Trang chủ

Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà

Xuất bản: 27/08/2018 - Cập nhật: 25/07/2022 - Tác giả: - Tham vấn bởi:

Hướng dẫn lập dàn ý cho đề bài văn phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.

Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà được Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn kèm theo mẫu bài văn tham khảo phân tích người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà giúp học sinh nắm được cách làm và có thêm những ý văn hay.

Cùng tham khảo ngay nhé !

Hướng dẫn phân tích đề về hình tượng người lái đò sông Đà

- Xác định dạng đề: Kiểu bài phân tích

- Xác định yêu cầu của nội dung đề bài: phân tích làm rõ hình tượng người lái đò sông Đà

- Xác định phạm vi dẫn chứng tư liệu: các câu văn, hình ảnh, từ ngữ,... trong văn bản Người lái đò sông Đà.

- Xác định các luận điểm chính cho bài phân tích:

+ Luận điểm 1: Người lái đò là một người anh hùng trên sông nước

+ Luận điểm 2: Người lái đò là một người nghệ sĩ

+ Luận điểm 3: Người lái đò là một người lao động bình dị đã cống hiến thầm lặng mà cao cả

Dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà

I. Mở bài

- Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.

- Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù).

II. Thân bài

* Người lái đò là một người anh hùng trên sông nước.

- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.

- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh,... chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề.

- Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”

- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao - người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.

* Người lái đò là một người nghệ sĩ

- Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc... xuống dòng”,...

- Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:

+ Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất

+ Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông "nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh,...

* Người lái đò là một người lao động bình dị đã cống hiến thầm lặng mà cao cả

- Biểu tượng cho những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình dị giống bao người khác.

* Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

III. Kết bài

- Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.

- Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.

Bài văn mẫu tham khảo phân tích hình tượng người lái đò sông Đà

"Ôi những dòng sông bắt đầu từ đâu

Mà khi về đến Đất Nước mình bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”…

("Đất nước" - Nguyễn Khoa Điềm)

Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:

"Chúng thủy giai đông tẩu

Đà Giang độc bắc lưu".

Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm "Sông Đà" ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà" là một trong số 15 bài của tác phẩm “Sông Đà”, là một “tờ hoa", “trang hoa” đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.

Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi sông Đà như một "cố nhân”, một cố nhân "chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy".

Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường lễ bao xa - Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Lý Tiên Giang và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết tên hàng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có câu tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".

Ở phía trên trung lưu sông Đà, đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng Ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm...". Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc" như rót dầu sỏi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe "như là oán trách..., như là van xin... như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa!

Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tưởng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có "diện mạo và tâm địa" nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi "thạch trận", dày đặc “cửa tử”, la liệt “boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt” có bộ mặt "xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng "bẻ gãy cán chèo", "bắt chết" những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ải nước", đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.

Đọc tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà", ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với "một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” hoặc "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: "Mùa xuân dòng sông ngọc bích (…); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.

Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà "lặng tờ”; hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê "quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trọng một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá "điểm nhãn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi gianh đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi thoi". Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông Đà đem lại cho người đi rừng niềm vui "như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi", hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi",v.v...

Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút "Sông Đà” là loại “tùy bút – bút kí”. Đọc tùy bút "Người lái đò Sông Đà", ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục của một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc,... Chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ "đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ của sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: "Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông", và "Chúng thủy giai đông tẩu - Đà Giang độc bắc lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp "Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lý Bạch hơn 1.300 năm về trước:

"Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.

Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen". Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị:

"Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".

Qua đó, ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kỉ.

Nói về truyền thống yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX – để đưa vào bài kí:

"Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu

Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu".

Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. "Người lái đò Sông Đà" đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa Văn nghệ Việt Nam.

Ai đã từng đọc "Vang bóng một thời" chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu,... của những nhà nho thuở trước mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền Văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.

Đọc tùy bút "Người lại đò Sông Đà", ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã "đề thơ vào sông nước". Ông đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn hóa, nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người - ông lái đò - ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật  của con ong yêu hoa, cần mẫm và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Đọc "Người lái đò Sông Đà" ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dùng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt.

     Trên đây, Đọc tài liệu vừa giới thiệu tới các em chi tiết dàn ý phân tích hình tượng người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) kèm theo bài văn tham khảo. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 12 khác được cập nhật thường xuyên tại doctailieu.com. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao nhé!

TẢI VỀ

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM