Trang chủ

Dàn ý phân tích hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình

Xuất bản: 03/05/2019 - Cập nhật: 01/07/2022 - Tác giả: - Tham vấn bởi:

Tham khảo ngay dàn ý phân tích hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Tài liệu hướng dẫn chi tiết lập dàn ý phân tích hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân (có kèm bài văn phân tích chuyên sâu để tham khảo).

Đề bài: Anh/Chị hãy làm rõ hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong bút kí Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân).

Mẫu dàn ý phân tích hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình

Mở bài : Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm và hình tượng sông Đà: hung bạo và thơ mộng trữ tình.

  • Nguyễn Tuân, người tri thức giàu lòng yêu nước. Nguyễn Tuân, nhà Giới thiệu văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân, nhà văn với phong cách tài hoa, uyên bác và có vốn hiểu biết phong phú về nhiều mặt, vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Sau cách mạng tháng Tám ngòi bút ông hướng đến chất tài hoa nghệ sĩ ở nhân dân đại chúng. Một số tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Chiếc lư đồng mắt của (1941), Tùy bút Sông Đà (1960),...
  • Người lái đò sông Đà là một trích đoạn của Tùy bút sông Đà (1960) và là thành quả của chuyến đi thực tế đến Tây Bắc. Tác phẩm lấy cảm hứng chủ đạo là tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người lao động, chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ, thơ mộng.
  • Bằng tình yêu thiên nhiên quê hương, đất nước và ngòi bút tài hoa của mình, con sông Đà miền Tây Bắc Tổ quốc bước vào trang kí với vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình.

Thân bài

Khái quát vấn đề: Sông Đà qua cảm nhận của nhà văn Nguyễn Tuân mang hai nét tính cách đối lập: vừa hung bạo, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ tình. Ở mỗi nét tính cách của sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại mang một nét đẹp riêng, ấn tượng và độc đáo. Khi miêu tả vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã vận dụng vốn tri thức bách khoa của mình: địa lý, lịch sử, thể thao, văn hóa,...

Phân tích Hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình được thể hiện qua: 

+ đá hai bên bờ sông “dựng thành cách” cao, chỉ vào “lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, đá “chẹt” lòng sống như cái yết hầu,

+ toàn cảnh: “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Phép so sánh độc đáo làm sống và hiện ra mĩ lệ, diễm kiều đầy nữ tính làm say đắm lòng người.

+ điểm nhìn thời gian: Sông Đà không chỉ đẹp mà còn biến đổi ảo diệu theo mùa, mỗi mùa lại có một nét đẹp riêng - “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh cánh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Màu sắc sông biến đổi theo mùa được so sánh, liên tưởng với những hình ảnh gần gũi như “xanh ngọc bích”, “xanh cánh hến”, “da mặt người bầm đi vì rượu bữa” không chỉ gần gũi mà còn gọi được chính xác màu sắc của dòng sông.

+ hai bên bờ sông với vẻ đẹp vừa tĩnh lặng, nhẹ nhàng mang nỗi niềm cổ xưa vừa tràn đầy sức sống hai bên bờ.

  • Vẻ tĩnh lặng, nhẹ nhàng mang nỗi niềm cổ xưa: Nhẹ nhàng với “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Cảnh sống tĩnh lặng đã khơi gợi ở du khách cảm giác mình đang đi ngược về quá xa xưa từ đời Lý Trên, đời Lê. Phép so sánh, ví von vẻ đẹp “hoang dại”, “hồn nhiên” ở hai bên bờ sông như “bờ tiền sử”, như “nỗi nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” khơi gợi vẻ đẹp hoang sơ, xa xưa, bí ẩn nhưng cũng thân thuộc, gần gũi.
  • Ngập tràn sức sống hai bên bờ: Với cảnh vật đẹp như một bức tranh với gam màu xanh chủ đạo, tràn đầy sức sống của “mấy lá non ngộ đầu mùa”, những đồi tranh “đang ra những nõn búp”. Điểm xuyết lên bức tranh là hình cảnh con hươu “thơ ngộ ngẩng đầu khỏi ánh cỏ nhung” trong sương sớm. Biện pháp nhân hóa con hươu nhìn và nói chuyện, hỏi han du khách “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?” làm cho con người và thiên nhiên giao hòa, đồng cảm. Với “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Phép điệp “Thuyền tôi trôi...” và tô đậm vẻ nhẹ nhàng, thi vị. Cách trích dẫn hai câu thơ tài hoa của thi sĩ Tản Đà “Dải Sông Đà bọt nước lênh bệnh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của một người tình nhân chưa quen biết” khơi gợi vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, vẻ đẹp đậm đà bản sắc văn hóa, thi ca. Và qua cái nhìn của Nguyễn Tuân thì dòng sông cũng biết lưu luyến “nhớ thương” biết “lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi”.

Kết bài

- Nguyễn Tuân miêu tả, cảm nhận hình tượng sông và trong vẻ đẹp đối lập, đa tính cách của nó: vừa hung bạo nhưng cũng rất nên thơ trữ tình. Với vẻ đẹp hung bạo, Nguyễn Tuân đã dành những câu văn góc cạnh, sắc nhọn, những hình ảnh so sánh, nhân hóa gân guốc, mạnh mẽ làm nổi bật được sự hung bạo, dữ dội của con sông Đà. Với vẻ đẹp thơ mộng, Nguyễn Tuân lại ưu ái những câu văn như thơ, mềm mại, óng ả và những hình ảnh so sánh nhẹ nhàng, thi vị góp phần làm nổi bật được vẻ đẹp dòng sông.

- Với hình tượng sông Đà vừa hung bạo và trữ tình, ta không chỉ thấy ở đó tình yêu thiên nhiên quê hương, đất nước mà còn khơi gọi ở lòng người đọc lòng tự hào, tình yêu dành cho con sông quê hương miền Tây Bắc Tổ quốc.

Trên đây là dàn ý phân tích hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, mong rằng nội dung này sẽ giúp các em nắm bắt được các kiến thức cần thiết để ôn luyện thật tốt.

Tham khảo thêm:

Bài văn chuyên sâu phân tích hình tượng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình

Nguyễn Tuân là một cây đại thụ lớn của nền văn học Việt Nam. Nếu Xuân Diệu coi tình yêu là tôn giáo của đời mình thì Nguyễn Tuân coi “cái đẹp” là lẽ sống mà ông dành cả đời mải miết kiếm tìm, tôn vinh, phụng sự. Bởi thế mà mỗi trang văn của ông đều là những “tờ hoa” dâng tặng trong cuộc đời. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những “tờ hoa” đẹp đẽ nhất trong đời văn Nguyễn Tuân. Trong tác phẩm, bên cạnh hình tượng người lái đò, hình ảnh con sông Đà nổi bật với hai nét tính cách đối ngược: hung bạo và trữ tình, đặc biệt thể hiện qua hai đoạn trích: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới…đàn trâu da cháy bùng bùng” và “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài… mãi độ thu về”.

Nguyễn Đình Thi từng nhận xét về Nguyễn Tuân là con người “sinh ra để tôn thờ nghệ thuật với hai chữ viết hoa”. Bởi thế, nhà văn luôn tiếp cận đối tượng trên phương diện tài hoa, nghệ thuật. Là một đứa con của “chủ nghĩa xê dịch” Nguyễn Tuân đã in dấu chân mình trên mọi miền của Tổ quốc. Trong chuyến công tác lên vùng cao Tây Bắc, nhà văn đã tìm ra “chất vàng” của thiên nhiên, của con người nơi đây. Từ đó, ông chắp bút viết nên tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Cả tác phẩm là sự kết tinh của “chất vàng” nơi dẻo cao của đất nước: Là thiên nhiên hung bạo nhưng cũng nên thơ, trữ tình, là con người tài hoa, trí dũng, “anh hùng sông nước” nhưng cũng giản dị, mộc mạc. Hai đoạn trên đã khắc họa nên vẻ đẹp hung bạo của con sông qua âm thanh của thác đá khi ở thượng nguồn và vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình qua hình dáng, màu sắc của Đà giang khi ở hạ lưu.

Tên của tùy bút là “Người lái đò sông Đà” nhưng khi đọc tác phẩm, ta thấy hình tượng con sông Đà là một hình tượng lớn bao trùm lên cả tác phẩm. Mở đầu tác phẩm là con sông Đà, theo dọc tác phẩm cũng là con sông Đà và kết thúc tác phẩm cũng là người lái đò trên sông Đà. Sông Đà hiện lên với hai nét vẽ chính: hung bạo và trữ tình. Không chỉ có vậy, Đà giang còn có tính độc đáo được thể hiện qua lời đề từ:

“Chúng thủy giai Đông tẩu

Đà giang độc Bắc lưu”

Điểm đặc biệt của dòng sông này được thể hiện ngay từ đầu, với lời đề từ mang ý nghĩa là mọi con sông đều chảy về hướng Đông, duy chỉ có sông Đà là chảy theo hướng Bắc. Việc sử dụng chữ hán đã giúp Nguyễn Tuân làm nổi bật lên sự khác biệt, độc đáo của con sông. Cái độc đáo của của sông Đà đã gặp gỡ, đồng điệu hòa vào với cái độc đáo của Nguyễn Tuân. Nếu ví Đà giang như một bức vẽ đặc biệt thì Nguyễn Tuân chính là người họa sĩ tài năng với lối tranh đầy màu sắc và cả âm thanh. Chính bởi sự đặc biệt đó, hình tượng con sông Đà hiện lên như một nốt láy đầy ấn tượng về thiên nhiên Tây Bắc: Một Đà giang hung bạo như một bầy thủy quái qua những thanh âm rùng rợn của nước thác.

Trước đó, sông Đà được miêu tả như một con quái vật đầy bí hiểm, dữ tợn, chỉ trực nuốt chửng cái thuyền nào đó đi qua nó qua hình ảnh của “vách đá”, “Ghềnh Hát Loóng”, “hút nước”. Bằng việc miêu tả âm thanh của thác đá, Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà như một bầy thủy quái đang sục sôi, chờ những con thuyền đến để bắt sống. Chưa nhìn thấy hình đáng của “kẻ thù số một của con người”, ta đã nghe thấy những âm thanh ghê rợn, vang vọng. Càng tiến đến gần, những âm thanh ấy “réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Và khi này ta mới thấy “đây không chỉ đơn thuần là tiếng thác nước mà là những tiếng “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”. Việc nhân hóa con sông với những từ ngữ chỉ hành động của con người nhà văn đã cho ta thấy tâm địa, diện mạo của “kẻ thù số một”. Ta càng lại gần, sự hung bạo lại càng được đẩy lên cao. Từ “oán trách”, “van xin” được đẩy lên “khiêu khích”, “chế nhạo”.

Đà giang dường như cũng có lý trí riêng của nó. Mới đầu là “oán trách” con người vì đã đi vào lãnh thổ của nó, sau là sự “van xin” con người đừng đụng vào nó, đừng tiến gần nó. Nhưng khi con người tiến đến gần, giọng điệu của con sông thay đổi hoàn toàn. Nó mời gọi, “khiêu khích” con người đi vào trận địa của nó để rồi “chế nhạo” sức mạnh yếu ớt của con người nhỏ bé, đơn chiếc trước thiên nhiên hung bạo, hùng vĩ. Nốt nhấn của cả đoạn trên là hình ảnh so sánh: “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổi lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng”. Câu văn đã bộc lộ rõ sự “ngông” trong ngòi bút của Nguyễn Tuân.

Ở những câu văn trước, nhà văn đã sử dụng những từ ngữ miêu tả âm thanh tăng tiến, tạo sự hãi hùng, ớn lạnh cho người đọc khi càng đến gần con thác. Nhưng đến câu văn này, âm thanh lại được miêu tả bằng hình ảnh “một ngàn con trâu mộng”. Điều này không chỉ thể hiện sự liên tưởng phong phú của Nguyễn Tuân mà còn cho ta thấy được cái “ngông” đã thấm đẫm vào con người ông, vào những trang văn tuyệt đẹp. Qua đó, ta thấy được sự hung bạo của con sông Đà, sự dữ dội của thác nước giống như một bầy thủy quái đang trực chờ nuốt chửng bất cứ con thuyền nào đi ngang qua. Sự hiểu biết sâu rộng, cũng việc miêu tả âm thanh sống động không chỉ qua thính giác mà còn qua những hình ảnh ấn tượng của thị giác, Nguyễn Tuân đã thành công khắc họa sự hung bạo của sông nước Đà giang.

Sông Đà hiện lên không chỉ như một bầy thủy quái mà còn như một cô gái đẹp. Trước đó, khi ở thượng nguồn sông Đà hung bạo với tâm địa của “kẻ thù số một của con người” trong cuộc chiến với người lái đò. Nhưng khi xuống dưới hạ lưu, cuộc chiến kết thúc, người lái đò trở về làm người lao động bình dị, mộc mạc còn sông Đà rũ bỏ lớp áo gai góc của mình để lộ ra những vẻ đẹp nên thơ, trữ tình. Không còn “những vách đá dựng đứng vách thành”, không còn “những vách đá chẹt ngang lòng sông như một cái yết hầu” nữa, mà giờ đây, sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”. Câu văn dài, nhiều vế và chỉ có duy nhất một dấu chấm phẩy đã phá vỡ trật tự cú pháp thông thường trong tiếng Việt, nhưng “văn chương không cần sự khéo tay’, “văn chương cần có sự lạ hóa, độc đáo và Nguyễn Tuân đã làm được điều đó.

Việc phá vỡ cấu trúc trật tự cú pháp thông thương cùng từ “tuôn dài” đã góp phần làm hiện lên vẻ đpẹ mềm mại, tuôn dài của con sông vô vị, vô trung. Ta từng bắt gặp dòng sông Hương uốn lượn, mềm mại như mảnh lụa nhưng vô hồn, đối lập với “áng tóc trữ tình”. “Áng tóc trữ tình” là một hình ảnh tuyệt đẹp về mái tóc của những cô thiếu nữ. Từ đó, ta vừa thấy được vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng của dòng sông, vừa gợi ra sức sống tràn trề của con sông Đà. Nguyễn Tuân không dùng mái tóc mà dùng “áng tóc” để miêu tả dáng vẻ của con sông. Có thể thấy, đối với nhà văn, sông Đà là một công trình nghệ thuật tuyệt mĩ mà tạo hóa ban tặng. Tác giả đã khéo léo đưa chất liệu sử thi vào đưa người đọc tiếp cận với văn hóa. Trước kia, thiên nhiên được coi như chuẩn mực của cái đẹp, Nguyễn Du đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp khi dùng thiên nhiên để miêu tả nhan sắc của Thúy Kiều:

“Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Nhưng ở đây, Nguyễn Tuân đã chọn một lối đi riêng, đi ngược lại với các thi nhân xưa: con người là chuẩn mực của cái đẹp. Có thể thấy, nhà văn đã nhận ra mối quan hệ đặc biệt giữa thiên nhiên và con người. Con người là tiêu chuẩn của “cái đẹp”, con người đẹp nổi bật trên một khung cảnh thiên nhiên đẹp. Dưới góc nhìn từ trên cao xuống, con sông còn hiện ra với vẻ đẹp hoang sơ, man dại “ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Từ “ẩn hiện” gợi lên những hình ảnh lúc nhòe mờ, lúc rõ nét, lúc mơ hồ, lúc ẩn hiện. Qua đó, dòng sông hiện lên như cõi tiên cảnh vừa có thực, vừa không có thực giữa mênh mông núi rừng Tây Bắc.

Không chỉ mang vẻ đẹp huyền ảo, sông Đà còn chảy giữa những màu sắc trẻ trung, rực rỡ. Màu đỏ của hoa gạo, màu trắng của hoa gạo tháng hai góp phần làm nên vẻ đẹp xuân sắc của sông Đà. Dòng sông hiện lên như cô thiếu nữ đang say giấc nồng giữa mênh mang núi rừng Tây Bắc và những bông hoa rực rỡ đang nở rộ. Những hình ảnh, câu chữ của Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của không gian sông nước Đà giang. Để rồi ta nhận ra, nếu đất trời Tây Bắc là một mỹ nhân thì sông Đà là mái tóc tôn lên vẻ đẹp của cô gái ấy.

Nét trữ tình của sông Đà không chỉ hiện lên qua dáng vẻ mà con hiện lên qua sắc nước. Chỉ ngắm nhìn sông Đà từ trên cao là chưa đủ với Nguyễn Tuân. Từ “tôi” lặp lại cùng với cụm từ “say sưa” đã bộc lộ tình cảm, cảm xúc của nhà văn. Đó là thứ tình cảm nồng cháy, say sưa, yêu mến, trân trọng mà nhà văn dành cho dòng sông của đất trời Tây Bắc. Tình yêu ấy đã khiến thi nhân phải sà xuống, “xuyên qua đám mây”, lại gần hơn với sông Đà. Vẫn là góc nhìn từ trên cao xuống nhưng gần hơn, xuyên qua làn mây mùa thu, Nguyễn Tuân khám phá ra vẻ đẹp độc đáo của sắc nước sông Đà. Theo dòng chảy của thời gian, màu sắc của dòng sông cũng biến chuyển vào mùa xuân, dòng sông xanh màu “xanh ngọc bích”.

Bằng vốn hiểu biết phong phú, uyên bác về màu sắc cũng như cách dùng từ, nhà văn đã giúp người đọc thấy được màu sắc của dòng sông. Như một sự ưu ái với con sông đặc biệt này, Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp đòn bẩy để nâng vẻ đẹp của sông Đà lên một nấc thang mới. Ông so sánh màu xanh tuyệt đẹp, huyền ảo của ngọc bích với màu xanh sẫm canh hến của sông Lô, sông Gâm. Có thể thấy, sông Đà có một vị trí không hề nhỏ trong trái tim của nhà văn. Còn khi thu về, dòng sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu vữa”. Hình ảnh so sánh, liên tưởng thú vị, độc lạ đã khắc họa rõ nét màu sắc kì ảo của dòng sông. Không phải màu đỏ tươi, đỏ sẫm mà là màu đỏ “như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Đây là điều làm nên tên tuổi của Nguyễn Tuân.

Dù ông so sánh chiếc lá hay dòng sông thì người đọc cũng ấn tượng mãi không quên. “Sắc đỏ ở dây chính là do phù sa cuộn lên. Phải rất tinh tế, quan sát kĩ mới có thể nhìn ra điều này. Qua đây, ta thấy được sự độc đáo trong hình ảnh so sánh, hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng và cách dùng từ của Nguyễn Tuân. Phải yêu sông Đà, phải ngắm nhìn kĩ lắm, ông mới có được những phát hiện mới lạ và những trang văn giàu chất thơ như vậy. Sự thay đổi, biến chuyển của màu sắc cho ta thấy sông Đà mang vẻ đẹp biến hóa, đổi thay chứ không chỉ một màu, bất biến.

Hai đoạn trích là hai nét vẽ tưởng như đối lập nhưng lại cùng nhau hoàn thiện bức tranh sông nước Đà giang. Đó là vẻ đẹp của “chát vàng trong thiên nhiên Tây Bắc”. Qua đó, ta thấy được tình yêu, niềm tự hào của Nguyễn Tuân dành cho dòng sông quê hương. Đối với nhà văn, “chất vàng” không chỉ là sự quý hiếm mà còn là giá trị mà nó đem lại cho con người. Sự hung bạo của sông Đà làm nên tiềm năng thủy điện dồi dào cho đất nước. Nét trữ tình của dòng sông đem lại tiềm năng phát triển du lịch cho miền dẻo cao Tây Bắc. Trước Cách mạng, ngòi bút của Nguyễn Tuân chủ yếu phản ánh những vấn đề lớn lao của thời đại và những con người “vang bóng một thời” mà tiêu biểu là nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã có sự chuyển mình trong ngòi bút, hướng đến thực tiễn xây dựng cuộc sống mới.

Bằng việc khai thác đặc điểm của thể loại cho phép sự tự do trong việc sử dụng tư liệu, tự do trong việc bộc lộ cảm xúc, Nguyễn Tuân viết tùy bút “Người lái đò sông Đà” hay đó cũng chính là những dòng tâm sự của nhà văn khi nói về dòng sông quê hương. Sự thành công trong việc xây dựng hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách trái ngược không chỉ nhờ sự tài hoa trong nghệ thuật ngôn từ mà còn nhờ sự uyên bác, uyên thâm trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau như điện ảnh, mĩ thuật, …

Tác phẩm khép lại nhưng những hình ảnh về một dòng sông hung bạo như một bầy thủy quái với âm thanh dữ tợn nhưng cũng có lúc êm đềm, trữ tình như cô gái đẹp với những vẻ đẹp biến đổi theo thời gian vẫn đọng lại trong tâm trí người đọc. Những trang văn của Nguyễn Tuân quả xứng đáng là những trang hoa đẹp dâng tặng cho đời. Với sự thành công của “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân xứng đáng là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam, là bậc thầy của thể loại tùy bút.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM