Trang chủ

Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Xuất bản: 23/02/2024 - Tác giả:

Hướng dẫn bài văn cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, TOP 5+ bài văn phân tích bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất dành cho học sinh.

Lập dàn ý và tham khảo TOP 5+ bài cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Đọc Tài Liệu sưu tầm và tổng hợp. Hi vọng sẽ giúp các em có thêm nguồn tư liệu tham khảo hữu ích để làm được một bài văn phân tích và cảm nhận sâu sắc nhất.

Dàn ý cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" (tác phẩm tiêu biểu, thể hiện phong cách thơ ca độc đáo của Hàn Mặc Tử).

Ví dụ: Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, ông có rất nhiều tác phẩm hay, nổi tiếng trong đó có bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ.

- Nêu khái quát về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ: Toàn bộ khung cảnh thiên nhiên, không gian thôn vĩ hiện lên khá phong phú và hấp dẫn.

2. Thân bài

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ hiện lên khá sâu sắc, chi tiết và mang những cung bậc, cảm xúc nhẹ nhàng sâu lắng của nhân vật trữ tình.

- Bài thơ đã mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm sâu sắc, mở đầu bài thơ là những câu hỏi mang những lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái.

* Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi sáng, tràn đầy sức sống

- Khu vườn dưới ánh nắng mới xanh mướt, căng tràn sức sống:

+ Ánh nắng chiếu lên hàng cau thẳng tắp

+ Màu xanh “như ngọc” của khu vườn làm cho khu vườn gợi vẻ tươi tốt, mượt mà.

+ “lá trúc chen ngang mặt chữ điền”: sự hài hòa giữa cảnh và người.

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên rõ nét qua đoạn thơ đầu, những ánh nắng của vẻ đẹp thiên nhiên, màu sắc tươi tắn cùng với những sắc thái nhẹ nhàng, sâu lắng của cảm xúc, tình cảm.

- Buổi sáng của nắng sớm đã mang những cung bậc nhẹ nhàng, cảm xúc tươi và nắng mai nở rộ trong khung cảnh của thiên nhiên, hành câu, hàng trầu, đây là biểu tượng để nói về khung cảnh của thiên nhiên, đất trời, nhẹ nhàng và sâu lắng.

- Thấy khung cảnh thiên nhiên, nhẹ nhàng, bức tranh thiên nhiên đẹp mơ mộng, với cảnh thiên nhiên của quê hương, của vườn cây, hoa lá.

- So với khung cảnh đó, khung cảnh thiên nhiên ở nơi thôn vĩ tươi tắn, hòa với khung cảnh thiên nhiên, nhẹ nhàng, cùng với hình ảnh con người cùng với khuôn mặt phúc hậu, vuông chữ điền, duyên dáng…

- Ngay trong khổ thơ đầu tác giả đã đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, ở đó có con người, cảnh vật thiên nhiên, nhẹ nhàng, sâu lắng qua hình ảnh thầm kín, chi tiết gần gũi, thể hiện qua những khung cảnh của đất nước, của nơi thôn Vĩ.

- Cảnh vật và con người nơi đây nhẹ nhàng, khung cảnh thiên nhiên đều gợi hình, gợi nhiều cảm xúc và tạo nên những khắc khoải trong tâm hồn.

+ Mây và gió vốn chung đường nhưng nay lại chia lìa đôi ngả “Gió theo lối gió mây đường mây”.
+ Hoa bắp ven sông lay nhẹ rồi rơi rụng xuống mặt nước gợi liên tưởng đến sự nổi trôi, bấp bênh của đời người
=> Thiên nhiên vẫn đẹp nhưng lại chứa đựng nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm.
+ Hình ảnh “thuyền”, “sông trăng” và nỗi trăn trở “có trở trăng về kịp tối nay” đã thể hiện sự thấp thỏm, xót xa cùng ám ảnh chia li của nhà thơ.

- Cảnh vật thiên nhiên nhẹ nhàng, sâu lắng nhẹ nhàng trong tâm hồn con người.

- Đến khổ thơ cuối, bức tranh thiên nhiên đã trở nên mờ ảo, huyền diệu hơn:

+ Màu trắng của sương bao trùm toàn bộ không gian khiến điểm nhìn trở nên mờ ảo.

+ Sự mờ ảo của không gian khiến tác giả cảm thấy mình lạc lõng, chới với, không có điểm tựa.

+ Câu hỏi tu từ cuối bài thơ thể hiện tâm trạng trăn trở, day dứt của con người khát khao yêu thương, yêu tha thiết sự sống nhưng lại bị ngăn cách bởi nghịch cảnh.

=> Bức tranh thiên nhiên của xứ Huế có sự chuyển biến qua ba khổ thơ theo hướng hư không, mờ ảo dần.

3. Kết bài

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên nhẹ nhàng, tinh tế mang nhiều cảm xúc sâu lắng, cùng với khung cảnh tươi tắn, mang nhiều sắc thái cảm xúc riêng, mang những giá trị tinh tế, cùng với không gian thiên nhiên nhẹ nhàng, mang nhiều màu sắc.

Văn mẫu cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (5 bài mẫu)

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ - Bài số 1

Hàn Mạc Tử là thi sĩ với phong cách sang tác riêng và "lạ" trong phong trào Thơ mới. Thơ ông luôn bộc lộ nỗi niềm da diết với đời, với người nhưng nhận lại là sự thờ ơ và lãnh đạm. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta nhận ra cái tôi hơi hướng "điên" với những vần thơ "suýt" vượt ra khỏi "mảnh đất hiện thực". Nhưng đối lập với những hình ảnh "điên" đó là những hình ảnh thơ rất đẹp và thi vị. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một ví dụ tiêu biểu. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế hiện lên nên thơ và tươi đẹp qua những nét vẽ tài hoa của tác giả.

"Đây thôn Vĩ Dạ" thực ra là lời đáp của nhà thơ dành cho một cô gái ở thôn Vĩ Dạ khi cô gái ấy trách sao lâu rồi không ghé về chơi. Tứ thơ được viết ra từ mạch cảm xúc chân thành và mãnh liệt đó. Huế luôn là mảnh đất gợi nhớ, gợi thương đối với những ai đã từng đặt chân qua đây. Bởi nó có một nét đẹp vừa tươi mới, vừa cổ kính, vừa gần gũi. Thiên nhiên trong bài thơ chính là chất liệu để làm tôn thêm hình ảnh con người nơi xứ Huế.

Câu thơ đầu có thể nói là câu thơ phác họa một cách rõ nét nhất bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và đầy lôi cuốn của mảnh đất kinh đô này:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Khổ thơ được cất lên bằng tiếng trách hờ của cô gái đối với nhân vật trữ tình. Một câu trách nhẹ nhàng, nhưng tình cảm và đầy sự tinh tế. Dù có trách thì người khác cũng không nỡ lòng nào để giận để hờn. Và đằng sau câu trách ấy là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng được vẽ ra. Có thể nói tác giả đã không còn đơn thuần dùng chất liệu ngôn ngữ để vẽ tranh nữa mà đã dùng cả sự rung động trong trái tim để vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp đó.

Thiên nhiên cứ thế sang rực lên, tươi tắn và khỏe khắn. Cách dùng từ "nắng mới lên" gợi cho người đọc liên tưởng đến nắng đầu ngày, nắng bình minh khoan thai, dễ chịu và nhẹ nhàng. Nắng mới lên đậu trên hàng cau xanh vút khiến người đọc mường tượng đến một khung cảnh thanh mát và trong lành.

Ở câu thơ thứ ba, tác giả dùng đại từ phiếm chỉ "vườn ai" như để hỏi người nhưng cũng là tự hỏi mình. "Vườn ai" vừa bộc lộ sự kín đáo, e dè, vừa thể hiện sự tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. "Vườn ai" thì chính trong trái tim của nhân vật trữ tình đã hiểu quá rõ, quá sâu sắc rồi. Màu xanh của khu vườn là một màu xanh rất đặc biệt và lạ kì. "Xanh như ngọc" chính là màu xanh vừa trong lành vừa tinh khôi. Từ "mướt" như làm sang bừng lên cả câu thơ, tạo sự mềm mại và uyển chuyển cho khu vườn buổi sang mai. Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ và tươi đẹp biết bao nhiêu.

Sang đến câu thơ thứ hai thì thiên nhiên từ tươi tắn chuyển sang buồn bã và vương sự chia li.

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Gió mây xưa nay vốn đi chung đường nhưng trong thơ của Hàn Mạc Tử lại là chia đôi thành hai đường xa lạ. Từ "buồn thiu" như diễn tả được tâm trạng của thiên nhiên, một sự não nề và thê lương. Đoạn cuối có thể xem là đoạn thiên nhiên thôn Vĩ trở nên huyền ảo và mơ hồ hơn. Có thể nói đó chính là sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hàn Mạc Tử. Với những nét vẽ đơn giản, nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc, Hàn Mạc Tử đã vẽ lên trước mắt người xem một bức tranh thiên nhiên xứ huế vừa tươi mới, vừa thơ mộng, vừa u sầu. Có lẽ đó chính là nét đặc trưng của Huế.

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ - Bài số 2

Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công những cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui nỗi buồn, sự cô đơn, tuyệt vọng…. Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn tả bằng thơ. Vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà còn là tiếng nói của trái tim về một mối tình dường như vô vọng. Bằng tâm hồn tinh tế của một người nghệ sĩ, cùng với phong cách thơ độc đáo, Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi miêu tả cảnh vật Thôn Vĩ Dạ và gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình vào thơ. Đọc Đây thôn Vĩ Dạ, người đọc sẽ thấy rõ được điều đó.

Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, bài thơ chính là phương tiện quan trọng để biểu đạt cảm xúc, chỉ có cảm xúc chân thật mới là cơ sở để làm nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Cảm xúc mãnh liệt trong bài thơ có sức ám ảnh trái tim người đọc mang trong mình sứ mệnh cao cả của người cầm bút. Khi sáng tạo nghệ thuật Hàn Mặc Tử đã không ngừng tìm tòi xây dựng phong cách, hướng đi cho riêng mình. Với những đóng góp đó, ông đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong nền văn học nước nhà, cũng chính là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, là một hiện tượng thơ rất lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa thể xác và tâm hồn vì những đau đớn vì bệnh tật nên ông luôn khát khao sống, khát khao được giao hòa, giao cảm với cuộc đời. Và tiêu biểu cho phong cách thơ của Hàn Mặc Tử có thể kể đến Đây thôn Vĩ Dạ, đây là bài thơ được sáng tác năm 1938 lấy cảm hứng từ một mối tình của Hàn Mặc Tử với cô gái Huế tên là Hoàng Cúc, tác phẩm được in trong tập “thơ Điên” sau đó đổi thành “đau thương” xuất bản năm 1940. Đây là một bài thơ rất hay viết về thiên nhiên xứ Huế và ẩn sâu trong đó là tâm trạng bâng khuâng, một khát khao hạnh phúc của thi sĩ đa tình.

Mở đầu bài thơ là cảnh vật và con người thôn Vĩ, được gọi về từ những hoài niệm xa xăm và cũng tha thiết nhớ mong của tác giả

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Đoạn thơ được mở đầu bằng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi đó có lẽ là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân vào cô gái Huế để hờn dỗi, nhưng ẩn giấu đằng sau ấy là cả một lời mời rất chân thành, nhà thơ sử dụng từ “chơi” chứ không sử dụng từ “thăm”, bởi nếu sử dụng từ thăm thì cấu trúc của câu thơ không thay đổi, nhưng nó trở nên khách sáo, sang trọng, còn từ “chơi” gợi lên sự thân mật, gần gũi. Mặt khác câu hỏi tu từ này cũng là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách chính mình. Cảnh Huế đẹp vậy mà sao anh không về chơi? Đó là một câu hỏi lớn, khắc khoải bởi giờ đây trở về Huế chỉ còn là một niềm khát khao. Có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên ông chỉ có thể trở về thôn Vĩ trong tâm tưởng, thế nhưng dù là trong tâm tưởng thì cảnh thiên nhiên xứ Huế vẫn rất đẹp và lung linh:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Bức tranh phong thủy xinh xắn và thơ mộng được hiện lên với vẻ đẹp lộng lẫy, tinh khôi. Cảnh sắc được chiêm ngưỡng từ xa đến gần “nhìn nắng hang cau nắng mới lên” điệp từ “nắng” đã tái hiện lên trước mặt người đọc một khung cảnh đầy ánh sáng, nhắc đến thôn Vĩ hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ đó chính là những hàng cau với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Những hàng cau đó mang lại vẻ đẹp đặc trưng cho thôn Vĩ, cau còn lại là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam với phong tục ăn trầu từ ngàn đời. Trong thơ của Nguyễn Bính có câu:

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng”

Ở đây trong thơ của Hàn Mặc Tử hình ảnh hàng cau còn có chi tiết rất khó quên, đó là hình ảnh của hàng cau trong nắng mới, tán cau, thân cau đều được tắm mình trong nắng sớm, những giọt sương đêm còn đọng lại trở nên lấp lánh, đầy sức sống. Vườn cây thôn Vĩ xanh tốt đến mức khách ở xa về cũng phải trầm trồ:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

"Vườn ai" không xác định nhưng có lẽ là vườn của cô gái Huế người mà nhà thơ vẫn luôn đợi mong, tính từ “mướt” được sử dụng rất tinh tế, diễn tả sức sống của cảnh vật “xanh như ngọc” tạo được sự quyến rũ, đồng thời nó còn tạo cho thiên nhiên nơi đây sự rạo rực trẻ trung và góp phần làm cho cảnh sắc trở nên tươi đẹp hơn, hoàn hảo hơn khi có mặt của con người. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền", Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trước một loại cây được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của nhà thơ bất chợt hiện lên mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc, lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, phúc hậu… Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên của con người, đồng thời qua đó người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của sự kín đáo, e ấp đầy thiếu nữ rất Huế.

Nếu ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan, yêu đời thì đến khổ thơ thứ hai đã có sự đổi khác, đó chính là sự mặc cảm về sự chia lìa xa cách, đến khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã độc tả cảnh trời mây sông nước có một chút hoài niệm, bâng khuâng:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Đó là hình ảnh của dòng sông Hương đang lững lờ chảy mà Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi là điệu slow tình cảm dành cho xứ Huế. Hai bên bờ là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng, lay động thật ngang trái và chớ trêu khi ở trên cao là "gió theo lối gió mây đường mây". Trong thực tế ta thấy rằng gió có thổi thì mây mới có thể bay. Đây là hai sự vật không thể tách rời, nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử hai chữ chia lìa vẫn đến, nó đến với cả những thứ tưởng chừng như không thể, dòng nước buồn thiu như mang trong mình một tâm trạng thiên cổ. Phải chăng đó là lúc tâm cảnh đã hướng vào ngoại cảnh bao phủ khắp cảnh vật:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Vẫn là dòng sông Hương, là xứ Huế thơ mộng nhưng không còn là nắng, không còn trời xanh mà trước mắt người đọc không gian tràn ngập ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu thơ mang đầy màu sắc đặc trưng siêu thực của phương tây. “Thuyền ai?” phải là thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ khao khát chờ mong, “tối nay” phải chăng là giới hạn cuối cùng khi nhà thơ đang chạy đua với thời gian, với sự mong ngóng đầy khắc khoải. “Có chở trăng về kịp tối nay?” nhà thơ như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp thì nhà thơ sẽ vĩnh viễn chìm vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng. Nỗi hoài nghi, khắc khoải của nhân vật trữ tình được tô đậm hơn nhịp thơ 3/ 4 cùng ngữ điệu “đường xa” được lặp đi lặp lại thể hiện sự gấp gáp vội vàng:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Từ “mơ” nằm ở đầu câu giống như trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết, mong mãi không được nên có lẽ nhà thơ phải mơ cho bớt nỗi cô đơn. Khách đường xa với màu áo trắng khiến nhà thơ choáng ngợp, nhìn không ra màu trắng, tưởng như bình thường nhưng lại gợi lên sự khác thường nó không chỉ dùng để gợi tả cảm xúc mà còn gợi cả cảm giác “trắng quá” là sự cực về màu sắc, tượng trưng cho vẻ đẹp tuyệt bích. Nhân vật “em” xuất hiện cùng với sắc “trắng quá” khiến cho câu thơ trở nên chan chứa, cảm xúc dường như con người ta càng hi vọng sẽ dễ rơi vào thất vọng, bởi những thứ nằm ngoài tầm với.

Đến hai câu thơ cuối của bài, nhà thơ đã lý giải cho việc nhìn xa ấy

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Ở đây chính là thế giới hiện thực đầy đau đớn, đối lập với thế giới ngoài kia sự sống sương khói mờ nhân ảnh là thế giới ảo ảnh của những thứ ám ảnh bởi chính nhà thơ đang cầm chiếc vé đợi tàu đi vào cõi chết. Và trong những giây phút tuyệt vọng nhà thơ lại mong tìm được hơi ấm tình người, lại phải cất lên một câu hỏi đầy hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn mang một nỗi buồn vô vọng của nhà thơ. Với những biện pháp tu từ, nhân hóa so sánh, thủ pháp liên tưởng cùng với câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã khắc họa trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn sâu trong đó chính là tâm tình của tác giả.

Bài thơ đã khép lại nhưng mỗi lần đọc lại tác phẩm ta vẫn như trông thấy được sự khắc khoải đau đớn của nhà thơ ẩn trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt bích của thôn Vĩ Dạ, có lẽ đó chính là lý do vì sao dù ra đời đã lâu nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên được giá trị, vẫn có sức hấp dẫn với bạn đọc nhiều thế hệ.

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ - Bài số 3

Hoài Thanh - Hoài Chân đã nhận xét về hồn thơ Hàn Mặc Tử là một "vườn thơ rộng rinh không bờ bến", mang theo cảm giác "càng đi xa càng ớn lạnh", ớn lạnh bởi thơ chính là tiếng khóc của người thơ và chỉ "thét lên bằng thơ". Tiếng khóc ấy đã được nhà thơ gửi gắm vào trong tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”, dẫu rằng cảnh thiên nhiên trong bài thơ thật đẹp, nhưng lại được nỗi buồn da diết, bâng khuâng.

Cảm hứng để nhà thơ cất bút viết nên bài thơ này đó là nhờ tấm bưu thiếp và những lời thăm hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc. Có thể xem đây là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người, từ đó giúp ta cảm nhận được tâm trạng của nhà thơ trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” hiện ra qua bức tranh thôn Vĩ lúc ban mai. Bài thơ đã mở ra bức tranh ấy bằng một câu hỏi đầy gợi mở, dẫn dắt người đọc:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi vang lên vừa như lời trách móc, lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ, nhưng cũng lại như lời tự vấn bản thân vì sao lại chưa về thăm thôn Vĩ. Phải chăng, đây là ao ước thầm kín, là niềm khát khao được trở về của nhà thơ, để thăm lại cảnh cũ, người xưa? Bài thơ tiếp tục mở ra cho chúng ta một khung cảnh thiên nhiên đẹp tinh khôi, ngỡ ngàng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên” đã gợi lên sắc nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. “Mướt quá” là tính từ đầy gợi cảm, mượt mà óng ánh đầy xuân sắc. Sự kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như một lời tự thán, ca ngợi cái đẹp tột cùng. Nhà thơ đã so sánh màu xanh với ngọc, diễn tả được sự xanh trong, vừa có màu vừa có ánh. Vườn thôn Vĩ lúc này như một viên ngọc rờn rợn sắc xanh, tỏa ánh sáng vào ban mai. Lúc này, một bóng hình đẹp bỗng xuất hiện:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”:

“Mặt chữ điền” là mặt của một chàng trai? Hay đó là gương mặt của một cô gái? Dẫu sao, ta vẫn có thể cảm nhận được đó là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành. Nét đẹp ấy được “lá trúc che ngang”, lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ giàu chất tạo hình, đó là sự hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên xứ Huế (hàng cau, lá trúc...) và bóng hình của con người (mặt chữ điền) trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Ta có thể cảm nhận được cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Bức tranh thiên nhiên dẫu đẹp nhưng không thể phủ nhận rằng ẩn sau đó là một tâm trạng nuối tiếc, một nỗi niềm tha thiết được giao cảm với cái đẹp, với thiên nhiên và con người thôn Vĩ. Không chỉ dừng lại ở đó, bức tranh thôn Vĩ lại một lần nữa hiện lên, nhưng lúc này, nó không còn là một khu vườn ban mai nữa, mà lại là bức tranh sông nước trong đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Điểm nhìn thay đổi từ ban mai sang đêm tối, từ cảnh vườn thôn đến sông trăng, từ khung cảnh hiện thực sang không khí hư hư thực thực đầy huyền ảo. Ta cảm nhận được sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu. Hình ảnh “gió theo lối gió, mây đường mây” vận động trái với tự nhiên. Nhìn theo lô gích hiện thực thì mây và gió không thể tách rời, đây là sự tách rời phi lí và ngang trái. Có thể thấy, sự vật được nhìn nhận không phải bằng cái nhìn thị giác mà bằng mặc cảm chia lìa. Đồng thời nhà thơ còn nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” để nhấn mạnh nỗi buồn. “Hoa bắp lay” thể hiện sự phiêu tán, sự ra đi, lưu luyến vô vọng. Từ những hình ảnh ấy, ta nhận ra chủ thể trữ tình cảm thức về thân phận bị bỏ rơi. Nhưng sự chia lìa còn được thể hiện ở nhịp điệu khác thường. Một câu thơ thất ngôn bình thường sẽ có nhịp 2/2/3, nhưng câu thơ này lại sử dụng nhịp 4/3. Phải chăng mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lìa xa nhau. Hình ảnh và nhịp điệu quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đau buồn.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời. Mặc cảm chia lìa thấm đẫm vào vạn vật, đó là tiếng khóc cho thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình. Nhưng đồng thời, bởi sự chia lìa ấy, mà khát khao níu giữ hiện lên rõ rệt. Bởi chỉ một mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi của những “mây”, “gió”... Từ “kịp” thì lại thể hiện sự phấp phỏng, lo âu, khát khao được gắn bó, được níu giữ. Đó là niềm thiết tha gắn bó, tha thiết đến đau thương, mãnh liệt mà vô vọng. Bức tranh thiên nhiên sông nước hiện ra dưới đêm trăng thật huyền ảo, những hình ảnh trong đêm giúp ta cảm nhận được tâm trạng hoài nghi, mong ngóng, đồng thời cũng thể hiện khát vọng được giao cảm với cuộc đời trần thế của nhà thơ. Sang đến khổ thơ thứ ba, bức tranh ngoại cảnh bây giờ trở nên hư ảo, từ “mơ” mở ra như báo hiệu một trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Từ “mơ” mở ra như báo hiệu một trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng. Điệp từ “khách đường xa” nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ, một hình bóng đẹp nhưng xa vời đến nỗi không thể nào gặp được:

“Áo em trắng quá nhìn không ra”

Vì sao lại là “trắng quá nhìn không ra”? Tác giả đã cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ và bất ngờ. Biện pháp hoán dụ khiến cho màu sắc không còn là màu sắc thực nữa mà là màu của tâm tưởng:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

“Ở đây” trong hiện thực là trại phong, nơi tác giả bị cách li với thế giới bên ngoài. Lớp từ “sương khói”, “mờ” đã nhấn mạnh sự nhạt nhòa, hư ảo, hư thực vì đó là giấc mộng của tác giả, mong được liên kết với cuộc đời nhưng không thể. Tất cả khiến cho ta cảm nhận được bi kịch hiện thực, dường như nhà thơ đang bị lưu đày, cách xa thế giới ngoài kia:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần cho thấy tiếng gọi tha thiết đầy khát vọng nhưng “khách đường xa” cứ chập chờn rồi khuất bóng. Đồng thời, câu hỏi tu từ khiến ta cảm nhận được tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi. Thông qua khổ thơ này, ta nhận ra được sự hoài nghi của tác giả, về nỗi khát khao được sống và được yêu thương, cũng như có thể tận hưởng hết thảy cái đẹp trên đời.

Bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh toàn bích, nó ẩn chứa trong đó tất cả tình yêu, niềm say mê cuộc sống của Hàn Mặc Tử. Dẫu bao nhiêu năm trôi qua, chắc chắn bài thơ sẽ vẫn mãi sống trong lòng những người yêu thơ, yêu cái đẹp.

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ - Bài số 4

"Đây thôn Vĩ Dạ" ra đời ngẫu nhiên trong một lần Hàn Mặc Tử nhận được bức thư của nàng thơ Hoàng Thị Kim Cúc xưa gửi cho thi sĩ trong những ngày cuối cùng của đời người bên giường bệnh. Bức thư kèm theo một bức ảnh chụp cảnh non nước mây trời xứ Huế. Quá khứ về những ngày ở Huế ùa về, Hàn Mặc Tử chợt xúc động và viết lên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Có lẽ, đó là lí do bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ trong bài thơ lại đầy sắc, hương và tình đến thế.

Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam, ít ai chịu nỗi đau đời nhiều như Hàn Mặc Tử. Cuộc đời Hàn bị ruồng bỏ nơi bãi bồi, chòi gác. Người chịu căn bệnh phong hành hạ thể xác tới cuối đời. Đưa nỗi đau vào các tác phẩm, Hàn Mặc Tử trở thành đỉnh cao thơ Mới với cái "tôi" hoàn toàn "loạn" và dị biệt. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" tiêu biểu cho cái tôi kì dị ấy. Thế nên mới có lời nhận xét thế này "Thơ Hàn Mặc Tử thường có bước cóc nhảy về ý, ý nọ cách ý kia một khoảng rất xa, thoạt nhìn tưởng đầu Ngô mình Sở...". Chỉ riêng cách thể hiện bức tranh thiên nhiên trong bài thơ, ta đã thấy những điểm đó. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được thể hiện tập trung chủ yếu trong hai khổ thơ đầu tiên. Hàn Mặc Tử đã khắc họa hai bức tranh với hai gam màu khác nhau, một tươi sáng đầy sức sống; một thấm đẫm lạc lõng, cô đơn, dự cảm bất an.

Trước hết, bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ đầy sức sống gợi về từ quá khứ tươi đẹp thời tuổi trẻ đầy niềm yêu sống và hoài bão của Hàn Mặc Tử những ngày ở Huế. Thuở đó, khi anh thi sĩ lắm mộng mơ phải lòng cô gái Huế Hoàng Thị Kim Cúc, tâm hồn người đang yêu khi nào chẳng phơi phới. Vậy nên Vĩ Dạ sống trong lòng nhà thơ mới tràn trề nhựa sống như thế:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

Vĩ Dạ nhiều cau. Những hàng cau xanh bát ngát của buổi sớm mai cộng hưởng ánh nắng vàng rực và sắc non tơ mơn mởn của vườn cây trái Vĩ Dạ sao mà khó quên đến thế. Mỗi sớm, mặt trời rọi ánh dương xuống xuyên qua kẽ lá cau dài đổ thành giàn đan xuống mặt đất. Những thân cau cao, thẳng, nhiều đốt. Nắng rọi xuống thân cau in bóng một cây thước khổng lồ đang cần mẫn đo đạc mực nắng. Ánh nắng chiếu xuống nhưng lại có sắc "mới lên". Một câu thơ có tới hai từ nắng. Hàn Mặc Tử đã lấy màu nắng để gột rửa sắc xanh ánh lên màu ngọc bích. Có ai không yêu một Vĩ Dạ đầy sống động như thế, sống động tới độ có gương mặt chữ điền nào đó cứ say đắm ngắm nghía quên mọi thời gian và không gian?

"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"

Bức tranh thiên nhiên bỗng "cóc nhảy" đến không gian trời mây sông nước với những tình cảm đứt gãy và chia lìa. Vừa mới vườn non tơ mơn mởn đây thôi mà giờ chỉ có nước "buồn", hoa bắp cô liêu, "thuyền ai" bất định... Vừa mới đây thôi còn đằm đằm ấm ấm ánh mắt ai đó say đắm cảnh sớm mai. Nay bỗng chốc thấy bóng người đang chới với một "bến sông" mỏi mòn chờ "thuyền ai" đem ánh trăng hạnh phúc về. Bức tranh có sông, nước, hoa, thuyền, bến, trăng tràn đầy ấy sao chỉ có tiếng thở than thiu nghỉu, dự cảm không "kịp".

Ngoài tiếng buồn thở than, ta thấy bức tranh như đang bị cắt rời, lìa bỏ nhau. Gió thổi mây bay. Thế mà gió "lối gió", mây lại "đường mây". Thuyền và bến luôn luôn đi liền với nhau. Thuyền cần bến đậu. Bến có thuyền mới là bến. Vậy mà thi sĩ không rõ thuyền ai, thuyền đâu. Một bức tranh chỉ thấy sự cô liêu và đứt gãy. Thế nhưng, có một điều chúng ta thừa hiểu rằng người càng lo sợ, càng bất an thì càng chứng tỏ tình yêu vô bờ bến với thiên nhiên Vĩ Dạ.

Tóm lại, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nhiều nghệ thuật khác nhau để thể hiện bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ như sáng tạo ngôn từ, gieo vần, bắt âm, từ dùng giàu sắc thái, giọng thơ linh hoạt. Qua đó, nhà thơ nói lên tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu nặng, thiết tha.

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ - Bài số 5

Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông là tác giả tiêu biểu cho "trường phái thơ loạn" xa lạ với đời thực. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín…

Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ có thể là câu tự vấn. Từ "anh" có thể là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, mang tính chất giãi bày, thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Giọng thơ đượm buồn có pha chút ân hận. Cảnh vườn cây đẹp trong nắng ban mai với cành lá mơn mởn ướt sương, ánh như ngọc được miêu tả trực tiếp, qua những hình ảnh cụ thể, sinh động:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Rồi con người xuất hiện:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

khiến cho thiên nhiên bỗng trở nên sinh động hẳn lên. Thiên nhiên như được thổi thêm một luồng sinh khí, tạo nên nét đẹp hài hòa trong giá trị tạo hình. Ở đây, câu thơ vừa miêu tả khuôn mặt chữ điền vuông vức đầy đặn ẩn chứa bên trong cảm giác hiền lành đã bị trúc trong vườn che khuất (cảnh thực) vừa như nói đến một trở lực ngăn cách tình người.

Sau vườn cây xứ Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời, mây, sông, nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh một dòng sông được tưới đẫm ánh trăng với con thuyền cũng đầy ắp ánh trăng. Nhưng tất cả đều thấm đượm nỗi buồn. Cách miêu tả thể hiện trạng thái ảo mộng của tâm hồn nhà thơ. Nếu như ở khổ thơ đầu, nỗi buồn chỉ lộ rõ ở một câu thì ở khổ thơ này, dường như nỗi buồn giăng trải ra ở khắp cả khổ thơ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Câu thơ như xẻ ra làm hai diễn tả sự phân cách, ly tán của thiên nhiên nhưng lại gợi ra sự chia ly của lòng người. Nó như lưỡi dao rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị chia lìa.

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Nỗi buồn của thi nhân đã lan trải ra khắp không gian theo quy luật tâm lý "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" (Nguyễn Du).

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ nên không khí hư ảo. Tâm trạng mộng mơ của thi nhân dường như đã cảm nhận được tất cả: sông trăng, bến trăng, thuyền chở trăng. Khổ thơ cho thấy con người nhà thơ rất cô đơn, đang khao khát được ai đó chia sẻ, tâm sự. Có chở trăng về kịp tối nay là một câu hỏi vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đang rời xa, biết có khi nào quay trở lại.

Tiếp tục nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong không gian bao la của trời, mây, sông, nước đã thấm đẫm ánh trăng. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Vẫn ở trong mộng ảo, vì vậy cảnh và người ở đây đều hư hư, thực thực. Đối với thi nhân thì tất cả chỉ là sự cảm nhận. Nhà thơ mơ thấy một khách đường xa, cảm nhận rõ một bóng hình người con gái Huế thơ mộng song không thể nắm bắt được, thoắt ẩn, thoắt hiện: "Áo em trắng quá nhìn không ra".

Sự hụt hẫng đến cao độ, nhà thơ muốn bấu víu, cầm nắm mà không được vì cảnh đầy màu hư ảo lẫn khói mây:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Bóng hình của giai nhân mờ ảo trong sương, nhưng cũng có thể đó là ẩn ý của người viết. Phải chăng đây là biểu tượng của cái "không đi đến đâu" trong tình yêu của Hàn Mặc Tử:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Một câu hỏi không rõ ngôi thứ, không cần sự trả lời nhưng người đọc cũng hiểu được ý nghĩa của nó, vì những khổ thơ đầu của bài thơ đã xuất hiện những cụm đại từ vườn ai, thuyền ai và những câu hỏi như thế:

- Sao anh không về chơi thôn Vĩ

- Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm trạng mong mỏi, khát khao bao nhiêu thì sự day dứt, buồn đau cũng tăng lên bấy nhiêu.

Tóm lại, cảnh trong Đây thôn Vĩ Dạ là cảnh của vườn quê sông nước xứ Huế. Cảnh đẹp, giàu sức sống, thơ mộng nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết. Cảnh ấy như là sự thể hiện biện chứng tâm hồn của một nghệ sĩ tài hoa nhưng đa tình, đa cảm. Mỗi khổ thơ là một câu hỏi, như một nỗi buồn day dứt lòng người. Vì vậy âm hưởng chung của bài thơ là buồn nhưng không bi lụy. Bài thơ thể hiện một tâm trạng rất thật của nhà thơ và một tình yêu xứ Huế thiết tha. Những chi tiết hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu tứ của bài thơ đều được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình.

-/-

Trên đây là một số gợi ý, mẫu dàn ý và 5+ bài văn mẫu cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Hi vọng, bài viết đã giúp các em đã có những ý văn hay cho bài phân tích, cảm nhận của mình. Tham khảo thêm các bài văn hay khác tại mục tài liệu Văn mẫu 11 do Đọc Tài Liệu sưu tầm và biên soạn để tự rèn luyện kỹ năng làm văn. Chúc các em học tốt!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM