Dàn ý liên hệ hai nhân vật Mị và Liên - Tổng hợp những dàn ý hay cho các đề văn so sánh, liên hệ giữa nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và Liên trong Hai đứa trẻ.
Đề bài: Một số dạng đề so sánh, liên hệ nhân vật Mị và Liên
- Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Từ đó, liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm (Truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11) để bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người.
- Phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân và liên hệ cảnh đợi tàu của chị em Liên.
- Cảm nhận của anh/ chị về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Từ đó, liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên, An (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) và nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa.
- Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12 – Tập 2, NXB GD Việt Nam 2016). Từ đó, liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu (Hai đứa trẻ – Thạch Lam, Ngữ văn 11 tập 1, NXB GD Việt Nam 2016) để nhận xét về cách nhìn và tình cảm của nhà văn đối với người lao động trong xã hội cũ.
***
Những dàn ý chi tiết cho các đề văn liên hệ nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ) và Liên (Hai đứa trẻ)
Dàn ý 1: Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị liên hệ với nhân vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
+ Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953.
+ Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân. Cũng như Mị, nhân vật Liên trong đêm đợi tàu đã thể hiện khát vọng sống cao cả của con người
II. Thân bài
1. Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tối khi bị trói
* Về nội dung:
– Sơ lược về cảnh ngộ của Mị trước khi bị trói trong đêm tình mùa xuân:
+ Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, chăm chỉ lao động, nhà nghèo và rất hiếu thảo;
– Do món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải làm dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, sống cuộc đời trâu ngựa khổ đau;
+ Nhưng tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói tia lửa sống, chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ. Dịp ấy đã đến trong một đêm tình mùa xuân phơi phới mà tiếng sáo gọi bạn đầu làng đã làm xao động lòng người phụ nữ trẻ;
+ Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu đèn lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát. Mị bồi hồi nghe tiếng sáo, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+Trông thấy Mị, A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…
– Diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân:
+ Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.
+ Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi… Mị vùng bước đi. ”Như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”, quên mọi đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng dậy bước đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào…
+ Nhưng tay chân đau không cử động được. Khi ấy, Mị mới biết mình đang bị trói, đang ở trong căn nhà tù ngục này. Lòng Mị đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
+ Cả đêm Mị lúc mê lúc tỉnh.
+ Bị trói đứng suốt đêm, Mị bàng hoàng tỉnh giấc
+ Mị thấy thương cho những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan
+ Mị nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết trong nhà thống lí. Mị sợ chết. Chính bóng ma thần chết ở ngôi nhà thống lí đã làm Mị sợ. Đồng thời, Mị nhận ra một điều chết lúc này là oan uổng. Tiếng sáo, khát vọng tự do đã làm cho Mị khao khát sống;
+ Mị sợ hãi cựa quậy khi xem mình còn sống không thì sợi dây đay đã siết vào da thịt Mị. Đau đớn đến tận cùng…
* Về nghệ thuật:
- Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế
- Cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên
- Giọng trần thuật của tác giả hòa vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc.
- Ngôn ngữ kể truyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
Tham khảo thêm: Dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong Vợ chồng A Phủ
2. Liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm
– Về nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm:
+ Thạch Lam là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện như một bài thơ đượm buồn. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”(1938). Truyện đã miêu tả diễn biến nội tâm của hai đứa trẻ trước chiều muộn về đêm. Qua cảm xúc, tâm trạng của Liên và An, tác giả đã thể hiện được bức tranh nơi phố huyện nghèo, niềm hy vọng mỏng manh mơ hồ của những con người nơi phố huyện. Trong đó, nhân vật Liên khi đợi tàu về đêm đã thể hiện được khát vọng sống của con người.
+ Tương tự như Mị, nhân vật Liên là một cô bé sống trong đói khổ nhưng vẫn có một tâm hồn hướng tới cuộc sống tơi đẹp hơn.
+ Nếu như tâm hồn Mị theo tiếng sáo gọi bạn tình thì tâm hồn của Liên cũng luôn khao khát, hướng về ánh sáng. Trong màn đêm, Liên luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa. Liên cố thức đợi chuyến tàu không phải để bán hàng mà là để được nhìn thấy một cuộc sống náo động, một nguồn sáng rực rỡ của con tàu như mang đến một cuộc sống khác, một thế giới khác.
– Bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người:
+ Hai nhân vật Liên và Mị đã khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp khát vọng sống của con người. Tâm hồn của họ luôn hướng về ánh sáng, về âm thanh cuộc sống cũng chính là niềm khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc. Họ đều hi vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm. Nhưng cuối cùng, cuộc đời Liên vẫn mãi chìm trong “bóng tối”, còn Mị đã được đổi đời nhờ có tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác;
+ Qua khát vọng sống của 2 nhân vật, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Tô Hoài. Các nhà văn có cùng niềm cảm thông với nỗi khổ của những người phụ nữ bất hạnh dưới chế độ thực dân phong kiến; ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân; đặc biệt ca ngợi khát vọng sống cao đẹp của họ. Đó cũng chính là niềm tin vào con người của các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam.
III. Kết bài:
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật nhân vật Mị qua đoạn trích: Cảm nghĩ của bản thân về khát vọng sống của nhân vật Mị và Liên.
Dàn ý 2: Phân tích diễn biến tâm trạng Mị và liên hệ cảnh đợi tàu của chị em Liên.
I. Mở bài:
– Giới thiệu ngắn gọn Tô Hoài
– Vợ chồng A Phủ là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài
– Nhân vật Mị được tập trung khắc họa với sức sống tiềm tàng, sự vận động đi từ bóng tối ra ánh sáng đặc biệt là diễn biến tâm trạng trong đêm tình mùa xuân.
II. Thân bài:
* Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân.
– Diễn biến tâm trạng:
+ Mị vốn là một cô gái trẻ trung, chăm chỉ, thổi sáo giỏi, hiếu thảo nhưng vì bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí mà cuộc đời Mị chỉ còn lại những chuỗi ngày buồn khổ, tủi nhục, lầm lũi. Đã từ lâu tâm hồn Mị đã chết theo những công việc tẻ nhạt quanh năm suốt tháng của kiếp ngựa trâu. Tuy nhiên tâm hồn Mị chỉ tam nguội lạnh, chỉ cần một động lực thôi thúc là nó sẽ hồi sinh.
+ Những yếu tố tác động của ngoại cảnh: Thời gian: mùa xuân – mùa tươi đẹp của Hồng Ngài. Trên núi, trên nương, ngoài sân…dấu hiệu của mùa xuân khắp mọi nơi. “Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa”, “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá”…Đặc biệt nhất là tiếng sáo – âm thanh của cuộc sống tự do đã đánh thức tâm hồn Mị “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
+ Nhân tố quan trọng: Rượu – rượu khiến Mị tìm lại chính mình của những ngày đã mất. Mị thấy mình còn trẻ, Mị tìm thấy niềm vui sau bao ngày đã mất. Hơi rượu khiến thính giác Mị nhạy hơn để Mị nghe tiếng sáo văng vẳng bên tai, Mị cũng uốn chiếc lá trên môi và thổi lá.
– Sự đối lập giữa thế giới đã mất và cuộc sống thực tại: Càng sống lại với tuổi trẻ đã mất và những ngày tháng tự do bao nhiêu thị Mị lại càng thấy tủi nhục cho cuộc sống hiện tại làm trâu ngựa cho nhà Thống Lí. Vì thế mà Mị nghĩ đến cái chết khi chẳng còn cách nào khác thoát khỏi sự bó buộc. Mị ước có nắm lá ngón để ăn chứ không buồn nhớ đến nữa vì “nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”.
– Xuất phát từ ý thức trỗi dậy, Mị đã có những hành động quyết liệt: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách… Mị rút thêm cái áo”
– Ý định giải thoát bị ngăn cản, sức sống vừa trỗi dậy bị đạp đổ: A Sử phát hiện ra ý định của Mị nên hắn trói Mị vào cột nhà suốt đêm. “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”…Mị bị cầm tù thể xác nhưng tâm hồn đã thật sự tự do. Sự hồi sinh của Mị còn biểu hiện rõ ràng ở nỗi đau “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
– Ý thức về nỗi khổ của thân phận và nỗi sợ cái chết: Lúc Mị bàng hoàng tỉnh và vẫn bị trói đứng, Mị đã nghĩ về thân phận người đàn bà có chồng trong gia đình này, nghĩ đến câu chuyện có người vợ bị trói chết ngay trên chiếc cột. Mị sợ chết “Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết” đó là dấu hiệu cho biết Mị còn ham sống.
* Đánh giá chung:
- Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất trong đêm tình mùa xuân của Mị không thành và sau đó Mị lại tiếp tục sống kiếp tù đày trong một thời gian dài nữa nhưng nó cũng đủ nhận ra Mị còn khao khát sống. Nó sẽ tạo ra những cơn sóng ngầm tuôn trào thành những đợt sóng tiếp theo dữ dội hơn, bằng chứng là hành động cắt dây trói cho A Phủ sau này.
– Nghệ thuật: không quá nhiều sự kiện nhưng Tô Hoài đưa người đọc vào vòng tâm trạng đầy uẩn khúc, lúc mơ hồ, u ám lúc quyết liệt của Mị. Đó là thành công đặc sắc trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.
Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân để thấy rõ sự khác biệt khi so sánh với các tác phẩm khác.
* Liên hệ tâm trạng của Liên khi đợi tàu
– Nguyên nhân Liên đợi tàu: Chị em Liên có một gian hàng tạp hóa nhỏ buôn bán trong những ngày tháng khó khăn. Tuy nhiên Liên đợi tàu không phải để bán được hàng mà đợi để muốn nhìn thấy hoạt động cuối cùng của một ngày. Nó xuất phát từ sự khát khao nhìn thấy ánh sáng tương lai của hai chị em.
– Cảnh đợi tàu: An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn gượng để thức khuya chút nữa”, “An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.” => Liên và An đợi tàu trong tất cả sự kì vọng có sự háo hức của tuổi thơ và cả niềm mong mỏi của người lớn.
– Ý nghĩa của chuyến tàu đêm:
+ Chuyến tàu nhắc hai chị em nhớ về một quãng thời gian đã mất, một quãng thời gian còn sung túc bên cha mẹ ở Hà thành “được thưởng thức những món quà ngon lạ”, Liên nhớ về nơi ấy với sự rực rỡ, huyên náo.
+ Đoàn tàu mang đến ánh sáng kì diệu của ngày mai, nó chứa đựng mong muốn và khát vọng được đổi đời, được sống sung túc hơn. “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.
=> Thạch Lam đã thể hiện niềm trân trọng, thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé nghèo nàn tăm tối và buồn chán nơi phố huyện.
* So sánh:
Điểm gặp gỡ về tư tưởng nhân đạo của hai tác giả:
- Cả hai nhà văn đều thể hiện tấm lòng xót thương, đồng cảm với những con người nhỏ bé, bất hạnh, phải chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ.
- Cả hai nhà văn đều phát hiện và nâng niu, trân trọng vẻ đẹp ở những con người bất hạnh, đáng thương: sức sống tiềm tàng mãnh liệt, ước mơ, khao khát thay đổi cuộc sống…
- Tố cáo tội ác của các thế lực thống trị.
III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm và đánh giá về vị trí của hai tác phẩm trong nền văn học Việt Nam.
Dàn ý 3: Niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Cảm nhận về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
II. Thân bài
– Giới thiệu sơ lược về đặc điểm con người và số phận đau khổ của Mị trong nhà Pá Tra.
– Vài nét về bối cảnh nhân văn của thiên nhiên và cuộc sống, sinh hoạt ở Hồng Ngài trong mùa xuân.
– Diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị: nhẩm thầm bài hát – uống rượu và say – sống dậy những ngày quá khứ tươi đẹp và thức tỉnh tình cảnh thê thảm ở thực tại – muốn chết và muốn đi chơi.
– Niềm khao khát được đi chơi là biểu hiện cho sức sống, khao khát tự do, ý thức làm người bấy lâu bị tê liệt nay đã hồi sinh ở Mị.
* Liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của chị em Liên, An
– Hai chị em Liên An từng có những ngày tuổi thơ tươi đẹp ở Hà Nội, nay vì gia cảnh sa sút mà phải sống buồn lặng, tăm tối ở phố huyện nghèo. Mỗi ngày, hai chị em chỉ có một niềm vui duy nhất: ngắm nhìn chuyến tàu đêm từ Hà Nội qua phố huyện.
– Điểm giống nhau: Các nhân vật đều khao khát thoát khỏi thực tại buồn chán, tăm tối trói buộc sự sống; đều khao khát được đổi thay, được sống có ý nghĩa hơn.
– Điểm khác nhau:
+ Chị em Liên, An là những đứa trẻ, niềm mong ước đổi thay còn nhỏ bé, mơ hồ, mong manh.
+ Niềm khao khát được đi chơi ở Mị chuyển hóa thành những hành động cụ thể; dù không thành nhưng là bước đột phá trong sự vận động tâm lí nhân vật, tạo chuyển biến cho hành động trốn khỏi nhà Pá Tra ở đêm mùa đông năm sau.
* Nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa.
– Với Thạch Lam: Viết về đề tài thị dân nghèo, quan tâm đến mảnh đời nhỏ bé, thương xót cho những kiếp người vô danh nhất là những em bé nên ao ước cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Nhưng nhà văn lãng mạn – dù có cái nhìn gắn với thực tại đời sống – chưa tìm được lối thoát cho nhân vật.
– Với Tô Hoài: Viết về đề tài cuộc sống của người lao động trong xã hội cũ nhưng có cách nhìn, cách lí giải mới gắn với đổi thay trong tư tưởng của nhà văn, vì thế, cuộc sống có ý nghĩa là cuộc sống được tự do, được sống trong niềm vui sống của tuổi trẻ.
III. Kết bài: Đánh giá chung
– Về nhân vật Mị
– Về giá trị nhân đạo của hai tác phẩm.
Dàn ý 4: Cảm nhận về nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu
I. Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
II. Thân bài
1. Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
– Nội dung:
+ Lúc đầu: Khi nhìn thấy A Phủ bị trói Mị vẫn thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” vì cảnh trói người ở nhà thống lí Pá Tra đã quá quen thuộc và chính Mị cũng từng bị trói như thế. Hay vì ở lâu trong cái khổ tâm hồn Mị đã trở nên chai sạn, vô cảm trước nỗi đau của người khác cho nên “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”.
+ Sau đó: Mị nhìn thấy “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A phủ.:
- Lòng Mị chợt bồi hồi nhớ lại cảnh mình cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau
- Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng.
- Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
- Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó.
-> Từ thương mình chuyển sang thương người, hình thành sợi dây đồng cảm Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ.
- Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi.
=> Có thể nói tình thương, sự đồng cảm giai cấp và niềm khát khao tự do, sức sống mãnh liệt đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cho A phủ. Hành động ấy bất ngờ nhưng tất yếu mang tính logic của một sức sống đã được hồi sinh mãnh liệt. Mị cởi trói cho A Phủ cũng chính là tự cởi trói cho chính mình.
– Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
+ Cách trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, ngắn gọn; dẫn dắt tình tiết khéo léo.
+ Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo…
2. Liên hệ với tâm trạng của hai chị em Liên trong cảnh đợi tàu
– Liên chờ tàu không phải để bán hàng cũng không phải sự hiếu kì mà là nhu cầu tinh thần hàng đêm. Bởi vậy, An mặc dù đã buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. ” Hai chị em Liên chời đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi bởi đó là chuyến tàu từ Hà Nội về – gợi những kí ức về cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ; chuyến tàu giúp Liên và An được cảm nhận cuộc sống dù là trong một giây lát.
– Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An hướng cả tâm hồn mình vào đoàn tàu khi còn ở xa “tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới với những toa hạng sang, mạ kền và mạ đồng lấp lánh, các cửa kính sáng. ” Con tàu đã đem đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ, huyên náo- một thế giới khác hẳn với sự nghèo khôt hàng ngày.
– Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua đi vào đêm tối. Ta bắt gặp phía sau đoàn tàu một nguồn ánh sáng nhỏ nhoi chỉ chực tan hòa vào bóng tối. An nhận ra tàu hôm nay “kém sáng hơn”, nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng”. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho những con người nơi đây “chừng ấy con người…của họ”.
– Nghệ thuật:
+ Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có cốt truyện, không có những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều.
+ Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện.
+ Thủ pháp nghệ thuật đối lập.
+ Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ
3. Nhận xét cách nhìn và tình cảm của nhà văn đối với con người
– Giống nhau:
+ Phản ánh cuộc sống vất vả, tối tăm của người lao động trong xã hội cũ.
+ Thể hiện thái độ thương cảm, trân trọng của nhà văn với những ước mơ, niềm khát vọng của con người.
+ Qua đó thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam và Tô Hoài.
– Khác nhau:
+ Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam thể hiện cái nhìn xót thương cho cuộc đời số phận quẩn quanh, tối tăm và bế tắc của những người dân nơi phố huyện nghèo – những con người không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, sống mòn mỏi trong nỗi buồn chán và sự vô nghĩa đến ước mơ cũng chỉ là chờ một chuyến tàu đêm đi qua.
+ Trong Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã khẳng định bằng sức sống mãnh liệt những người lao động như Mị và A Phủ đã tự giải phóng mình khỏi cuộc sống tối tăm để hướng đến cuộc sống và tương lai tốt đẹp đó là con đường đến với cách mạng.
-> Đây là nét hiện thực mới cũng là nhân đạo mới của văn học 1945 – 1975 so với văn học 1930 – 1945.
Sưu tầm và tuyển chọn Văn mẫu lớp 12 hay nhất / Đọc Tài Liệu