Trang chủ

Nghị luận về tác phẩm truyện Làng

Xuất bản: 06/08/2024 - Tác giả:

Nghị luận về tác phẩm truyện Làng của nhà văn Kim Lân để hiểu rõ hơn về tình yêu làng quê, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến bất khuất của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Nghị luận về tác phẩm truyện Làng của Kim Lân - một tác phẩm văn học kinh điển giàu giá trị nhân văn. Tình yêu làng quê mãnh liệt, lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật ông Hai đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ độc giả. Bài viết này sẽ hướng dẫn em cách phân tích nhân vật ông Hai, khám phá ý nghĩa của tình yêu làng quê và đánh giá nghệ thuật xây dựng tình huống truyện để hoàn thiện bài văn nghị luận của mình.

Các vấn đề nghị luận về tác phẩm truyện Làng

Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một tác phẩm có thể có nhiều hướng để phân tích và nghị luận. Dưới đây là một số vấn đề nghị luận chính mà các em có thể khai thác:

1. Tình yêu làng quê và lòng yêu nước của ông Hai

- Tình yêu làng của ông Hai có gì đặc biệt? Tình yêu làng quê mãnh liệt, sự gắn bó sâu sắc của ông Hai với làng Dầu thể hiện qua những chi tiết cụ thể trong truyện.

- Lòng yêu nước nồng nàn: So sánh tình yêu làng quê với lòng yêu nước, làm rõ mối quan hệ giữa hai tình cảm này.

- Sự thống nhất giữa tình cá nhân và tình chung: Phân tích truyện ngắn Làng để thấy cách tác giả xây dựng nhân vật ông Hai để thể hiện sự thống nhất giữa tình yêu cá nhân và tình yêu chung.

- Tại sao tình yêu làng quê lại trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của ông Hai?

- Sự gắn bó giữa tình yêu làng quê và lòng yêu nước của ông Hai như thế nào?

- Những biến đổi tâm lý của ông Hai khi tin làng mình theo giặc phản ánh điều gì?

- Tình yêu làng quê của ông Hai có ý nghĩa gì trong cuộc kháng chiến chống Pháp?

2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Sự thành công của Kim Lân trong việc khắc họa tâm lý nhân vật ông Hai thể hiện ở những điểm nào? Phân tích cách Kim Lân miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật một cách tinh tế và sinh động.

- Cách xây dựng nhân vật ông Hai:

+ Kim Lân đã xây dựng nhân vật ông Hai bằng những phương pháp nghệ thuật nào?

+ Hình ảnh ông Hai có đại diện cho tầng lớp nhân vật nào trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ?

+ Phân tích những nét tính cách tiêu biểu của ông Hai, ngôn ngữ nhân vật, hành động của nhân vật.

3. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện

- Tình huống truyện trong "Làng" có gì đặc biệt?

- Vai trò của tình huống truyện trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm?

- Cách xây dựng tình huống truyện của Kim Lân có gì độc đáo?

4. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

- Giá trị nhân đạo: khắc họa cuộc sống của người dân nông thôn với những khó khăn, đau khổ, nhưng cũng có những niềm vui, tình yêu và hy vọng, thể hiện sự đồng cảm và thông cảm của tác giả đối với những khó khăn mà người dân nông thôn phải đối mặt. Thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam như yêu nước, trung thành, kiên cường

- Giá trị hiện thực: mô tả một cách chân thực và sinh động cuộc sống của người dân nông thôn, không chỉ tập trung vào những khía cạnh tích cực của cuộc sống nông thôn mà còn đề cập đến những khía cạnh khó khăn, như nghèo đói, bệnh tật, bất công xã hội. Đánh giá giá trị của tác phẩm trong việc giáo dục tình yêu quê hương, đất nước.

5. Sự biến đổi tâm lý của nhân vật

- Tâm trạng của ông Hai trước và sau khi nghe tin làng có người theo giặc: So sánh, đối chiếu để thấy rõ sự biến đổi tâm lý phức tạp của nhân vật.

- Nguyên nhân dẫn đến những biến đổi đó: Phân tích những yếu tố tác động đến tâm lý của ông Hai như niềm tin, danh dự, lòng tự trọng.

- Ý nghĩa của những biến đổi tâm lý: Đánh giá ý nghĩa của những biến đổi tâm lý đối với việc thể hiện chủ đề của tác phẩm.

5. So sánh Làng với các tác phẩm cùng đề tài

- So sánh tình yêu làng quê của ông Hai với tình yêu quê hương trong các tác phẩm khác (ví dụ: "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu).

- So sánh cách xây dựng nhân vật của Kim Lân với các nhà văn khác cùng thời.

* Một số vấn đề nghị luận mở rộng khác:

- Phân tích chi tiết một đoạn văn, một câu nói đặc sắc trong truyện.

- So sánh hình ảnh làng trong "Làng" với hình ảnh làng quê trong các tác phẩm văn học khác.

- Phân tích vai trò của bối cảnh lịch sử, xã hội trong việc hình thành tâm lý nhân vật.

- Đánh giá ý nghĩa của tác phẩm đối với việc giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ.

- Sự chuyển biến tâm lý của nhân vật ông Hai qua các đoạn trích.

- Phân tích cách sử dụng ngôn ngữ dân dã, giàu hình ảnh để tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

- Ý nghĩa của cái kết mở

- Rút ra những bài học về tình yêu, lòng trung thành, sự hy sinh từ tác phẩm.

- ...

Dàn ý chung bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Làng của Kim Lân

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm truyện ngắn Làng.

- Nêu vấn đề nghị luận: Trình bày vấn đề mà em muốn tập trung phân tích, bàn luận (tình yêu làng quê của ông Hai, sự xung đột trong tâm lý nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật,...).

2. Thân bài

a) Tình yêu làng quê mãnh liệt của ông Hai

- Nêu rõ tình yêu làng quê của ông Hai được thể hiện qua những chi tiết:

+ Tình yêu làng quê của ông Hai gắn liền với niềm tự hào dân tộc.

+ Tình yêu làng quê là động lực giúp ông Hai vượt qua khó khăn.

+ Sự đau khổ tột cùng của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc.

- Biểu hiện của tình yêu làng quê:

+ Ông Hai luôn tự hào về làng mình.

+ Ông Hai quan tâm đến mọi việc lớn nhỏ của làng.

+ Ông Hai luôn mong muốn được trở về làng.

- Nguyên nhân của tình yêu làng quê:

+ Làng là nơi ông Hai sinh ra và lớn lên.

+ Làng gắn liền với những kỷ niệm đẹp của ông Hai.

+ Làng là biểu tượng cho quê hương, đất nước.

- Ý nghĩa của tình yêu làng quê:

+ Tình yêu làng quê là động lực giúp ông Hai vượt qua khó khăn.

+ Tình yêu làng quê làm cho ông Hai cảm thấy tự hào về bản thân và dân tộc.

=> Đánh giá ý nghĩa của tình yêu làng quê đối với nhân vật và đối với tác phẩm.

b) Sự xung đột trong tâm lý nhân vật

- Nguyên nhân của sự xung đột:

+ Tin đồn làng chợ Dầu theo giặc.

+ Xung đột giữa tình yêu làng quê và lòng yêu nước.

- Biểu hiện của sự xung đột:

+ Ông Hai cảm thấy đau khổ, xấu hổ.

+ Ông Hai đấu tranh tư tưởng gay gắt.

- Ý nghĩa của sự xung đột:

+ Thể hiện sự phức tạp của tâm lý con người trong chiến tranh.

+ Làm nổi bật tình yêu làng quê mãnh liệt của ông Hai.

=> Đánh giá ý nghĩa của sự xung đột trong việc thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.

c) Nghệ thuật xây dựng nhân vật và tình huống

- Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật và tình huống trong tác phẩm.

+ Cách xây dựng nhân vật ông Hai thể hiện qua: cách sử dụng ngôn ngữ, hành động, ngoại hình...

+ Vai trò của tình huống truyện trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm

+ Nghệ thuật kể chuyện của tác giả.

=> Đánh giá hiệu quả của nghệ thuật xây dựng nhân vật và tình huống.

3. Kết bài

- Khẳng định lại luận điểm chính của bài viết.

- Đánh giá ý nghĩa của tác phẩm đối với người đọc.

- Liên hệ với thực tế cuộc sống hoặc các tác phẩm văn học khác.

Dàn ý nghị luận tình yêu làng quê của ông Hai

Chọn một vấn đề mà em cảm thấy hứng thú và có nhiều điều để nói trong số các vấn đề đã nêu ở trên, đưa ra những ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề ấy kết hợp với những dẫn chứng từ trong tác phẩm để minh họa cho luận điểm của mình.

1. Mở bài

- Giới thiệu về truyện ngắn Làng của Kim Lân

- Vấn đề nghị luận:

2. Thân bài

a) Hoàn cảnh của ông Hai

- Người dân làng chợ Dầu

- Yêu làng nhưng vì hoàn cảnh phải rời xa làng để đi tản cư

- Ông Hai luôn nhớ về làng chợ Dầu, nhớ về những ngày cùng anh em làm việc

- Khoe với mọi người nơi tản cư về sự giàu đẹp, truyền thống đấu tranh của ngôi làng

b) Tình huống bất ngờ

- Làng chợ Dầu ông vẫn luôn thương nhớ, tự hào đi theo giặc.

--> Tình huống bất ngờ, éo le góp phần bộc lộ những vẻ đẹp bên trong con người ông Hai.

c) Vẻ đẹp của ông Hai

- Yêu làng, một lòng hướng về làng:

+ Luôn nghe ngóng thông tin về làng

+ Tự hào, kiêu hãnh về truyền thống đấu tranh của làng

+ Khi nghe tin làng theo giặc: cổ họng nghẹn ắng, giọng lạc đi, đau khổ dằn vặt

=>  Cay đắng, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc.

+ Rạng rỡ, hạnh phúc khi nghe tin cải chính, chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình

- Yêu nước, một lòng trung thành với cách mạng:

+ Đến phòng thông tin nghe tin tức về kháng chiến.

+ Nghe ngóng được những tin chiến thắng của quân ta “ruột gan cứ múa cả lên”.

+ Đứng về phía cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.

3. Kết bài

- Khái quát ngắn gọn giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm

- Liên hệ tới tình yêu nước, trách nhiệm với đất nước của thế hệ trẻ hiện nay.

Những bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Làng hay nhất

Dưới đây là một số mẫu bài văn nghị luận bàn về các vấn đề xoay quanh tác phẩm truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân do Đọc tài liệu sưu tầm, các em có thể đọc tham khảo để mở rộng vốn từ ngữ khi trình bày.

Nghị luận về tác phẩm Làng bài số 1

Tình yêu làng quê mãnh liệt trong tác phẩm "Làng" của Kim Lân

Truyện ngắn "Làng" của Kim Lân không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một bức tranh chân thực về tâm hồn người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Qua nhân vật ông Hai, tác giả đã khắc họa một tình yêu làng quê mãnh liệt, một lòng yêu nước nồng nàn.

Tình yêu làng quê của ông Hai được thể hiện rõ nét qua từng lời nói, hành động của ông. Ngôi làng không chỉ đơn thuần là nơi ông sinh ra và lớn lên mà còn là một phần máu thịt, là niềm tự hào của ông. Ông luôn tự hào khi nói về làng mình, về những người dân chất phác, cần cù. Tình yêu ấy càng trở nên mãnh liệt hơn khi ông phải xa quê, xa làng. Mỗi khi có dịp, ông lại kể về làng mình cho những người xung quanh nghe với một niềm say mê, tự hào.

Tuy nhiên, tình yêu làng quê của ông Hai cũng chứa đựng những mâu thuẫn nội tâm sâu sắc. Khi nghe tin làng mình có người theo giặc, ông cảm thấy đau khổ, xấu hổ tột cùng. Ông không thể chấp nhận được sự phản bội đó, cho dù đó chỉ là một tin đồn. Nhưng rồi, bằng tình yêu làng quê mãnh liệt, ông đã vượt qua được nỗi đau ấy. Ông tin rằng làng mình vẫn là làng Việt Nam, vẫn theo kháng chiến.

Tình yêu làng quê của ông Hai không chỉ là tình cảm cá nhân mà còn là biểu hiện của lòng yêu nước. Ông yêu làng quê cũng chính là yêu đất nước. Tình yêu ấy đã giúp ông vượt qua mọi khó khăn, thử thách, luôn vững tin vào sự chiến thắng cuối cùng của cách mạng.

Qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã thành công trong việc khắc họa một hình tượng người nông dân Việt Nam giàu tình cảm, giàu lòng yêu nước. Tình yêu làng quê của ông Hai là một biểu tượng đẹp đẽ, là nguồn sức mạnh giúp người dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ Tổ quốc.

Nghị luận về tác phẩm Làng bài số 2

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân, truyện của ông thường xoay quanh những nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền thống của người nông dân Bắc Bộ. Nguyên Hồng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với "đất" với "người" với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn.

Truyện ngắn "Làng" (1948) là một minh chứng tiêu biểu cho lời nhận xét đó của Nguyên Hồng. Bằng việc khai thác đề tài tình yêu làng, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã xây dựng thành công tình huống độc đáo trong truyện Làng, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

Trước hết, truyện ngắn "Làng" đã được Kim Lân xây dựng trên tình huống gay cấn để bộc lộ tình yêu làng, tình yêu đất nước sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Đó là tin làng ông theo giặc lập tề mà chính ông nghe được từ miệng của những người tản cư dưới xuôi lên. Tình huống ấy đã đẩy câu chuyện vào chỗ thắt nút khi mà ông Hai - một con người vốn yêu làng, luôn khoe và hãnh diện về làng thì nay lại hay tin làng theo giặc. Vì thế ông đau đớn, xót xa và cảm thấy tủi hổ, bẽ bàng. Trong thế giới nội tâm nhân vật có sự đấu tranh xung đột giữa tình yêu làng và tình yêu nước mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, song tình yêu nước, tinh thần kháng chiến rộng lớn, bao trùm lên tình yêu làng. Nhưng cuối cùng, cũng từ tình huống ấy đã mở nút cho câu chuyện khi mà ông nhận được tin cải chính về làng. Tình huống này đã khẳng định ông Hai và làng chợ Dầu luôn trung thành tuyệt đối với kháng chiến, với cụ Hồ, với dân tộc.

Cũng qua tình huống truyện, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của nhà văn Kim Lân qua nhân vật ông Hai. Có thể nói, dưới tác động của tình huống, sự việc khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm lý nhân vật ông Hai đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói bằng tiếng nói nhân vật, mô tả sự giằng xé trong thế giới nội tâm với những mâu thuẫn, xung đột gay gắt, dữ dội. Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình - làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt, biểu hiện của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được". Từ niềm vui, niềm tin hi vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo lắng khiến ông "cúi gằm mặt mà đi", còn văng vẳng tiếng chửi "giống Việt gian bán nước".

Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con nhỏ: "nước mắt ông lão cứ giàn ra". Những dòng độc thoại nội tâm trong ông thể hiện nỗi day dứt, đau đớn: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?...". Ông căm giận lũ người theo giặc, phản bội làng nước, ông lão nắm chặt hai tay mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Nhưng sau đó, ông lại cảm thấy "ngờ ngợ" như lời của mình không được đúng lắm. Niềm tin và nỗi thất vọng đang giằng xé trong ông. "Ông kiểm điểm từng người trong óc" thấy họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy được.

Trong hoàn cảnh giặc giã thì tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp; còn phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất. Vì thế từ khi nghe tin làng mình theo giặc, nó đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt trong tâm trí của ông, khiến ông ba bốn hôm nay không dam bước chân ra đến ngoài. Suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng binh tình. "Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói xa xa ông cũng chột dạ", lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến "cái chuyện ấy"; cứ thoáng nghe những tiếng Tây, cam nhông, Việt gian là ông lại lủi thủi ra một góc nhà nín thít... "Thôi lại chuyện ấy rồi!". Ông luôn thu mình lại, cảm thấy xấu hổ, đau xót và dường như cảm thấy chính mình cũng có tội vậy. Ông rơi vào tình trạng tuyệt vọng khi mà bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi vì "nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này, không cho ở nữa". Ông Hai không biết đi đâu, cũng không thể quay lại trở về làng vì về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, "về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây".

Trong ông Hai diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt và dứt khoát lựa chọn theo cách của mình "Làng thì yêu thật những làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Tình yêu nước đã bao trùm lên tình yêu làng, song ông không thể vứt bỏ tình yêu làng nên ông Hai càng đau xót, tủi hổ. Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ. Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình. Đoạn thoại vừa chất chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng, với cụ Hồ.

Có lẽ, nếu không nhận được tin cải chính thì cả đời ông Hai sẽ chết dần, chết mòn trong nỗi đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng về cái làng của mình mất. Nhưng sau đó, chính quyền làng ông đã lên cải chính cái tin làng chợ Dầu theo giặc. Nhận được tin, ông Hai như sống lại, niềm vui tràn ngập trong ông: quần áo chỉnh tề, mặt tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy, nói bô bô, mua quà cho các con.... Đặc biệt là hành động ông chạy đi khoe với tất cả mọi người cái tin vui ấy. Niềm vui sướng, hạnh phúc dâng trào khiến ông cứ múa tay lên mà khoe. Và lạ thay, câu đầu tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc mà là "Tây nó đốt nhà tôi rồi... đốt nhẵn!". Với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm lụng vất vả mới có được. Nhưng ông Hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự "đóng góp" của gia đình ông với kháng chiến. Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước và sự trung thành với kháng chiến ở ông Hai.

Đến đây, chúng ta thấy được sức sáng tạo độc đáo của Kim Lân trong nghệ thuật tạo tình huống, thực sự gay cấn, kịch tính với những thử thách của nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ chiều sâu đời sống bên trong, tình cảm, tư tưởng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, rất cụ thể, gợi cảm qua thế giới nội tâm với các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt, nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và những nét tâm lí vôn có của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng.

Thông qua tác phẩm, người đọc còn nhận ra ngôn ngữ của truyện rất đặc sắc, nhất là ngôn ngữ nhân vật ông Hai. Ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai, dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại vừa mang đậm cá tính của nhân vật, rất sinh động, chân thực, gần gũi.

Tóm lại, "Làng" của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc, khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước; trong đó, nhân vật ông Hai là nhân vật có tính chất đại diện điển hình cho nét tâm lí, tình cảm đó của người nông dân Việt Nam trong thời kì tiến công cách. mạng. Qua tác phẩm chúng ta thấy được tài năng độc đáo trong nghệ thuật tạo tình huống, xây dựng hình tượng nhân vật có tính chất đại diện điển hình với thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, sinh động; ngôn ngữ truyện mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống, xen lẫn giữa độc thoại và đối thoại đan xen... tất cả đã làm nên sự thành công độc đáo, hấp dẫn cho thiên truyện ngắn.

Nghị luận về tác phẩm Làng bài số 3

Chuyển biến mới trong tình cảm của người dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp

Kim Lân sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống văn hóa. Nó được coi là cái nôi của vùng văn hóa Kinh Bắc. Từ nhỏ ông đã sống ở thôn quê, vì thế ông rất gần gũi với người nông dân, gần với những thú vui, nỗi khổ của họ. Truyện ngắn Làng gợi cho em nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Suy nghĩ ấy đến khi em cảm nhận hết những vẻ đẹp của nhân vật ông Hai.

Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nhiều thành phố, làng mạc gần thủ đô hoặc các địa phương trọng yếu tản đi nơi khác. Nằm trong vùng kháng chiến, làng Chợ Dầu của ông Hai phải tản cư. Phải rời làng ra đi nhưng tình cảm của ông Hai luôn gắn chặt với làng. Tình cảm ấy được thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đối với ông, cái gì ở làng ông cũng đáng tự hào. Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên. Ông khoe làng ông có phòng thông tin rộng rãi nhất vùng, có chòi phát thanh, có nhà ngói san sát, sầm uất nhất tỉnh. Đường làng lát toàn đá xanh.

Sự hãnh diện về bộ mặt của làng cũng không có gì lạ lắm bởi nó xuất phát từ tình yêu của ông đối với quê hương. Nhưng đôi khi tình yêu ấy khiến ông thái quá. ông hãnh diện cho làng có được cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Khi có khách lên chơi ông dắt ra xem cho kì được cái sinh phần ấy. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, ông mới nhận ra sai lầm của mình vì chính cái làng ấy nó làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người trong làng. Cái chân khập khiễng của ông bây giờ cũng vì cái làng ấy. Ông thù nó lắm, nó không đáng để ông hãnh diện nữa. Từ ngày kháng chiến, ông không chỉ tự hào vì nó đẹp mà còn vì làng ông tham gia kháng chiến, ông hãnh diện vì cái làng kháng chiến của mình trong những buổi tập quân sự, có nhiều hố, nhiều ụ, nhiều giao thông hào để chuẩn bị cho kháng chiến.

Khi nghe anh dân quân đọc báo về tin kháng chiến, ông mừng rỡ trước những chiến thắng của ta, ông hả hê trước thất bại của địch khiến ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! Nhưng đau khổ thay cho ông là làng Chợ Dầu của ông theo giặc. Ông lão trở nên sững sờ cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được.

Bấy lâu nay ông luôn tự hào về cái làng ấy mà nay bỗng dưng sụp đổ. Bản thân ông cảm thấy như chính mình mang nỗi nhục của tên Việt gian, ông cúi gằm mặt xuống đi về nhà nằm vật ra giường. Có lẽ từ nay ông không còn mặt mũi nào mà nhìn bà con hàng xóm, ông không dám sang nhà bác Thứ nữa. Có lẽ chỉ những người yêu mến tha thiết làng quê mới day dứt nhục khổ như thế. Giờ đây, trong lòng ông luôn băn khoăn giữa hai ý nghĩ: trở về làng hay ở lại đây. Ở lại đây thì ông không còn mặt mũi nào đi đến đâu nhưng về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ. Ổng nghĩ làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.

Nhưng cuối cùng cái điều mà ông Hai chờ đợi cũng đã đến: ông chủ tịch làng lên thông báo làng Chợ Dầu không đi theo Việt gian, ông vui mừng không tả xiết. Ông đi đến sẩm tối mới về với vẻ mặt rạng rỡ và còn chia quà cho bọn trẻ, rồi ông sang nhà bác Thứ, đi hết nơi này đến nơi khác thông báo làng ông không theo Việt gian cho mọi người.

Trong ông Hai luôn cháy bỏng tình yêu tha thiết với làng lộ rõ trên gương mặt của ông: ông vui sướng khi kể về làng Chợ Dầu của ông và ông cảm thấy khổ nhục nếu làng theo giặc, ông Hai chính là đại diện cho những chuyển biến mới trong tình cảm của người dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Người nông dân đã ý thức rõ hơn vai trò, nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp giải phóng. Ý thức ấy đã chuyển thành những hành động cao cả và tốt đẹp.

Nghị luận về tác phẩm Làng bài số 4

Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm để cứu nước, có biết bao những con người thể hiện được tình yêu của mình tới đất nước. Bằng rất nhiều cách khác nhau, họ đã thực hiện bằng những hành động và lời nói. Qua những tác phẩm của những nhà văn thời kì này, tình cảm của người dân dành cho kháng chiến, dành cho cách mạng được miêu tả một cách chi tiết, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tấm lòng và tình cảm của người dân lúc ấy. Và trong tác phẩm Làng của Kim Lân đã cho chúng ta thấy điều đó. Câu chuyện kể về nhân vật ông Hai cùng tình yêu làng của ông qua rất nhiều tình huống khác nhau đã được bộc lộ rõ.

Ông Hai là một người luôn yêu làng của ông. Làng của ông là ngôi làng chợ Dầu nổi tiếng khắp cả vùng đất Kinh bắc. Những tình cảm của ông được thể hiện qua việc ông luôn khoe với mọi người về làng của mình. Làng của ông giàu có, sầm uất ra sao, có rất nhiều nhà ngói, đường đi được lát toàn đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng về cuối làng không bị ướt…

Trong lòng của ông, không gì có thể so sánh được với làng của ông. Làng của ông luôn đứng đầu tiên trong trái tim của ông. Do đó, ông luôn tự hào về làng chợ Dầu của mình. Ông đi khoe với tất cả mọi người về làng của mình. Đây là thời kì trước khi kháng chiến cứu nước xảy ra. Khi đó, những gì mà ông có thể làm chính là tự hào về ngôi làng của mình.

Sau đó, tới thời kì toàn quốc kháng chiến cứu nước, ông không còn khoe làng của mình giàu có nữa mà ông tự hào về hình ảnh của làng ông với những hào giao thông chằng chịt, những cụ già râu tóc bạc phơ nhưng vẫn ngày ngày vác súng tập luyện bước đi “ một hai một hai” với khí thế vô cùng hiên ngang, mạnh mẽ. Là ngôi làng có chòi phát thanh cao nhất cả vùng. Những gì mà ông nhớ về làng chính là những điều mà làng của ông đã và đang phục vụ cho kháng chiến. Cũng chính bởi như vậy mà những người ở bên cạnh ai ai cũng mừng cho ông, cũng cảm thấy vui vì có những làng chợ Dầu như nhà ông.

Thế nhưng mọi thứ thay đổi khi có tin làng chợ Dầu của ông theo địch. Tưởng chừng như đó là thông tin sét đánh ngang tai đối với ông Hai. Ông không biết phải làm như thế nào cả bởi mọi thứ đã vượt quá sức tưởng tượng của ông. Nếu như trước kia, ông tự hào vì làng theo kháng chiến bao nhiêu thì nay, ông lại nhục nhã bấy nhiêu.

Những cảm xúc của ông Hai được tác giả Kim Lân thể hiện rất rõ qua những chi tiết miêu tả tâm trạng “cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như không thở được…”. Cảm xúc của ông thể hiện một cách mãnh liệt. Những gì mà ông nghe được tưởng như là điều không thể tưởng tượng được. Ông cảm thấy vô cùng xấu hổ và nhục nhã, không biết phải làm điều gì tiếp theo. Thậm chí, ông còn không dám đi ra ngoài đường vì sợ người ta bàn tán, xì xào sau lưng ông. Và cuối cùng, những gì mà ông lo lắng đã tới. Bà chủ nhà nghe tin đã không cho gia đình ông được ở lâu dài. Họ chỉ cho gia đình ông ở hết tháng này, tới tháng sau phải chuyển đi chỗ khác.

Đau khổ là thế, tuyệt vọng là thế, nhưng ông Hai lại chẳng thể tâm sự cùng bất kì một người nào cả. Những nỗi niềm ấy chỉ có thể nuốt trọn vào trong, có những lúc, ông lại nói chuyện cùng với đứa con gái nhỏ của mình. Lo lắng cho tương lai không biết đi đâu tiếp theo, có những lúc ông vừa chớm suy nghĩ “hay là quay trở về làng” thì ngay lập tức ông lại phủ định suy nghĩ đó “làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”.

Chỉ với chi tiết nhỏ đã thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của ông Hai dành cho Tổ quốc. Cuối cùng, mọi chuyện chỉ được tháo bỏ hiểu lầm khi có tin làng chợ Dầu của ông Hai không hề theo giặc, thậm chí cả làng còn bị bọn chúng đốt sạch, không còn lại gì cả. Ông Hai cảm thấy hạnh phúc như cởi hết được những nỗi lòng của mình.

Ông đi khoe với tất cả mọi người về cái tin làng chợ Dầu bị giặt đốt với tất cả những nhiệt huyết của mình như để cho tất cả mọi người cùng biết. Ai ai cũng mừng cho ông vì đã có được những tình cảm như vậy. Lòng nghi ngờ không còn nữa, cuộc sống của ông Hai đã trở về như cũ, mọi thứ lại tiếp tục theo đúng những guồng quay của nó.

Đọc tác phẩm, chúng ta càng thấm thía những tình cảm của những người như ông Hai nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung dành cho kháng chiến, dành cho đất nước. Những tình cảm ấy đã góp phần không nhỏ vào những chiến thắng của quân và dân ta giúp đất nước thoát khỏi chiến tranh.

Nghị luận về tác phẩm Làng bài số 5

Sự xung đột nội tâm trong truyện ngắn "Làng"

Truyện ngắn "Làng" của Kim Lân là một bức chân dung tinh tế về tâm lý con người trong hoàn cảnh chiến tranh. Qua nhân vật ông Hai, tác giả đã khắc họa một cách sinh động những xung đột nội tâm phức tạp khi tình yêu làng quê đối đầu với niềm tin vào cách mạng.

Ông Hai là một người nông dân yêu làng đến say mê. Ngôi làng không chỉ là nơi ông sinh ra và lớn lên mà còn là niềm tự hào của ông. Tình cảm ấy được thể hiện qua từng lời nói, cử chỉ. Tuy nhiên, khi nghe tin làng mình có người theo giặc, ông đã trải qua những biến đổi tâm lý dữ dội. Niềm tin vào cách mạng, vào cuộc kháng chiến bị lung lay, thay vào đó là nỗi đau khổ, xấu hổ tột cùng. Ông cảm thấy như mình đã bị phản bội, như thể cả cuộc đời mình đều trở nên vô nghĩa.

Sự xung đột nội tâm của ông Hai không chỉ là một cuộc đấu tranh giữa tình cảm cá nhân và lý tưởng cách mạng mà còn là sự phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội lúc bấy giờ. Cuộc chiến tranh đã gây ra những vết thương sâu sắc trong lòng người dân, khiến họ phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn.

Qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã thành công trong việc khắc họa một con người đa chiều, phức tạp. Ông không chỉ là một người nông dân chất phác mà còn là một người có lý tưởng, có niềm tin. Sự xung đột nội tâm của ông đã làm cho nhân vật trở nên sống động và gần gũi hơn với người đọc.

Nghị luận về tác phẩm Làng bài số 6

Bàn về diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Không biết tự bao giờ mà tình yêu đất nước quê hương đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận dành cho các nhà văn nhà thơ. Nó như một kim chỉ nam xuyên suốt các tác phẩm xưa và nay. Và thật là thiếu sót nếu như lướt qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân. Đây chính là một điển hình tiêu biểu cho tình yêu đất nước quê hương, thứ tình cảm thiêng liêng cao quý nhất trên đời.

Cốt truyện được ví như xương sống của một con người, nó chi phối mạch nguồn cảm xúc của toàn bộ tác phẩm. Ở đó nhân vật thể hiện những suy nghĩ, hành động của mình từ đó thể hiện toàn bộ tư tưởng chủ đề mà người viết muốn gửi gắm. Ở trong truyện ngắn Làng nhà văn Kim Lân đã xây dựng một cốt truyện vô cùng đặc sắc, nó gắn liền với diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai. Trước khi nghe tin dữ làng chợ Dầu theo giặc ông là một người lạc quan yêu đời, luôn một lòng tự hào về quê hương bản xứ của mình. Thế nhưng khi nghe tin làng mình theo Tây tâm trạng ông bỗng chốc thay đổi từ chỗ tự hào dần chuyển sang mặc cảm và phẫn uất, thậm chí tủi nhục cay đắng. Để rồi cuối cùng khi có tin cải chính ông quay lại trở về là một người vui mừng khôn xiết. Diễn biến này vô cùng hợp lí và logic lại phù hợp với mạch truyện và tâm lí nhân vật.

Nghệ thuật xây dựng cốt truyện hợp lí và đặc sắc nó khắc họa hết tâm lí người nông dân trong xã hội cũ mà cụ thể là ông Hai. Sự phát triển của tâm lí nhân vật trùng khớp với sự phát triển của cốt truyện. Đặc biệt nghệ thuật xây dựng tình huống độc thoại nội tâm và đối thoại nội tâm bằng những ngôn ngữ vô cùng đặc sắc đã phần nào để độc giả hình dung được một bức tranh người nông dân trong những ngày đầu chống thực dân Pháp.

Tất cả tâm tư tình cảm của ông Hai đều hướng về làng về nước. Điều đó thể hiện rất rõ thông qua những tình huống khác nhau. Trước khi nghe cái tin dữ làng chợ Dầu theo giặc ông Hai là một người luôn tự hào và khoe về cái làng của mình. Nào là đường làng ông lát đá xanh, nhà ngói san sát sầm uất như trên tỉnh, nào là có cái cột phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều cả làng lại thi nhau nghe tin đánh giặc.... Ông cũng vô cùng yêu nơi mình chôn nhau cắt rốn nên mặc dù có lệnh tản cư ông vẫn khăng khăng muốn bám đất giữ làng cùng bộ đội nhưng vì hoàn cảnh riêng nên ông phải đi. Những năm tháng sống trên vùng tản cư niềm vui duy nhất của ông đó là nhớ lại quãng thời gian gắn bó với mảnh đất quê hương, nhớ lại những ngày chiến đấu cùng anh em và chạy lên phòng thông tin nghe tin tức về làng chợ Dầu.

Thế nhưng đúng lúc niềm vui đến thì cũng là lúc ông nghe tin đồn thất thiệt “Cả làng chợ Dầu Việt gian theo Tây”. Ông cố gắng xác minh lại trong cái tin ấy xem có phải là thất thiệt không. “liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là....” nhưng đáp lại ông chỉ là cái gật đầu xác nhận và những lời nói gay gắt “Cả làng nó theo Tây từ thằng chủ tịch trở xuống”. Mặt ông lão như tái đi, cổ họng nghẹn ắng lại ông như lặng đi đến không thể nổi.

Bình thường ông là người hay nói vui tính nhưng hôm nay ông trở về lầm lũi rồi nằm vật ra giường. Lũ con thấy vậy cũng chẳng dám hó hé chào hỏi cười đùa. Trong đầu ông bây giờ chỉ còn tồn tại hai chữ “việt gian”, “bán nước”, “theo Tây”.... Ông gắt gỏng ngay cả với người đầu ấp tay gối với mình khi được hỏi về cái tin theo tây ấy. Nỗi đau dường như càng xéo xắt khi bà chủ nhà cũng có ý muốn đuổi cả nhà ông đi. Ông như lặng người nhìn đàn con mà đau xót, “ừ thì ra nó là con làng Việt gian đấy”. Suốt mấy ngày ông chẳng dám vác mặt ra đường vì sợ sẽ gặp phải những cái nhìn soi mói, những cải chỉ chỏ chỉ vì là dân làng Việt gian. Nỗi đau đớn xé lòng đã đẩy ông đi đến một quyết định đầy đau xót “làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo tây thì phải thù”. Ông nói chuyện với các con nhưng thực ra đó là cuộc đối thoại nội tâm đầy cắn rứt. Mỗi câu nói ra ông cảm thấy mình như nhẹ đi bội phần. Ông yêu làng hướng về làng dù có muôn trùng xa cách.

Niềm vui như trở về với con người ấy, gia đình ấy khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo tây được cải chính bởi chính ông chủ tịch xã. Ôi cái cuộc đời này sao mà đẹp đến thế nó như khiến ông hồi sinh thêm một lần nữa. Cái mặt buồn thỉu mấy ngày nay đã rạng rỡ hẳn lên. Ông mua kẹo chia cho các con rồi lại chạy khắp nơi để thanh minh rằng làng mình không bán nước. Ông còn khoe cái tin làng mình bị giặc đốt. Dường như sự mất mát về của cải không làm ông đau đớn bằng việc đánh mất đi niềm tin chỗ dựa dẫm về tinh thần.

Sự lặp đi lặp lại của tâm lí nhân vật ông Hai cũng vô cùng hợp lí nó là đại diện cho suy nghĩ của tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội cũ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Bằng tài năng của mình, Kim Lân đã tạo nên một cốt truyện vô cùng đặc sắc và thú vị. Nó chính là cái tài mà không phải nhà văn nào cũng có thể làm được.

---------

Trên đây là một số bài văn mẫu hay nhất với nội dung nghị luận về tác phẩm truyện Làng của nhà văn Kim Lân mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Hy vọng với những chia sẻ ở trên phần nào đã giúp các em hiểu và làm bài tốt hơn trong quá trình theo học tác phẩm. Ngoài ra, để cải thiện và nâng cao kĩ năng viết văn các em có thể tìm đọc thêm các bài Văn mẫu lớp 11 khác do Đọc tài liệu biên soạn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM