Trang chủ

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu

Xuất bản: 25/05/2023 - Tác giả:

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu. Tổng hợp các mẫu dàn ý ngắn gọn và chi tiết giúp học sinh có thêm nhiều hướng triển khai bài văn Cảm nhận Cảm xúc mùa thu

Dàn ý ngắn gọn và chi tiết Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu ngắn gọn và chi tiết

Cảm xúc mùa thu là sáng tác tiêu biểu trong chùm thơ mùa thu của Đỗ Phủ. Chắc hẳn bài thơ này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Dưới đây Đọc tài liệu đã tổng hợp một số mẫu dàn ý nêu cảm nhận về bài thơ Cảm xúc mùa thu - Thu hứng của nhà thơ Đỗ Phủ.

Dàn ý ngắn gọn mẫu 1 Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Đỗ Phủ và bài thơ "Cảm xúc mùa thu".

II. Thân bài

1. Bốn câu thơ đầu tiên

- Miêu tả hình ảnh đẹp và giàu tính ước lệ của mùa thu Trung Quốc.

- Sự tương phản và đối lập trong mô tả không gian thiên nhiên.

- Phản ánh tâm trạng buồn, cô đơn và lạnh lẽo của tác giả.

2. Bốn câu thơ sau

- Hình ảnh biểu tượng và ẩn dụ để thể hiện nỗi buồn và nỗi nhớ quê hương.

- Sự đồng nhất giữa các sự vật và hiện tượng.

- Mô tả tâm trạng đau buồn, tha thiết và mong đợi của nhà thơ.

3. Nghệ thuật

- Đặc điểm về giọng thơ và câu chữ.

- Sự kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp đối lập và tả cảnh ngụ tình.

III. Kết bài

Tóm tắt cảm nhận chung về tác phẩm và xác nhận giá trị của nó.

Dàn ý chi tiết mẫu 2 Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Đỗ Phủ và bài thơ " Thu hứng", có thể dẫn dắt từ đề tài mùa thu trong thơ ca nói chung, thơ Đường nói riêng

Tham khảo: Mùa thu đã trở thành một nguồn cảm hứng vô tận trong thơ ca cổ kim và trên biết bao miền đất khác nhau, đặc biệt, thu là một đề tài vô cùng nổi bật trong thơ ca Trung Quốc. Mùa thu không chỉ đẹp mà còn gợi tình, gợi cảm. Mùa thu trong bài thơ "Thu hứng" của Đỗ Phủ quả thật là một thị phẩm để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ bạn đọc

II. Thân bài

1. Bốn câu thơ đầu tiên : Bức tranh mùa thu

a. Hai câu thơ đầu (1 và 2):

- Hình ảnh: "ngọc lộ", "phong thụ lâm"  là những hình ảnh rất giản dị, quen thuộc song vô cùng đẹp và giàu tính ước lệ của mùa thu Trung Quốc:

- “Ngọc lộ": Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dầy đặc làm tiêu điều, hoang vu cả một rừng phong. Bản dịch thơ dịch thanh thoát nhưng chưa truyền tải đầy đủ nội dung, ý nghĩa thần thái của nguyên tác.

- “Phong thụ lâm”: gợi ra hình ảnh của rừng cây cổ thụ rộng lớn thường được dùng để tả cảnh sắc mùa thu và nỗi sầu li biệt

- "Núi Vu, kẽm Vu”: Là hai địa danh cụ thể ở Trung Quốc, vào mùa thu khí trời âm u, mù mịt, mở ra một không gian bao la nhưng lại hoang vắng đến lạnh lẽo. Bản dịch thơ là “ngàn non” đã đánh mất hai địa danh cụ thể lại không diễn tả được hết không khí của mùa thu.

- “Khí tiêu sâm”: Hơi thu hiu hắt, ảm đạm, tô đậm thêm cho nó u buồn nhuốm đượm trong cảnh thiên nhiên

- Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao vừa có chiều rộng và chiều sâu. Từng hình ảnh hoà vào nhau, vẽ lên bức tranh thu với không gian lạnh lẽo xơ xác, tiêu điều, ảm đạm, tất cả mọi thứ như bị choán ngợp trong không gian bao la, hoang vắng

- Thấm nhuần trong cảnh thiên nhiên, ta như thấy cảm xúc buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.

b. Hai câu tiếp theo (3 và 4):

- Điểm nhìn từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được quan sát theo ba chiều: chiều xa, tầng cao và chiều rộng

- Tầng xa: là ở giữa dòng sông thăm thẳm là “sóng vọt lên tận lưng trời”, bức tranh thiên nhiên như có độ sâu hơn càng làm hiện rõ sự mênh mông bảo trùm

- Tầng cao: Là miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đấy.

- Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông đều cho ta hình dung về không gian rộng lớn.

- Thiên nhiên hiện lên qua ba chiều kích càng trở nên bao la đến rợn ngợp, cảm giác như con người đứng trước thiên nhiên ấy sẽ vô cùng nhỏ bé

- Một loạt những hình ảnh tương phản đối lập kết hợp thủ pháp phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp), càng nhấn mạnh sự rộng lớn của không gian

- Sự vận động trái chiều của những hình ảnh mở ra một không gian kì vĩ, tráng lệ, thậm chí khiến ta phải rùng mình

+ Nhưng con người hiện lên trong đó lại mang theo nỗi cô đơn  giữa không gian bất tận, song lại có phần nào ngột ngạt, bí bách

- Bốn câu thơ vẽ lên bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, rợn ngợp.

- Miêu tả cảnh thiên nhiên nhưng dường như tác giả đang khắc hoạ chính bức tranh của xã hội Trung Quốc đương thời loạn lạc bất an, chao đảo.

- Nỗi buồn lạc lõng giữa thiên nhiên phải chăng cũng là nỗi chênh vênh lo lắng của tác giả trước thời cuộc.

2. Bốn câu thơ sau: Tình cảm trước mùa thu

a. Câu 5 và 6

- Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ: "Khóm cúc nở hoa – tuôn dòng lệ":Trước hết là hình ảnh tả thực, cánh hoa nở ra là những giọt sương long lanh rơi như giọt lệ, vừa là hình ảnh biểu tượng cho nỗi buồn và dòng lệ trong lòng tác giả

- "Cô chu": con thuyền cô độc là hình ảnh  biểu tượng khơi gợi sự trôi nổi, lưu lạc của con người, đặc biệt khi là với những người con xa quê hương khao khát được quay trở về

- “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.

- Một loạt những từ ngữ thể hiện trực tiếp nỗi nhớ : “Lưỡng khai” (Nỗi buồn lưu cữu trải dài từ quá khứ đến hiện tại), “Cố viên tâm” (Tấm lòng hướng về quê cũ gợi thân phận của kẻ tha hương, li hương luôn khiến lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê, nhớ nước)

- Sự đồng nhất giữa các sự vật, hiện tượng:

- Tình – cảnh: Nhìn cúc nở hoa mà lòng buồn tuôn giọt lệ

- Quá khứ – hiện tại: Hoa cúc nở hai lần năm ngoái – năm nay mà không thay đổi

- Sự vật – con người: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người

- Hai câu thơ đặc tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết, dồn nén vì nỗi nhớ quê không thể giải tỏa của nhà thơ.

b. Câu 7 và 8

- Hình ảnh mọi người nhộn nhịp may áo rét, giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông tới gợi lên không khí chuẩn bị cho mùa đông, gấp gáp, thúc giục.

- Âm thanh: Tiếng chày đập vải là âm thanh báo hiệu mùa đông sắp đến, đồng thời diễn tả sự thổn thức, ngổn ngang, mong chờ ngày về quê của tác giả.

- Bốn câu thơ vẽ ra những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống nơi quê nhà khắc sâu tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, trầm lắng, u sầu vì nỗi mong nhớ trở về quê hương.

3. Nghệ thuật

- Tứ thơ trầm lắng, u uất

- Giọng thơ buồn, thấm đẫm tâm trạng, câu chữ tinh luyện

- Thi liệu, ngôn ngữ giản dị, đặc trưng mang tính ước lệ cao

- Kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp đối lập, tả cảnh ngụ tình, lấy điểm tả diện

III. Kết bài

- Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và khẳng định lại giá trị của tác phẩm

Tham khảo: Bài thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh thu giàu chất gợi hình mà còn gợi lên cả trong ta một nỗi niềm sâu kín. Nỗi lo âu thế sự, nỗi nhớ quê hương cùng nỗi đơn côi lạc lõng đã được thể hiện thật tài tình trong bài thơ. Chính với ngòi tinh tế và cảm xúc sâu sắc đong đầy, Đỗ Phủ và bài thơ "Thu hứng" sẽ mãi giữ được một vị trí quan trọng trong nền thi ca Trung Quốc nói riêng và trên thế giới nói chung.

Dàn ý chi tiết mẫu 3 Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng)

I. Mở bài

- Đỗ Phủ (712 – 770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, chủ yếu viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân mình.

- Cảm xúc mùa thu vừa là bức tranh thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong lúc đất nước đang rối ren, loạn lạc.

II. Thân bài

- Cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu (4 câu đầu):

+ “Phong” người ta liên tưởng đến mùa thu vì mỗi đợt thu về rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương.

+ Sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá.

+ “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông.

→ Qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống.

+ Hình ảnh đối lập: sóng vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống mặt đất, từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thấp.

→ Cảnh thu chuyển động dữ dội tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng.

⇨ Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau làm toát lên bức tranh thu rộng lớn vừa tiêu điều hiu hắt, vừa dữ dội, hùng vĩ.

- Nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước (4 câu sau):

+ Cúc là loài hoa của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp vậy mà nhìn nó lại nhỏ lệ, gợi một nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc nhớ về những mùa thu ở quê hương.

+ Chữ “lệ” trong bài thơ rất khó phân biệt lệ của người hay của hoa.

+ “Cố chu” con thuyền cô độc, khi nhìn thấy con thuyền nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết.

+ Hình ảnh con thuyền trôi nổi, lưu lạc, là phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện về quê, “hệ cố viên tâm” rất đặc biệt như buộc chặt nỗi lòng con người với quê nhà nhờ con thuyền trôi về quê hương.

+ Cảnh mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông để chuẩn bị cho mùa đông tới.

- Sử dụng không gian dài, rộng, vừa cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp và những phép ẩn dụ đặc sắc, đối xứng chặt chẽ. Bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ cảm xúc, dùng quá khứ nói hiện tại.

III. Kết bài

- Bài thơ “Cảm xúc mùa thu” – nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc.

Với 3 mẫu dàn ý ngắn gọn và chi tiết trên đây, các em đã biết cách triển khai bài văn cảm nhận về bài thơ Thu hứng với đầy đủ ý chính về nghệ thuật và nội dung của tác phẩm. Để giúp các em hình dung rõ hơn cách viết bài, Đọc tài liệu cũng đã tổng hợp một số màu bài văn Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu để các em tham khảo.

Văn mẫu Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu

Kể tên mười nhà thơ Đường xuất sắc nhất, sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua Đỗ Phủ, người từng được mệnh danh là “thánh thơ”. Cuộc đời ông gắn nhiều với những đau khổ bất hạnh, lúc nhỏ thì đói nghèo bệnh tật, khi trưởng thành lại vướng vào cảnh chiến tranh. Chưa bao giờ ông thôi làm thơ, ông gửi trọn lòng mình vào câu chữ. Khi sáng tác bài thơ “Thu hứng”, thi nhân đã trải qua mười một năm lưu lạc nơi xứ người sau loạn An Lộc Sơn.

Ông sống cuộc đời lưu lạc ấy ở vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, nơi mà núi non thi nhau hiểm trở, trùng trùng điệp điệp. Trước nơi đây, một hồn thơ Đỗ Phủ lại hướng về quê cũ, trĩu nặng suy tư. Và cũng từ đó, thi nhân mượn mùa thu để kí thác lòng mình. Như bao bài thơ Đường khác, “Thu hứng” cũng được chia làm bốn phần đề thực luận kết.

Bốn câu đầu, tác giả vẽ nên bức tranh mùa thu nơi vùng Quý Châu, có núi, có mây, có trời. Bốn câu sau là nỗi niềm của thi nhân khi đứng trước mùa thu, nhưng thực chất là đứng trước lòng mình mà nghĩ về phận lưu lạc. Mỗi phần đều có những đặc sắc về nghệ thuật và nội dung mà chúng ta còn phải khâm phục đến ngày hôm nay. Đứng trước cảnh Quý Châu núi rừng bạt ngàn, tự nhiên lòng thi nhân cũng treo vào rừng vào núi:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

(Lác đác rừng phong hạt móc sa

Ngàn non hiu hắt khí thu loà.)

“Thi trung hữu hoạ”, đối với trong thơ Đỗ Phủ quả không sai. Ta như nhìn được nét tay thi nhân chấm điểm từng nét của cảnh vật. Mùa thu về trên rừng phong, trên sương móc và núi non. Rừng phong có lẽ đã trở thành cổ điển cho mùa thu, khi lá phong chuyển màu đỏ cũng là lúc thu về. Nhưng cái nhìn tinh tế của Đỗ Phủ ở chỗ, ông nhìn được sương móc trên những cành phong rụng dần lá ấy.

Lá phong mang màu đỏ sẫm li biệt, lại rụng dần theo ngày tháng, ắt hẳn là nói đến buồn đau, chia li. Nỗi buồn ấy dường như trở thành muôn thuở trong cảm xúc của mùa thu. Và giọt sương thêm vào cũng làm không khí trở nên u ám tiêu điều hơn. Cảnh thu được nhìn từ trên cao mà bao quát, nhưng dường như càng trên cao lại càng thấy xa lạ cô đơn.

Ở câu thơ thứ hai, điểm nhìn vẫn treo chênh vênh trên đỉnh núi ấy. Ba chữ “khí tiêu sâm” vang lên làm mọi thứ cũng trở nên tối tăm mù mịt. Bản dịch dùng hai chữ “hiu hắt”, tôi nghĩ có lẽ vẫn chưa làm bật lên được sự u ám đến lạnh người ấy. Không gian đó trùm lên khắp Vu sơn, Vu giáp, làm núi Vu, hẻm Vu lại càng hiểm trở.

Cả không gian núi non của vùng đất Ba Thục xưa hiện ra trước mắt tầng tầng lớp lớp. Mây mù che phủ cả núi cả rừng, là mây mù tự nhiên hay lòng thi nhân sầu mà tự khắc sinh mây? Nhà thơ đã nhuốm cả ngòi bút bằng tâm trạng u sầu của mình mà vẽ nên cảnh vật. Hai câu thực tiếp theo, ta vẫn thấy cảnh vật nhuốm màu tâm trạng bi thương của tác giả. Núi non khép lại lại mở ra sông nước bạt ngàn:

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

(Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Thi nhân giờ đây không còn phải ngước mắt lên mà thu trọn cảnh vật vào nữa. Hơi thu toả vào tình sông nước, bi thương mà hùng tráng đến nao lòng. Các tính từ “rợn, thẳm” gợi tả được cái hồn của cảnh vật và cả hồn người. Vì thác ghềnh, sông hẹp nên sóng từ giữa sông cứ thế vọt lên như một cảnh dị thường trong đời. Lòng sông hay lòng người mà sâu thẳm đến vậy? Liệu đây có phải cảm giác rợn ngợp của tác giả khi đứng trước cả sóng nước lòng sông bao la? Con người dường như quá nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ.

Đến câu thơ thứ ba, mây mù lại lan toả khắp chốn: “Tái thượng phong vân tiếp địa âm”. Lúc trước là sóng chạm trời, bây giờ lại là mây tiếp đất, cảnh vật chỉ có thể gọi bằng hai chữ “hùng tráng”. Mây đùn mây dày đặc như tiếp đất, vừa tả thực lại vừa lột tả tâm trạng. Vùng mây ấy che đi cả cửa ải, che lối về chốn cũ của thi nhân. Lòng người giờ đây cũng giăng mắc trong mây, cũng mập mờ khi nhìn về cố hương.

Bốn câu thơ đầu đã lột tả được hồn của cảnh vật. Khí thu nơi đây có cái hùng vĩ tráng lệ của thiên nhiên núi rừng, nhưng lại đơn độc, lẻ loi và mang màu u ám. Cả bức tranh của vùng Quý Châu cứ ẩn hiện trong tâm trí người đọc. Tác giả chỉ điểm chứ không tả, nên sức khơi gợi càng lớn hơn bao giờ hết. Đứng trước một cảnh trời thu như vậy, lòng tác giả liệu có thể an yên?

Trong thơ cổ, thiên nhiên và con người vốn là thể hợp nhất. Cảnh núi non Quý Châu buồn như vậy, tâm trạng của người ngắm cảnh liệu có thể vui? Như một quy luật tất yêu, bốn câu thơ sau đã vén mở bức tranh tâm trạng thầm kín của thi nhân:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Đây có lẽ là hai câu thơ hay nhất trong cả áng thơ cảm hứng mùa thu. Câu thơ vừa có cảnh, lại vừa sinh tình. Không còn là những trùng điệp hùng vĩ của thiên nhiên, tác giả quay về với khóm cúc trước mặt. Dùng cúc để gợi mùa thu, đó không phải là nét mới của Đỗ Phủ.

Nhưng trước màu hoa cúc ấy mà tuôn lệ thì có lẽ chỉ có nỗi lòng Đỗ Phủ. Hoa cúc nở nhưng lòng người lại tàn đến xơ xác. Liệu có phải mùa cúc nở cũng là mùa thu nơi cố hương của tác giả, làm người lại nhớ đến những mùa thu xưa? Tức cảnh sinh tình, cúc cũng vì thế mà sinh lệ theo.

Cái tài của Đỗ Phủ là dùng được những hình ảnh, chỉ cần nhắc đến là người ta hiểu được tâm trạng mình. Trên dùng cúc, câu thơ dưới tác giả đặt hai chữ “cô chu”. Dùng hình ảnh con thuyền thôi cũng đã gợi sự lưu lạc thương nhớ lắm rồi, chữ “cô” lại làm nó đơn độc lạc lõng đến nhói lòng.

Con thuyền ở chở nỗi lòng thương nhớ, chở khát vọng quay về, nhưng dường như trước cả núi non mây mù, nó không tìm được lại phương hướng. Lòng tác giả cũng ngổn ngang bề bộn như con thuyền đơn độc kia. Bức tranh mùa thu kia mới chỉ có tĩnh mà chưa có động, mới có hoạ mà chưa có thang. Hai câu kết, có chút âm thanh vang lên như muốn đem lại sự sống:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Bóng chiều giờ đây đã buông xuống nuốt trọn cảnh vật và tâm hồn thi nhân. Còn lại trong cảnh chỉ là tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập vải. Là âm thanh của sự sống nhưng dường như lại nhỏ nhoi quá, không đủ để phá đi cái âm u của cảnh và làm ấm lại lòng người.

Trái lại, nó làm thi nhân nhớ đến những người lính nơi biên ải khi loạn nước chưa dẹp xong, chưa thể về bên gia đình. Tiếng đập vải ấy lại càng thêm chua chát. Cái lạnh lẽo của mùa thu đã bao trùm lên tất cả ,lên cả tiếng đập vải giữa trời chiều. Âm thanh ấy khép lại bài thơ, để rồi thả vào hồn người đọc những âm vang còn băn khoăn mãi.

Như vậy, cả bài thơ là hồn của cảnh và người vùng Quý Châu. Thiên nhiên dẫu có đẹp, có hùng vĩ đến đâu cũng không làm cho lòng người khởi sắc. Vẫn là một nỗi hoài niệm về chốn cũ chất chứa, như một chiếc thuyền đơn độc lẻ loi hay tiếng đập vải giữa đất trời. Ta thấy được cả một tài năng nghệ thuật trong cách tạo vế đối, cách dùng từ, đặt câu.

Đỗ Phủ đã dùng lòng mình mà trải nên thơ, đã biết cảm hứng mùa thu thành khúc thu của nhân loại. Thời gian rồi sẽ trôi, nhưng “Thu hứng” vẫn sẽ nằm ngoài sự băng hoại của nó!

-/-

Trên đây là hướng dẫn chi tiết lập dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu cùng bài văn tham khảo mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em nắm được nội dung chính của tác phẩm. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM