Trang chủ

Nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Xuất bản: 26/02/2024 - Cập nhật: 28/02/2024 - Tác giả:

Nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, TOP 3 bài văn hay nghị luận về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)

Những bài văn mẫu nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử do Đọc Tài Liệu tuyển chọn trong bài viết này sẽ giúp các em có thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình tìm hiểu nội dung bài thơ cũng như ôn luyện kĩ năng làm văn nghị luận.

Dàn ý bài văn nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ".

- Nêu khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

2. Thân bài

a) Khái quát về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác

- Hàn Mặc Tử (1912 - 1940): quê tỉnh Quảng Bình, là nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho phong trào Thơ mới 1932 - 1940.

- Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ:

+ Rút ra từ tập Thơ điên.

+ Bài thơ là bức tranh đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ, qua đó bộc lộ khát khao được sống, được yêu và được giao hòa với thiên nhiên của tác giả.

- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ - Hoàng Thị Kim Cúc.

Trong thời gian làm việc tại sở Đạc Điền (tỉnh Quy Nhơn), ông đã đem lòng yêu cô con gái tên Hoàng Cúc, một thiếu nữ với vẻ đẹp kín đáo, chân quê. Tuy nhiên, do bản tính nhút nhát, rụt rè mà Mặc Tử chỉ dám đứng từ xa nhìn cô gái và mối tình đơn phương đó đã dần phai nhạt khi Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ (Huế). Khi biết được tình cảm của Mặc Tử dành cho nàng Cúc và biết được bệnh tình nghiêm trọng của Hàn Mặc Tử lúc đó, anh họ nàng đồng thời là bạn của thi sĩ họ Hàn - Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho Hoàng Cúc để mong nàng viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Thay vì viết thư thăm hỏi đơn thuần, Hoàng Cúc đã gửi kèm một bức bưu ảnh có in hình phong cảnh thiên nhiên Vĩ Dạ. Chính từ bức ảnh và mối tình tha thiết với người con gái xứ Huế đã khơi gợi xúc cảm, trở thành nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

b) Phân tích, nghị luận về nội dung bài thơ

* Khổ thơ đầu: Cảnh vườn và con người thôn Vĩ Dạ

- Mở đầu là lời mời mọc ân cần mà như trách cứ nhẹ nhàng: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.

- Cảnh vật thôn Vĩ hiện lên tinh khiết, tràn trề nhựa sống:

+ “Nắng hàng cau”, “nắng mới lên”: Những tia nắng đầu tiên trong ngày; hàng cau là loài cây đón nhận ánh nắng đầu tiên, hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp trong trẻo của bình minh xứ Huế.

+ Vườn “mướt quá”, "xanh như ngọc": một khu vườn tỏa ra ánh sáng xanh mát rười rượi, cây lá non tơ, mềm mại, mỡ màng nhựa sống

+ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: con người đất Huế khỏe khoắn, “mặt chữ điền” dịu dàng, phúc hậu.

* Khổ thơ thứ hai: Cảnh vật nhuốm màu tâm trạng, dự cảm chia lìa

- Sự chia lìa của cảnh vật: gió - theo - lối gió, mây - đường - mây

- Dòng nước, hoa bắp lay: cảnh đẹp nhưng giăng mắc một nỗi buồn vô hình

- Không gian trăng: thuyền trăng, bến trăng, sông trăng,… -> đêm khuya ánh trăng tan mình giữa dòng nước tạo thành dòng sông trăng huyền ảo.

- Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”: nỗi lo âu, phấp phỏng về sự xuất hiện của trăng.

=> Nỗi cô đơn của tác giả, khao khát được giao hòa với cuộc đời.

* Khổ thơ thứ ba: Nỗi mong chờ vô vọng của thi nhân

- Hình ảnh "sương khói mờ nhân ảnh", "tiếng chuông", "lầu tịch dương" gợi cảm giác buồn thương, hiu quạnh.

- Cảnh vật trở nên hư ảo, “ nhân vật khách” khó xác định

- Điệp từ “ khách đường xa” càng thể hiện tâm trạng cô đơn của Hàn Mặc Tử. => Nỗi buồn của một tâm hồn yêu đời, yêu người nhưng bị giam hãm trong bệnh tật.

- Câu hỏi tu từ "Ai biết tình ai có đậm đà?" => Sự hoài nghi về tình đời, tình người, sự khao khát tình đời đến mãnh liệt của thi sĩ.

c) Đặc sắc nghệ thuật

- Sử dụng các ngôn từ trong sáng, gần gũi, gợi hình gợi cảm.

- Kết hợp tả cảnh với những hình ảnh tượng trưng mang lại nhiều hình ảnh riêng, độc đáo chưa từng có.

- Nhiều câu hỏi tu từ với giọng thơ da diết như hờn trách.

- Mỗi khổ thơ đều ẩn chứa tâm tư, tình cảm của tác giả và của nhân vật trữ tình.

- Bài thơ dù không theo thứ tự nhất định nhưng lại hoàn toàn phù hợp với dòng tâm tư và cảm xúc của tác giả.

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

- Nêu cảm nhận của bản thân về bài thơ.

TOP 3 bài văn hay nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Văn nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 1

Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,

Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…”

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? “Trăng sõng soài trên cành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi…” (“Bẽn lẽn”) - Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng. Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ.

Ông là một trong những nhà thơ tài hoa nhất của phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Với 28 tuổi đời (1912 - 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.

Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu - tình yêu thơ mộng say đắm, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi, cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.

Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mượt quá” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên).

Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trước và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý nhị và thơ ngây”

(“Mùa xuân chín”)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc, mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc mà ở đây thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng tha thiết mến thương.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên 4 bức cảnh hài hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở.

Dòng Hương giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng, man mác. Hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái xứ Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương - Da thơm là phấn, má hường là son”… Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương.

Ở đây sương khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa ai biết… ai có…” các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” - “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” - “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi với trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói?

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. Cảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ bằng sự thấu hiểu, cảm thông chúng ta có thể thấy đây là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và cái màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Văn nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 2

Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"

Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa da diết lại quá đỗi dịu dàng.

Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền” 

Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau” - một màu nắng thật đặc biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ Huế - “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh dưới nắng ban mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, khi tới gần, được cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tắn vừa sang trọng được gợi lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng nhựa sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hóa, được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng thêm tươi. Bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người đất Huế. Ẩn sâu trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.

Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều - đêm tối:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay"

Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?"

Chữ "kịp" được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra.”

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.

Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.

Văn nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 3

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Ông đã đặt ngòi bút mình lên để khắc họa một hình ảnh về một bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đây có thể coi là một trong các bài thơ hay nhất của ông, bài thơ đã dựng lên một khung cảnh cùng với hình ảnh thiên nhiên trong trẻo, tươi mới, mà trong đó cũng đầy sự cô đơnn của một tâm hồn khao khát yêu thương, khao khát sống mãnh liệt.

Bài thơ mở đầu với khung cảnh của thôn Vĩ Dạ được tác giả khắc họa nên một bức tranh tuyệt đẹp và tinh tế. Khi Hàn Mặc Tử nhận được tấm ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc, người mà ông đêm thầm trộm thương nhớ - thì bao cảm xúc về kỉ niệm đẹp ở thôn Vĩ Dạ đã ùa về trong tâm trí của ông, đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác bài thơ này. Cùng với khổ một của bài thơ, đây là cảnh vườn và con người thôn Vĩ, câu mở đầu đây là lời mời mọc mà như cứ thân thiết:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu mở đầu, Hàn Mặc Tử đã đặt ra một câu hỏi tu từ, “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đan xen nhiều sắc thái tình cảm, như một lời mọc, hỏi han, và như một lời trách móc, giận hờn. Bức tranh cảnh vật trải ra trước mắt: nắng hàng cau, vườn nhà ao, lá trúc, mặt chữ điền,… Tất cả đều mang vẻ đẹp độc đáo, cảnh vật hiện lên tinh khiết, tràn trề nhựa sống, “nắng” đây là tinh khôi buổi sáng sớm, và “ vườn” xanh như ngọc một hình ảnh thân quen mộc mạc mà đầy sức sống. Tả buổi sớm mai để tô đậm lên nét đẹp của cây xanh lá “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”. Nghệ thuật cách điệu hóa, và bằng bút phpas chấm phá của nhà văn, thôn Vĩ hiện lên trong tâm tưởng với vẻ đẹp mông mơ mà pha chút vào đó sự đằm thắm nhưng cũng có nét mập mờ, có lẽ nó đã thuộc về hư vô. Và khung cảnh ấy đã thể hiện rõ nét ở khổ hai của bài thơ. Đêm trăng của thôn Vĩ như là một dấu ấn cảm xúc:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Đêm trăng thôn Vĩ, miêu tả cảnh chia li của cảnh vật: gió theo - lối gió; mây - đường - mây. “Dòng nước, hoa bắp lay” cảnh đẹp của thôn nhưng giăng mắc trong đó một nỗi buồn vô hình. “Trăng” trong không gian thuyền bến, bến trăng, sông trăng… đã gợi lên nét huyền bí của vũ trụ. Cùng câu hỏi “Thuyền ai?; Có chở… nay?” Nghi vấn về sự chờ đợi trong vô thức, mơ màng của nhân vật trữ tình. Đêm trăng hiện lên trên con sông vẫn mang vẻ đẹp của muôn đời nhưng sâu trong đó lại có một nỗi buồn man mác bởi tâm cảnh của người thi sĩ.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Áo em trắng quá nhìn không ra.

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Vạn vật dù là thiên nhiên hay con người thì dương như đầu bị chìm vào trong cõi mơ mộng, hư vô cùng với các từ: mơ, không nhìn ra, mờ hân ảnh,.. đây là trạng thái cô đơn, sầu muộn của lòng thơ. “Khách” ở đây là cô gái thôn Vĩ hay một giai nhân nào đó? Bóng dáng mờ ảo khiến thi nhân khó xác định. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”, “Ai” thứ nhất đây là tác giả, “ai” thứ hai hiểu theo nghĩa hẹp là “khách đường xa”, còn ta hiểu theo nghĩa sâu xa là người tình của tác giả hoặc thôn Vĩ trong mộng ảo. Hàn Mặc Tử yêu cuộc đời một cách tha thiết, nồng thắm nhưng lại vì một nỗi đau do bệnh tật luôn dày vò đã khiến tâm trí của ông luôn trong trạng thái hư vô giữa cõi thần và cõi tục. Đến lúc kiệt sức ông vẫn mong có thể giao cảm với đời.

Như vậy, cảnh thiên nhiên thôn Vĩ và cảnh lòng người cùng với nghệ thuật sử dụng câu hỏi tu từ, hình ảnh độc đáo, sắc sảo, tác giả vẽ bởi bút pháp tả thực kết hợp với tượng trưng. Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ giản dị thể hiện tình yêu với một cô gái, mà bài thơ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của đất nước qua tâm hồn giàu sức tưởng tượng và đây yêu thương của nhà văn hòa quyện với thiên nhiên và lòng người.

Văn nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 4

"Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.

Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” của Hàn Mặc Tử - một tên tuổi đã in thật sâu trong lòng độc giả. Tử được biết đến là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Hàn Mặc Tử “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực. Có lẽ vì thế mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ như thế! Vĩ Dạ được ví như lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn sâu bên trong đó lại là cả một khối u hoài của tác giả.

Theo thi sĩ Quách Tấn - bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh của người con gái có tên Hoàng Cúc - một người con gái dịu dàng thướt tha của xứ Huế. Một kiệt tác của đời thơ Hàn, một bài thơ trong trẻo hiếm hoi được Hàn làm trong chuỗi ngày đau thương, tăm tối nhất của đời mình. Đó là ngày tháng Hàn đang phải tự cách li cộng đồng, sống đơn côi trong một xóm vắng Bình Định để chữa căn bệnh “quái ác” như người đời xưa vẫn gọi.

Xứ Huế không biết từ khi nào đã là nơi khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nghệ sĩ. Từ âm nhạc, hội họa, đến kí... thể loại nào cũng để lại “dấu” riêng. Không ít người đã phải thốt lên rằng: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông... ”, Huế có trong câu hát vần thơ, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Như vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc nhưng đó còn là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết, bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Phải chăng là Hoàng Cúc - người con gái thôn Vĩ mà Tử đã thầm yêu trộm nhớ bấy lâu. Không! Không phải Hoàng Cúc. Câu hỏi ấy chính là của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết với Huế để rồi vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải ấy. Tử phân thân để hỏi chính mình về một việc cần làm, đáng ra phải làm từ lâu - đó là về lại thôn Vĩ, thăm lại cảnh cũ người xưa nhưng lại chưa làm được mà giờ đây Tử không biết mình còn có cơ hội đó nữa hay không.

Nhớ lắm, thương lắm, khao khát lắm nhưng cũng đầy mặc cảm và hoài nghi về khả năng thực hiện ao ước của mình. Vậy có còn cách nào cho thỏa ước ao? Cơ hội về lại Vĩ Dạ cơ hồ không còn nữa. Tử đã chủ động cách ly, tuyệt giao với cuộc đời nhưng tuyệt giao mà không tuyệt tình, thi sĩ đã trở về Vĩ Dạ bằng con đường hoài niệm và nhờ tưởng tượng chắp cánh cho tình yêu. Những hình ảnh đẹp đẽ nhất về Vĩ Dạ, về Huế lập tức sống dậy trong ký ức nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Vĩ Dạ hiện lên trong kí ức Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, Tử đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặc tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.

Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở thôn Vĩ là “nắng mới lên”. Đó là thứ nắng mai tinh khôi, tươi tắn, trong trẻo khiến cho thiên nhiên thêm ấm áp, tràn đầy sự sống. Ai đã từng sống với cau, dễ thấy cau là một thứ cây cao, thậm chí ở mảnh vườn nào đó, có thể là cao nhất. Vì thế cau là cây đầu tiên nhận được những tia nắng sớm mai đầu tiên. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, từng đốt của thân cau. Đến khi tràn trề thì nó biến cả khu vườn xanh thành viên ngọc lớn. Khu vườn với vẻ xanh mướt, tốt tươi, mượt mà, đầy sức sống như được bàn tay ai đó chăm sóc cẩn thận, tỉ mỉ đến từng chiếc lá. Chẳng những thế, khu vườn ấy còn vừa được gội sương đêm giờ ánh lên màu xanh ngọc long lanh dưới ánh mặt trời khiến thi sĩ không khỏi trầm trồ, ngưỡng mộ.

Giữa khung cảnh đó, con người xuất hiện làm cho thiên nhiên đã đẹp lại trở nên có linh hồn. Đó là hình ảnh con người xứ Huế với gương mặt “chữ điền” thấp thoáng sau lá trúc. Nhà thơ không tả thực mà gợi bằng ấn tượng cốt để lộ thần thái của con người nơi đây với vẻ đẹp phúc hậu mà ý nhị, kín đáo. Vẫn là khu vườn đó hàng ngày, quen thuộc trong cấu trúc nhà vườn đặc trưng của xứ Huế ai chẳng biết, vẫn là con người đó mà sao qua ngòi bút của Hàn Mặc Tử trở nên mới lạ, có hồn và hấp dẫn đến vậy! Có lẽ, ở đây không phải chỉ là vấn đề góc nhìn, kỹ thuật tả cảnh, tả người điêu luyện mà hơn hết là ở cái tình, ở lòng yêu tha thiết của thi nhân đối với cảnh và người xứ Huế.

Vẫn là tình yêu đời đó, nhưng đến khổ thơ thứ hai, đã bộc lộ thành dạng thức khác với những thi ảnh không còn đẹp đẽ, ấm áp mà tan tác, chia lìa:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ nói tới một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi, gió bay đi một lối, mây trôi đi một đường… Hình ảnh thơ chứa đựng sự phi lý nếu đem quy luật tự nhiên ra mà xem xét bởi lẽ thường thì gió thổi mây bay, gió và mây cùng đường, ở đây bỗng tan tác, chia lìa. “Gió” và “mây” bị đẩy về hai phía tận cùng của câu thơ, gợi lên sự cách xa vời vợi mà theo xu thế chuyển động thì càng lúc càng xa, cảm giác trống vắng dâng đầy cả câu thơ. Mượn hình ảnh mây và gió, tác giả mụốn nói lên tâm trạng của chính mình, về sự xa cách của mình với cuộc sống trần gian tươi đẹp và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn bởi Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Còn dòng sông (xưa nay vẫn được hiểu là sông Hương) thì mang một gương mặt ủ ê, “buồn thiu”, chừng như không một gợn sóng. Tử đã khéo léo khoác lên dòng sông biện pháp nhân hóa, khiến “dòng nước buồn thiu”. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió - mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Chẳng riêng dòng sông mà hình ảnh “hoa bắp lay” cũng gợi trong ta một nỗi buồn hiu hắt - một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất. Và phía sau mây, gió, đất, nước chính là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ còn lại trong mộng tưởng.

Trên cái xu thế đang trôi đi, bay đi, chảy đi, phiêu tán ấy, Hàn Mặc Tử mong có một thứ có thể ngược dòng “về” vớí mình, ấy là trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Xưa nay, con thuyền và dòng sông là những hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhất là dòng thi ca về Huế. Nhưng cái lạ, cái hay trong thơ Hàn ấy là hình ảnh con thuyền “chở trăng” trôi trên dòng “sông trăng”. Liên tưởng phong phú, tinh tế của thi nhân đã tạo ra những hình ảnh trôi giữa đôi bờ thực - ảo. Không biết dòng nước đang hóa mình thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan mình thành nước, chỉ biết rằng dòng sông đã trở thành một dòng ánh sáng tự lúc nào, bến sông trở thành “bến trăng” và con thuyền cũng chở đầy trăng. Hình ảnh thực biến thành hình ảnh mộng tưởng, đẹp lung linh, hư thực huyền hồ. Nhưng Hàn Mặc Tử vẫn khao khát có được trăng, mong con thuyền chở trăng kia có thể về “kịp” với mình trong “tối nay”. Toàn bộ hi vọng của Hàn đặt cả vào con thuyền chở trăng đó, hi vọng mà sao vẫn có gì phấp phỏng, âu lo. Sức nặng của câu thơ nằm trong từ “kịp”, giản dị, khiêm nhường, không bóng bẩy, không cầu kỳ mà sâu sắc. Nó gợi cảm giác âu lo, phấp phỏng. Nó chứa đựng nỗi ám ảnh lớn về thời gian. Nó hé mở mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi.

Hình như Hàn Mặc Tử đã chờ trăng từ lâu lắm và đã cảm nhận được sắp đến lúc không thể chờ được nữa, con người có thể bị bứt lìa khỏi đời sống bất cứ lúc nào, ngay cả khi chưa kịp tận hưởng vẻ đẹp của trăng, sự thơ mộng của cuộc đời. Cho nên cùng với mặc cảm cuộc đời ngắn ngủi, từ “kịp” còn hé mở cho người đọc thấy một tâm thế sống của Hàn Mặc Tử: sống là chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giây từng phút trong cái quỹ thời gian đang vơi đi từng khắc, từng ngày của mình vì một cuộc chia lìa vĩnh viễn đang đến rất gần… Sống là hối hả chạy đua với thời gian, điều này Hàn Mặc Tử gặp gỡ Xuân Diệu, bởi cả hai nhà thơ đều yêu cuộc sống đến thiết tha, cháy bỏng, đều trân trọng, quý giá từng khoảnh khắc sống ở trần gian. Nhưng tâm thế sống của mỗi người một khác. Cái tôi Xuân Diệu cảm nhận về “cái chết” luôn chờ mỗi người ở “cuối con đường”, nên tranh thủ sống mà tận hưởng “tối đa” hạnh phúc trần thế. Còn cái tôi Hàn Mặc Tử, cảm nhận về “cái chết” đã “cận kề” nên “được sống” không thôi đã là hạnh phúc.

Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của đất trời. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nếu tình yêu đời ở hai khổ thơ trên chủ yếu hướng tới cảnh, thì khổ thơ cuối bài thơ khép lại bài thơ bằng tình yêu hướng tới con người, nếu ở trên là vườn đẹp, trăng đẹp thì ở đây là người đẹp. Dễ dàng thừa nhận hình ảnh “khách đường xa” ở đây chính là đối tượng mà cái tôi chủ thể hướng tới. Có thể là Hoàng Cúc (người gửi bưu ảnh, người Hàn thầm thương trộm nhớ), là cô gái xứ Huế (nữ sinh Đồng Khánh với sắc áo trắng tinh khôi), mà cũng có thể là người đời nói chung. Dù hiểu con người là ai đi nữa thì ta vẫn thấy giữa thi nhân và họ khoảng cách xa xôi vời vợi. Xa vì là “khách”, xa hơn chút nữa vì ở trên “đường xa”, lại xa hơn nữa vì sắc áo “trắng quá”, trắng đến không thực, đến hư ảo, đến nao lòng, và xa xôi vời vợi đến mức không thể nắm bắt, không thể với tới khi lẫn vào “sương khói”. Những hình ảnh ấy lại không phải là thực, lại chỉ là “mơ”.

Tất cả lúc này chỉ còn lại mờ mờ, ảo ảo. Tử cố níu kéo, cố bám víu nhưng nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Cảm giác như chới với, hụt hẫng nên có lúc thi sĩ rơi vào hoài nghi:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hai đại từ phiếm chỉ “ai” hướng tới hai đối tượng: chủ thể trữ tình và đối tượng mà chủ thể trữ tình muốn giãi bày, dù hiểu thế nào, dù “ai” có là “ai” đi nữa thì cuối cùng vẫn chỉ là cái tình ấy, của cái tôi ấy - Hàn Mặc Tử, trên chuyến hành trình bất đắc dĩ đã gần đến cõi “thượng thanh khí”, vẫn cứ đau đáu, tha thiết, khắc khoải ngoảnh lại cuộc đời để mà yêu, mà gắn bó. Yêu đời đã là quý, yêu trong tuyệt vọng, càng tuyệt vọng lại càng yêu, một thứ tình yêu được thử thách và vượt lên trên cái chết, tình yêu đó chẳng đáng quý bội phần sao?

Đây thôn Vì Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dù vậy ta vẫn thấy sau nỗi niềm ấy là một Hàn Mặc Tử với tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình bởi Tử mang trong mình một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử ngưng mình, lắng đọng trong tập “Thơ điên” và khép lại trên giá sách bạn đọc. Nhưng dư ba về cảm xúc có lẽ cứ nhói lên mà sống dậy trong lòng độc giả. Cái khắc khoải, khôn nguôi đến khó tả bởi ta nhận ra một niềm yêu trong nỗi đau. Đó là tình yêu say đắm của một người thi sĩ với cuộc đời trong tấn bi kịch đau đớn khi sắp phải chia lìa, cách biệt với cuộc đời.

(Nguồn: hocvanchihien.com)

-/-

Các em vừa tham khảo xong một số bài văn mẫu nghị luận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử do Đọc Tài Liệu tổng hợp được hi vọng sẽ giúp các em có thêm vốn từ ngữ và rút kinh nghiệm về cách trình bày. Tham khảo thêm các bài văn hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 11 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn để tự rèn luyện kỹ năng làm văn. Chúc các em học tốt!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM