Trang chủ

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

Xuất bản: 30/12/2019 - Cập nhật: 25/08/2022 - Tác giả:

Em hãy đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương đề qua đó thấy được cuộc đời đầy oan trái và bất hạnh của chính bản thân trong xã hội phong kiến xưa.

Đề bài: Em hãy hóa thân thành nhân vật Vũ Nương kể lại tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ).

Văn mẫu đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

Bài số 1 - Đóng vai Vũ Nương kể lại nỗi oan của mình

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.

Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!

Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.

Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại:

"Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ."

Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đản lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích:

" Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….. , đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".

Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa

Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.

Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này.

Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.

Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.

Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.

Xem thêm: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

Bài số 2 - Đóng vai nhân vật Vũ Nương kể lại truyện

Tôi là Vũ Nương, con gái một gia đình nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ.

Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa hết mức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Sum vầy, êm đềm chẳng được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, chồng tôi tuy là còn nhà hào phú nhưng ít học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.

Ngày tiễn chồng nên đường, tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa, chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cầu áo gấm, công danh. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt.

Đương thời lúc bấy giờ tôi đang mang thai đầu, chàng đi chẳng được bao lâu tôi bèn sinh con và đặt tên con là Đản. Có con trai, tôi phần nào vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì tuổi già, lại nhớ mong con khiến bà sinh bệnh năng. Thay chồng tận hiếu tôi hết mực thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ để lại những trăn trối tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn mẹ con tôi quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.

Mừng rỡ thay, sau 3 năm thì giặc tan, chồng tôi bình yên trở về đúng như mong đợi. Khi biết tin mẹ mất, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng bái tổ tiên tạ ơn phù hộ để chồng bình an, vừa để báo cho mẹ biết để yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn viên gia đình.

Không ngờ giây phút đó chẳng có, buổi trưa khi hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời trách mắng tôi mất nết hư thân… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi cố gắng giải thích rằng thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết.

Thế nhưng, dù hết lời phân giải, làng xóm bênh vực nhưng chàng nhất mực không tin lại nặng lời đuổi tôi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực, không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.

Đứng trên bến Trường Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Ngờ đâu, Linh Phi - vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và để tôi lưu lại ở đó.

Một hôm tôi gặp Phan Lang - người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa cho chính mình, lại thương chồng con vì không ai chăm sóc. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, tôi lại mong muốn được giải oan nên tôi nhờ Phan Lang trở về với chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương lập đàn giải oan bên bờ Trường Giang.

Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Trường Giang thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi cũng có ý khuyên trở về gia đình. Đến ngày thứ ba, Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi biến mất.

Dù giải oan nhưng liệu rằng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất.

Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.

Xem thêm: Phân tích nhân vật Vũ Nương

Bài số 3 - Hóa thân vào nhân vật Vũ Nương kể lại truyện

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương, mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Tôi đã gặp và trở thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương, nhưng lại vốn tính đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi mặc dù con nhà hào phú nhưng lại ít học, vì vậy phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chàng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn.Tôi không mong chàng lập công lao cao cả để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng có thể bình an trở về. Giờ phút chia tay, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhòa lệ, lòng tái tê chua xót.

Đương thời lúc đó tôi đang mang thai, đến thời điểm, tôi sinh được một bé trai kháu khỉnh và đặt tên con là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau triền miên. Tôi đã hết lòng thuốc thang, khuyên lơn nhưng vì bệnh tình trầm trọng mẹ không qua khỏi. Tôi đã cố gắng lo ma chay chu tất cho mẹ, thay chồng làm tròn chữ hiếu.

Sau 3 năm chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh cũng bình an trở về. Tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận.

Lúc bấy giờ, bé Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con ra thăm mộ mẹ. Đến trưa trở về, chẳng hiểu vì cơ sự nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đã quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng hết lời can ngăn, giãi bày hộ tôi nhưng chẳng tiếng nào lọt tai chàng.

Tủi nhục cùng đau xót làm sao, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.

Nỗi oan chẳng thấu, lại mang tiếng thất tiết phụ chồng làm sao gột rửa đây? Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới chứng minh sự trong sạch của mình.

Tôi chạy ra bến Trường Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng mình bạc mệnh, duyên phận cũng hết, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con. Nói xong tôi liền gieo mình xuống sông.

Ngờ đâu, nỗi oan của tôi động lòng chư tiên cứu vớt, rẽ nước cho xuống thủy cung. Tuy cuộc sống giờ đây sung sướng, nhàn hạ chốn nhưng nỗi nhớ thương chồng con da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp.

Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân đã cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc thì tôi ngạc nhiên vì người đó chính là Phan Lang - người cùng làng với tôi. Ông nhận ra tôi và kể lại cho tôi biết cuộc sống hiện tại của gia đình tôi. Ông nói rằng chồng tôi đã biết rằng đã trách oan tôi, vô cùng ân hận, ông cũng khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng và dặn ông nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông thì tôi sẽ vẽ. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Trường Giang.

Khi thấy được chồng con tôi thật nghĩ rằng mình muốn trở lại trần gian nhưng liệu rằng cuộc sống vợ chồng có còn được lại như xưa, xã hội này có vì thế mà có thay đổi? Đứng ở giữa dòng trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: ”Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi đã không trở về trần gian được nữa! Tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.

Tài liệu tham khảo: Các đề văn về Chuyện người con gái Nam Xương

-/-

Trên đây là 3 bài văn mẫu 9 đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất mà Đọc tài liệu thực hiện để giúp các em tham khảo và định hướng bài văn thuộc đề tài này. Mong rằng các em sẽ hoàn thiện tốt hơn bài văn của mình!

Một bài văn tương tự chủ đề đóng vai: Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM