năm hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn…

(Nguyễn Khoa Điềm)

- “… Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo một hình tượng Đất Nước thân quen mà mới lạ trong thi ca Việt Nam… Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa nên một Đất Nước toàn vẹn, là sự thống nhất của lãnh thổ và văn hóa, của lịch sử và sự sống, một Đất Nước trong không gian tinh thần của người Việt Nam".

- “… Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ...”.

(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn)

- “… Những sợi ngang dọc dệt nên hình tượng thơ Nguyễn Khoa Điềm đều óng ánh một màu sắc đặc biệt của chất liệu văn hóa dân gian - đó là một lực hút nữa của đoạn thơ Đất Nước… để rồi người đọc lặng đi xúc động trước một cách định nghĩa thật bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm…”.

(Nguyễn Quang Trung, Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12)

Phân tích nội dung bài thơ Đất nước

1. Nguồn gốc Đất nước

- Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.

+ “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” -> Đất nước đã có từ lâu đời

+ “ngày xửa ngày xưa” -> gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian

- Đất nước bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục, gắn liền với truyền thống văn hóa, quá trình hình thành phong tục tập quán.

+ “miếng trầu” -> tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau

+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” -> thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam

- Đất nước được bắt nguồn từ những điều gần gũi, bình dị trong đời sống của người dân Việt Nam:

+ “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” -> thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.

+ “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương” -> Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất.

2. Định nghĩa về Đất Nước

- Đất nước trên phương diện không gian địa lí:

+ "Đất / nước": hai yếu tố được tách riêng để suy tư một cách sâu sắc

+ Đất nước là nơi hẹn hò, sinh sống của mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi... thương thầm” (sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những những rung động đầu đời,...)

+ Đất nước là núi, sông, rừng, biển: “nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi

+ Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ: "là nơi dân mình đoàn tụ..."

- Đất nước trên phương diện thời gian lịch sử: Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai

+ Dài “đằng đẵng” từ xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em cùng chung con Rồng, cháu Lạc và truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng ngày giỗ Tổ.

+ Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.

+ Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.

- Trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ trẻ đối với đất nước: phải biết san sẻ, hóa thân, đoàn kết, xây dựng và bảo vệ đất nước muôn đời, thống nhất, hài hòa tình yêu lứa đôi với tình yêu đất nước...

3. Tư tưởng Đất nước của nhân dân

a) Phương diện không gian, địa lý

- Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người.

+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.

+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”

- Nhắc tên những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam trong nhiều ý thơ: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm...

- Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc thông qua những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết:

+ Sự tích trầu cau: tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, phong tục ăn trầu nhuộm răng của nhân dân ta.

+ Truyền thuyết Thánh Gióng: truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm.

- Gợi ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta bằng cách nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền.

+ “núi Vọng Phu” ở Lạng Sơn

+ “hòn Trống Mái” ở Thanh Hóa...

+ “trăm ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua rải rác khắp mọi miền đất nước

+ “đất tổ Hùng Vương” là vùng Phú Thọ

+ “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Ngãi

+ “Hạ Long” ở Quảng Ninh

+ “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” ở miền Nam.

- Đức tính thủy chung son sắt, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm, truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt (con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương).

=> Những danh lam thắng cảnh, địa danh nổi tiếng khắp mọi miền đất nước đều do nhân dân tạo ra, là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân - những con người bình thường, vô danh.

b) Phương diện thời gian lịch sử

- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm đấu tranh bảo vệ Tổ quốc:

Có biết bao người con gái con trai

          …

Nhưng họ làm ra đất nước

+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực lòng yêu nước.

+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

c) Bình diện văn hóa

- Không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước, nhân dân còn là người truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần như “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,...

"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái"

- 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt được gợi ra thông qua ba câu ca dao tiêu biểu được tác giả nhắc đến trong đoạn trích:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

+ “Yêu em từ thuở trong nôi / Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”: chỉ nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.

+ “Cầm vàng mà lội qua sông / Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”: cho thấy vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.

+ “Thù này ắt hẳn còn lâu / Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”: gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.

=> Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích là “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người (biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước).

4. Những nét mới trong cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm

- Thời điểm ra đời của Đất nước từ rất xa xưa, bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

- Phạm vi tồn tại của Đất nước không chỉ là không gian sống mà còn hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân.

- Sự lớn lên của Đất nước gắn liền với quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

- Định nghĩa về Đất nước rất độc đáo dựa trên bề rộng của không gian địa lí, bề dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa

- Ý thức trách nhiệm đối với Đất nước: mỗi người phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ đất nước, phát huy nền văn hóa dân tộc.

- Đất Nước là của nhân dân - những con người bình thường nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động nhưng lại kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến đấu.

Giá trị nội dung và nghệ thuật bài Đất Nước

1. Giá trị nội dung

- Đất nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân, nhân dân là người làm ra đất nước.

- Thức tỉnh tinh thần dân tộc, nêu cao trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.

2. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ tự do phóng túng, linh hoạt, hiện đại

- Giọng thơ suy tưởng, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc: đặt câu hỏi và tự trả lời.

- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian đa dạng, sáng tạo để chi phối tư tưởng “Đất Nước là của Nhân Dân”.

- Giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, tha thiết.

Mẫu dàn ý phân tích bài thơ Đất nước

Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ cứu nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết lí, suy tư của người trí thức về đất nước, con người.

- Giới thiệu về bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.

Thân bài phân tích Đất nước

1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời gian

a. Đất Nước có từ bao giờ? (lí giải cội nguồn của đất nước) (9 câu đầu)

- Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.

- Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.

- Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

- Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.

b. Định nghĩa về Đất Nước (28 câu thơ tiếp theo)

- Về phương diện không gian địa lí:

+ Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.

+ Đất nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi: “nơi em đánh rơi... thương thầm”.

+ Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng... dân mình đoàn tụ”.

- Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:

+ Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền thoại: “Đất là nơi chim về... trong bọc trứng”

+ Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.

+ Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.

- Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.

- Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.

2. Tư tưởng cốt lõi Đất nước của nhân dân

- Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:

+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”

+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.

+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”

- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:

+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.

+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

- Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,... từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.

- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước.

- Nhận xét:

+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước trên nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.

+ Về nghệ thuật: sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc.

Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: Nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước trong mỗi con người.

- Nêu cảm nhận riêng về đoạn trích Đất Nước và có liên hệ thực tiễn đến trách nhiệm của thế hệ hôm nay với đất nước.

Xem thêm hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chi tiết và đầy đủ để không bỏ sót ý cho bài văn của mình.

Bài văn mẫu phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích Đất nước mẫu số 1

Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945 - 1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang - chiến tranh cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả lựa chọn đưa vào tác phẩm của mình với những vần thơ, lời văn chân thành tha thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm - một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - cũng chọn cho mình đề tài đất nước giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc.

Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”

Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích trầu cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn.

Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý, Nguyễn Khoa Điềm ví “Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn / Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi.

Không chỉ thế “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc... Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác. Nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.

“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng.

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay / Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn tròn to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng”

Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững mạnh gấp nhiều lần hôm nay.

Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước.

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối với một người con gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ sau, của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ. Đất Nước là một khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh “máu xương của mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có. Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau là biểu hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện bằng hành động. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”, đặc biệt phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”, dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình.

Sau những dòng thơ nêu nên sự hình thành và phát triển của Đất Nước thì Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu đi vào nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng câu hỏi Đất Nước do ai làm nên:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Trên phương diện không gian địa lý, tác giả đã cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng việc nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ. Đặc biệt những địa danh này vốn đã trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam và gắn liền với những cổ tích, những thần thoại trong văn hóa dân tộc, mục đích là để gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước. Không chỉ vậy, sâu xa hơn nữa việc Nguyễn Khoa Điềm liệt kê các địa danh như vậy cũng là nhằm kể tên các vùng đất tương ứng trên dải đất hình chữ S, ví như “núi Vọng Phu” ngự ở Lạng Sơn, và còn ở rất nhiều nơi khác, gợi nhắc về hình ảnh những người vợ chờ chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ quốc. Rồi “hòn Trống Mái” thì ở Thanh Hóa, “trăm ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua thì rải rác khắp mọi miền đất nước, “đất tổ Hùng Vương” là vùng Phú Thọ, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Ngãi, “Hạ Long” ở Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” là những địa danh ở mảnh đất miền Nam.

Thêm nữa, việc nhắc đến các vùng đất khắp Tổ quốc như vậy còn là để nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta. Đồng thời những danh lam thắng cảnh ấy cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương. Ngoài ra việc sử dụng cấu trúc thơ độc đáo, một bên là con người, sự vật sự việc dung dị đại diện cho hình ảnh của nhân dân, một bên là những địa danh, những thắng cảnh kỳ vĩ, lớn lao đại diện cho hình ảnh của Đất Nước được nối với nhau bằng những từ “góp”, “góp tên”, “góp mình”,... đã khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Sau khi diễn giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân ở các chi tiết thì Nguyễn Khoa Điềm chuyển sang nâng ý thơ lên tầm khái quát. Khẳng định tầm vóc kỳ vĩ của Đất Nước ở phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn, vĩnh hằng của Đất Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Từ đó dẫn dắt, khẳng định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa có bề dày lịch sử ở những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi / Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” cùng với “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy / Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”. Rất tha thiết, nồng đượm yêu thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên bằng chính cuộc đời của các thế hệ cha ông, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập quán đã in hằn trên dáng vẻ của Đất Nước.

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Tư tưởng Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện thời gian lịch sử. Trong suốt 4000 năm nhân dân đã chăm chỉ cần cù để xây dựng Đất Nước, khi có chiến tranh thì người con trai lập tức ra trận bảo vệ Đất Nước. Còn người con gái trở thành người chèo chống gia đình, nuôi con cái, thế nhưng mang trong mình dòng máu Bà Trưng Bà Triệu, họ cũng trở nên mạnh mẽ kiên cường cả trong chiến đấu. Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã khiến họ trở thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh những con người hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau vẫn luôn trân trọng, yêu quý bởi họ chính là người làm ra Đất Nước.

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”

Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng sống trong tối tăm, lạnh lẽo, truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy.

“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đẹp riêng của tâm hồn Việt, của văn hóa Việt. Vì “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng văn học dân gian đều thấy hiện lên diện mạo văn hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng của nhân dân những con người mang đậm nét truyền thống của dân tộc. Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra ba vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là ba nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung. “Yêu em từ thuở trong nôi / Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình. Tiếp theo là câu “Cầm vàng mà lội qua sông / Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường. Cuối cùng là câu tục ngữ “Thù này ắt hẳn còn lâu / Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.

“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng thì tác giả đã nêu lên những cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của quê hương, của Đất Nước. “Dòng sông” dù có bắt nguồn từ đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang giọng hát của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân tộc. Mỗi con người Việt Nam, trong công cuộc mưu sinh, lao động trên cái dòng chảy ấy lại có những cách ứng xử khác nhau rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 năm văn hiến.

Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên nhiều bình diện, địa lý, lịch sử và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Về nghệ thuật đoạn trích được viết theo lối quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người.

Phân tích Đất nước mẫu số 2

Đất Nước - chỉ vỏn vẹn hai từ thôi nhưng khi cất lên mới thấy nó thiêng liêng làm sao, nó làm xao xuyến bao triệu trái tim con người. Đất Nước đi vào đời chúng ta một cách nhẹ nhàng qua những lời ru ngọt ngào êm dịu của bà của mẹ, qua những làn điệu, những câu dân ca mượt mà và qua những vần thơ sâu lắng, thiết tha, rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta đã bắt gặp một hình tượng Đất Nước đầy đau thương, mất mát nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ của Nguyễn Đình Thi, hay một Đất Nước cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ của Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm lại khác, ta lại bắt gặp một Đất Nước qua cái nhìn toàn vẹn hơn, được tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau. Thông qua những vần thơ giản dị mộc mạc kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, nêu cao tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước và nhắc nhở về trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

Mở đầu đoạn trích ta bắt gặp một giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ thật bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn của đất nước:

“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.

Trước hết, Đất Nước không phải là một khái niệm gì đó trừu tượng, hay ở nơi đâu xa xôi mà nó là những điều hết sức gần gũi, thân thiết ở ngay trong chính cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước có trong những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mà mẹ thường hay kể, có trong miếng trầu của bà hay ăn, cây tre trước ngõ,… Tất cả gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung, hiền hậu, thủy chung son sắt tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi đứng lên đấu tranh chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, mỗi cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần của Đất Nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc ta.

Đất Nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán có từ ngàn đời nay, là minh chứng của một dân tộc rất giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Gừng đương nhiên là cay mà muối thì tất nhiên là mặn. Tình yêu thương cha mẹ dành cho nhau mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.

Đất Nước còn là thành quả của chính những công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa của cha ông ta:

“Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó”.

Một lần nữa, Đất Nước được hiện lên với những hình ảnh vừa quen thuộc vừa gần gũi biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian thân thuộc để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của nhân dân”. Vẫn bằng lối trò chuyện tâm tình thủ thỉ với nhân vật đối thoại trong tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải về khái niệm đất nước theo một kiểu riêng của mình:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.

Đất Nước không chỉ được cảm nhận trong không gian văn hóa, phong tục tập quán, trong lối sinh hoạt của con người mà nó còn hiện lên trong tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã tách hai từ “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” riêng biệt để lí giải rõ hơn, cụ thể hơn về ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế đầy thi vị và một sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra như thế thì Đất Nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và mang đầy đủ ý nghĩa nhất.

Không chỉ dừng lại ở đó, Đất Nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử, chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn đang trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện có từ xa xưa, từ những điển tích điển cố ngàn đời trước mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, hay “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là những minh chứng cho sự phát triển đầy thăng trầm nhưng cũng rất đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày tháng xưa kia vất vả chính là đạo lí, là truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta. Đất Nước là nơi trở về của những tâm hồn, những con người luôn thiết tha với quê hương. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc gần gũi là vậy nhưng đôi khi cũng thật rộng lớn, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng có lúc giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình người Việt là như thế, lúc nào cũng luôn một hướng về quê hương, hướng về cội nguồn của mình.

Đất Nước trường tồn mãi mãi trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông rộng lớn để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sống, là nơi sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua hàng nghìn thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ để muốn nhắc nhở mọi người luôn nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba ở chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về miền đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

Nhắc đến những chuyện xa xưa  ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở rằng:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Cảm hứng thơ của tác giả trong đoạn trích có vẻ phóng túng, tự do, thoải mái nhưng vẫn có một hệ thống lập luận rõ ràng, tác giả đã thể hiện đất nước trong ba phương diện chính đó là: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử và trong bề dày của văn hóa - phong tục cũng như lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.

Ba phương diện ấy được gắn bó thống nhất với nhau và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt lõi Đất Nước của nhân dân vẫn như là một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ. Và cụ thể, gần gũi hơn nữa, Đất Nước ở ngay trong chính máu thịt của mỗi người chúng ta:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước”

Ngay trong cơ thể chúng ta, Đất Nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương, vì thế mà sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mình mà là của cả đất nước. Dù ít dù nhiều mỗi con người đều thừa hưởng những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, vì vậy phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên một đất nước muôn đời. Chính từ những quan niệm như vậy về đất nước, mà phần sau của tác phẩm tác giả đã tập trung làm nổi bật lên tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo, đã làm lên Đất nước.

Tư tưởng đó đã đưa đến một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền của đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái hay những núi Bút non Nghiên… không chỉ đơn giản là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những phẩm chất, số phận của nhân dân, nó có được là do những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi, là những người vợ nhớ chồng, mong ngóng chồng trở về nên tạo ra núi Vọng Phu, là những cặp vợ chồng yêu thương nhau tạo lên hòn Trống Mái….

Ở đây qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm cảnh vật thiên nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân là người đã tạo dựng lên đất nước, đã đặt tên và ghi dấu vết chính cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể đó mà nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã xâm chiếm, chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm của Đất Nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại hay không nói đến những vị anh hùng dân tộc được lưu danh sử sách mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình dị, bình thường. Đất Nước trước tiên chính là của nhân dân, của những con người vô danh hết sức bình dị đó.

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất nước”

Họ lao động và đứng lên chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau này những giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất từ cao quý đến giản dị của Đất Nước, từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên làng đến những câu truyện thần thoại, câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để rồi đến cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của toàn bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và đầy độc đáo:

“Đất nước này là Đất nước nhân dân

Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

Một định nghĩa vô cùng giản dị, bất ngờ về đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn được thể hiện ở những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc. Bài thơ kết lại bằng tiếng hát mang đầy sự tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng khắp cả núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho ta thấy sự biết ơn, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời mà cha ông để lại.

Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tuyệt tác trong kho tàng văn học dân tộc viết về đất nước. Từ những cảm nhận hết sức gần gũi, quen thuộc, đất nước chẳng còn xa lạ, trừu tượng, xa xôi mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm người đọc không chỉ tìm về cội nguồn của dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần, nhắc nhở về tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.

Nghe bài phân tích bài thơ Đất Nước

Tài liệu tham khảo

- Sách giáo khoa Ngữ văn 12, Bài Đất nước, trang 118

- Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (22 tháng 12 năm 2009)

https://tienphong.vn/nguyen-khoa-diem-ke-chuyen-va-tu-bach-post156399.tpo

https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Khoa_%C4%90i%E1%BB%81m

Dựa trên nội dung phân tích và bài văn mẫu phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mà Đọc Tài Liệu vừa cung cấp ở trên, hi vọng các em sẽ dễ dàng nắm được cách triển khai bài phân tích, mở rộng vốn từ ngữ vận dụng trình bày trong bài làm của mình để đạt điểm cao. Chúc các em làm bài tốt!

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM