Trang chủ

Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo

Xuất bản: 16/06/2023 - Tác giả:

Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo với dàn ý chi tiết và tuyển chọn văn mẫu giúp học sinh cảm nhận cuộc sống và tình cảm của người lính.

Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo

A. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về bài thơ "Lính đảo hát tình ca trên biển đảo".

B. Thân bài

- Cuộc sống khó khăn của người lính đảo phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt.

- Sự lạc quan và kiên cường của người lính đối mặt với khó khăn.

- Sự đối lập giữa khắc nghiệt của thiên nhiên và tâm hồn lạc quan của người lính.

- Những ước mơ về tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước của người lính.

C. Kết bài

- Tổng kết ý nghĩa của bài thơ và tầm quan trọng của người lính đảo.

Tham khảo thêm: Phân tích bài Lính đảo hát tình ca trên đảo

Văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo

Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã miêu tả chân thực nhưng cũng đầy hóm hỉnh cuộc sống của những người lính trên đảo. Dưới đây là một số bài văn mẫu hay giúp học sinh cảm nhận được hết cái hay của nghệ thuật và cảm nhận được tình yêu nước của những người lính đảo.

Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo - Mẫu 1

“Ở Việt nam có bao nhiêu bông hoa đẹp, là có bấy nhiêu anh hùng”. Ta đã từng bắt gặp những bông hoa trên “chiếc xe không kính” qua cảm nhận của Phạm Tiến Duật, hay là những bông hoa nơi rừng sâu qua những vần thơ của Chính Hữu,... Và nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã đem đến cho văn học một bông hoa mới - “Lính đảo hát tình ca trên biển đảo”, một bông hoa kiên cường mọc giữa biển đảo đất trời.

Bài thơ “Lính đảo hát tình ca trên đảo” được viết vào năm 1982, in trong tập “Bên cửa sổ máy bay”. Bài thơ đã tái hiện lại cuộc sống của những người lính đảo. Họ tuy thiếu thốn về vật chất nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng trẻ trung, lạc quan, dũng cảm, giàu tình yêu đời và yêu đất nước.

Mở đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa đã đưa người đọc đến với buổi diễn văn nghệ rất đặc biệt:

“Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà

Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa”

Nhắc tới văn nghệ, người ta thường nghĩ đến một thế giới đắm chìm trong sắc màu và nghệ thuật. Nhưng với những chiến sĩ Trường Sơn thì lại khác, đạo cụ trang hoàng cho buổi diễn văn nghệ của họ là “đá san hô” và “vài tấm tôn”. Họ đứng ca hát trên những mỏm đá san hô đơn sơ, và ngăn cách sân khấu bằng những tấm tôn tạm bợ, mộc mạc. Họ biết mình thiếu thốn về vật chất là thế, nên gửi lời dặn dò cảm thông rằng “đừng trách”. “Gió Trường Sa” như tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt và dữ dội nơi biển đảo xa xôi. Giữa biển trời mênh mông, tiếng hát của người nghệ sĩ như hòa vào gió biển, biến chốn hoang sơ khắc nghiệt ấy thành một “sân khấu” đầy chất biển.

Những khó khăn của họ đâu chỉ là sự thiếu thốn về vật chất mà còn bao gồm thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội tưởng:

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng

Đá củ đậu bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Thật đúng là một Trường Sa đầy nắng và gió, cam go và thử thách bủa vây. Vạn vật của thiên như đang tác động mạnh vào cơ thể của các anh. Gió làm rát mặt, rát da. Gió còn làm cho những hòn Đảo thay hình đổi dáng. Từ “luôn” chỉ sự thường xuyên, ngày nào cũng có. Thế mới thấy, ngày nào những người lính cũng phải phơi mình trước Trường Sơn khắc nghiệt. Hình ảnh “Sỏi cát bay” đã được nhà thơ so sánh như “lũ chim hoang”, gợi tả khung cảnh như hiện rõ trước mắt người đọc. Gió mạnh đến mức cuốn bay sỏi cát hòa cùng với không khí và cảnh vật, làm cho mọi thứ trở nên mịt mù. Câu thơ như khắc họa một bức tranh thiên nhiên dữ dội khiến người đọc phải giật mình sợ hãi. Trần Đăng Khoa đã thật tài hoa khi vận dụng nhiều giác quan cơ thể để cảm nhận về gió đảo Trường Sơn, quả là một đôi mắt tinh tường ít ai có được.

Đối lập với thiên nhiên dữ dội ấy, tâm hồn của họ vẫn thật lạc quan yêu đời. Vế thơ “Cứ mặc nó!” được tách ra bởi dấu chấm than trong dòng thơ, như một lời trò chuyện, một lời động viên mà những người lính dành cho nhau. Họ gọi nhau là những “chiến hữu”, những người đồng đội luôn sát cánh bên nhau để hoàn thành nhiệm vụ Tổ Quốc. Hai từ “bắt đầu” thể hiện sự dứt khoát và kiên quyết của người lính, dường như họ đã chuẩn bị hành trang đầy đủ với một tình yêu nước cao cả, nên họ không hề lo sợ gì trước những “trò đùa” của thiên nhiên.

Tới đây, “mây nước đã mở màn”, một sân khấu như hiện ra giữa mây nước, sóng rẽ cho sân khấu làm tâm điểm:

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau”

Sân khấu cuối cùng cũng đã đến lúc bừng sáng. Những người lính hiện lên với hàng loạt hình ảnh độc đáo, tếu táo: “đầu trọc”, “trọc tếu” và họ xuất thân từ nhiều độ tuổi khác nhau từ trẻ tới già. Đi cùng với những hình ảnh đáng yêu dí dỏm ấy, nhà thơ đã sử dụng các từ láy gợi hình, gợi cảm “lô nhô”, “ngổn ngang” làm tăng tính sinh động cho câu thơ. Nước ngọt được xem là “hiếm” ở nơi đảo xa. Cách nói “không lẽ đành” thể hiện sự trêu đùa nhưng cũng như một lời thừa nhận đầy ngang trái: nước ngọt đã ít, giờ còn đem đi gội đầu? Sự thật là những người lính đã cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong hoạt động vệ sinh cá nhân. Câu thơ hiện lên với khung cảnh như đầy ắp tiếng cười trước hình hài và dáng vẻ dí dỏm của người lính. Nhưng ẩn sâu trong câu thơ ấy, hình ảnh một Trường Sơn khắc nghiệt, dữ dội khiến chúng ta không khỏi đau xót về thân hình người lính.

“Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ

Là bà con xa với bụt ốc đây mà

Thôi lặng yên nghe. Có gì đang sóng sánh

Hoá ra là sư cụ hát tình ca”

Không chỉ là những người lính với cái đầu trọc, họ còn gọi nhau đầy dí dỏm là “sư cụ”, “bà con xa với bụt ốc”. Tiếng cười giòn tan như vang lên trong mỗi vần thơ. Đang đắm chìm trong niềm vui ấy, tiếng cười bỗng đột ngột chuyển thành sự bí ẩn và tò mò “Có gì đang sóng sánh”. “Hóa ra” xuất hiện ở đầu câu thơ như một phát hiện đầy bất ngờ và lý thú của những người lính. Bài hát bắt đầu cất lên:

“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển

Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi

Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa

Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”

Nói đến giai điệu âm nhạc, chúng ta sẽ nghĩ đến những nốt nhạc trầm bổng. Nhưng với những người lính đảo, âm nhạc của họ được tạo nên bởi tiếng sóng biển rầm rì. Gió biển và tiếng nói ngang tàng của người lính hòa trộn vào nhau đã làm nên một khúc ca mặn mà nơi biển cả. Lời ca ấy không là những câu hát vô định, đó là những lời thương, lời nhớ sâu nặng.

Màn đêm giờ đã buông xuống trong những vần thơ của Trần Đăng Khoa, chỉ còn tiếng hát, và nỗi nhớ nồng nàn dành cho “em” như kéo dài bất tận:

“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình"

Tuổi trẻ thường gắn với tình yêu và những ước mơ. Nhưng với những người chiến sĩ, tình yêu đôi lứa lại quá xa vời. Anh mơ về những đêm trăng sáng hiền hòa được cùng em đi dạo, gương mặt em dịu dàng xinh tươi trong mắt anh và đôi tay ta đan cài ngọt ngào biết mấy. Hành trang mà người lính mang theo nơi biển đảo, một bên là tình yêu Tổ quốc, một bên là tình yêu dành cho em. Hình tượng người yêu - đất nước, quê hương đã không còn xa lạ trong văn học:

“Anh yêu em như yêu đất nước”

(Nhớ - Nguyễn Đình Thi)

Chế Lan Viên đã từng viết về tình yêu đắm say và nồng nàn, rất riêng tư nhưng cũng thật lý tưởng, rất chung:

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)

Trần Đăng Khoa đã đi sâu vào khai thác khía cạnh tình yêu của người lính, nhưng không hề làm mất đi vẻ hào hùng, uy nghiêm của các anh. Ngược lại, những vần thơ ấy còn làm cho ta thêm yêu và trân trọng tâm hồn sâu sắc của họ biết bao!

“Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?

Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được

Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?

Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”

Nhưng thật trớ trêu thay, tất cả chỉ là mộng ảo. Không có em, không có trăng hay cái nắm tay nào cả. Chỉ có anh và tiếng sóng vỗ rì rào vọng lại. “Có trời mà biết được” như một sự hụt hẫng, pha chút buồn tủi và thất vọng vì sẽ chẳng có “bóng dáng” nào đến với họ. Khung cảnh hiện ra chỉ toàn mây nước, âm u, bao quanh lấy anh và những mộng tưởng ấy. Những câu ca mặn mà tình yêu và biển trời được cất lên từ đáy lòng:

“Nào hát lên cho mấy nước biết

Rằng chúng ta là những con người

Yêu em thủy chung hơn muối mặn

Dù thư tình chưa biết gửi cho ai...

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

Phép điệp “Nào hát lên…rằng…” như gợi lên sự cao trào và ngân vang của những câu hát, như một bản tình ca thời đại của những người lính. Dù anh chưa biết em là ai, không biết em đến từ phương trời nào, thư tình chưa biết sẽ gửi trao về đâu, nhưng những chàng trai ấy như cam đoan với biển đảo và Tổ quốc về lòng chung thủy dành cho em. Một tình yêu mặn mà hơn muối biển, đây là một cách so sánh độc đáo và thú vị của tác giả, thể hiện một tình yêu lớn lao, son sắt của những chàng trai nơi Trường Sa nắng gió.

Tình yêu lứa đôi giờ như hòa quyện với tình yêu Tổ quốc lấp lánh nơi trái tim người chiến sĩ. Tình yêu ấy sẽ là ánh sáng dẫn đường cho họ, họ sẽ đứng nơi đây, một lòng một dạ bảo vệ khoảng trời Việt Nam.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”

Khúc ca như đạt đến độ cao trào rực rỡ. Từ láy “chót vót” chỉ âm hưởng cao nhất của ca khúc. Nhưng từ “Bỗng” rơi xuống dòng thơ như một sự giật mình, thảng thốt. Với những chàng trai trẻ, những hòn đá nhấp nhô ở bời biển cũng trở thành những khán giả say sưa thưởng thức âm nhạc. Những người lính quả thật rất cứng cỏi, mạnh mẽ. Họ đã đi theo tiếng gọi Tổ quốc, ghìm chặt bao tâm tư, ước mơ riêng tư của bản thân để bảo vệ bình yêu cho triệu triệu mái nhà.

Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh và phép tương phản độc đáo, bài thơ “Lính đảo hát tình ca trên đảo” là một bài ca hào hùng về người chiến sĩ Trường Sa. Cuộc sống của họ dù khó khăn, vất vả, thiếu thốn nhưng điều hiện lên rõ nhất vẫn là tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ.

Tác phẩm khép lại nhưng những giai điệu thì vẫn còn vang vọng. “Lính đảo hát tình ca trên đảo” mãi là khúc ca bất diệt về vẻ đẹp con người Việt Nam nơi hải đảo.

Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo - Mẫu 2

“…sức mạnh thơ ca luôn là một cái gì đó bí ẩn đối với các tác giả. Nó không hẳn phụ thuộc vào kiến thức uyên thâm, vào kỹ thuật lắt léo, vào tư tưởng tiến bộ. Nhiều khi nó chinh phục độc giả chỉ bởi một thứ duyên riêng rất khó ước đoán”. Quả thực vậy, sức mạnh linh diệu của thơ ca, từ xưa tới nay, vốn nằm ở chất trữ tình tự nhiên, đằm thắm. Không cầu kì gọt đẽo, không viết về những điều xa xôi, nhiều bài thơ đi vào lòng độc giả bởi sự chân thành, mộc mạc. “Lính đảo hát tình ca trên đảo” của nhà thơ Trần Đăng Khoa chính là một bài thơ như thế. Tác phẩm là khúc ca ân tình của những chiến sĩ Trường Sa, cho ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp ở những con người nơi đầu sóng ngọn gió.

Khi thời đại của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn qua đi, đề tài người lính vẫn được rất nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác. Tuy nhiên, góc nhìn về người lính đã thay đổi. Hình ảnh những người chiến sĩ được thể hiện dưới nhiều góc độ sâu sắc hơn, chiều sâu tâm hồn với những khát khao đời thường bỏng cháy của họ được đề cập đến. “Lính đảo hát tình ca trên đảo” chính là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1982, in trong tập “Bên cửa sổ máy bay”. Tác phẩm được chia làm hai phần với phần đầu (khổ một đến khổ bốn) khắc họa sân khấu và chân dung đặc biệt của người lính, chân dung và phần hai (còn lại) nói về khúc tình ca của lính đảo.

Ở phần đầu tiên bài thơ, tác giả đã mở ra một khung cảnh đặc biệt:

“Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vải tấm tôn chôn mấy cánh gà

Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa”

Đây là khung cảnh của một buổi biểu diễn văn nghệ nhưng sân khấu không được trang hoàng lộng lẫy bởi những ánh đèn màu rực rỡ. Ở nơi ấy, các chiến sĩ đứng trên những phiến đá san hô để ca hát, ngăn cách giữa “sân khấu” và “cánh gà” cũng chỉ có vài tấm tôn đơn sơ, tạm bợ. Màn đêm bao trùm không gian của buổi diễn đến mức những người lính “nhìn nhau không rõ nữa”. Ba chữ “Em đừng trách” thật thân thương, tựa như một lời bộc bạch mong được thông cảm bởi “Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa”. Câu thơ đã hé lộ hoàn cảnh sống thiếu thốn của những người lính và sự dữ dội của thiên nhiên nơi hải đảo. Gió Trường Sa lúc nào cũng như gào thét nên mây trời, sóng nước đành trở thành phông nền cho sân khấu của người chiến sĩ. Tưởng như với hoàn cảnh khó khăn ấy, tiếng thơ sẽ trở thành tiếng buồn bã, trách than nhưng khổ thơ thứ hai đã đem đến cho người đọc điều ngược lại:

“Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng

Sỏi cát bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn”

Trường Sa sao mà khắc nghiệt quá! Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên bằng nhiều giác quan: xúc giác (Gió rát mặt), thị giác (Đảo luôn thay hình dáng) để thấy hết sự khốc liệt của gió, bão, sóng, cát nơi đây. Cách so sánh “Sỏi cát bay như lũ chim hoang” gợi tả khung cảnh gió mịt mù đến mức che lấp tầm nhìn của con người, cho thấy sức mạnh của gió cuốn sóng gầm. Thiên nhiên vừa hoang sơ vừa dữ dội, đem đến cho con người biết bao trở ngại. Thế nhưng, vượt lên tất cả, hình ảnh những người lính trong hai câu thơ cuối khổ hai đã hiện lên thật đẹp, thật hiên ngang. Họ bất chấp lời thách thức ghê gớm của tự nhiên để cất lên tiếng ca yêu đời. Câu thơ thứ ba có cách ngắt nhịp khác lạ, cách nói “Cứ mặc nó”, “Ta bắt đầu thôi” thể hiện thái độ dứt khoát, ngang tàng của người lính. Các chiến sĩ lấy cái bao la của trời, cái vô tận của biển, cái mạnh mẽ của gió để mở màn buổi biểu diễn. Thiên nhiên không đối chọi với con người mà trở nên hòa quyện, trở thành một phần trong lời ca lính tráng. Tiếng gọi “Nào hỡi” kết hợp với cách xưng hô “chiến hữu” cho thấy tình đồng chí đồng đội sâu sắc. Họ cùng nhau chinh phục tự nhiên, khảng khái hát vang khúc ca lòng. Những người lính quả thực là những con người rất sáng tạo, chủ động, tràn đầy nhiệt huyết.

Khổ thơ thứ ba đã khắc họa chân dung những nghệ sĩ và khán giả của buổi trình diễn đặc biệt:

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.”

Tham dự buổi diễn ấy không có một bóng dáng một người con gái nào, tất cả đều là lính đảo. Họ hiện lên với chân dung tự họa độc đáo, khác lạ “ mấy chàng đầu trọc ”, “ rặt lính trọc đầu ”. Các từ láy “ lô nhô ”, “ ngổn ngang ” giàu sức gợi hình cùng ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ khiến câu thơ mang sắc thái dí dỏm. Không chỉ Trần Đăng Khoa, trước đây nhà thơ Quang Dũng cũng từng miêu tả những người lính trọc đầu trong bài “Tây Tiến”:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm ”.

Chi tiết “không mọc tóc” không phải là kết quả của sự phóng đại hay tượng trưng, đó đều là những hình ảnh tả thực, cho thấy sự gian nan của đời lính. Tuy nhiên, nếu người lính Tây Tiến mang đậm vẻ gai góc thì người chiến sĩ đảo Trường Sa lại có phần vui tươi, tinh nghịch. Câu thơ thứ ba ở khổ ba đã lí giải nguyên nhân làm nên sự đặc biệt trong ngoại hình ấy:

“Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”

Điệp từ “trọc” được lặp lại ba lần trong khổ thơ, gây ấn tượng mạnh với người đọc về ngoại hình như thể bị sóng, gió bào mòn đi của người lính. Chỉ qua một nét đặc tả, ta hình dung được cuộc sống vất vả, gian lao của những binh đoàn đóng quân tại Trường Sa . Đặc biệt, ở đảo Sơn Ca - nơi nhà thơ gặp các chiến sĩ, không có nguồn nước ngọt như tự nhiên. Các chiến sĩ đành phải cạo tóc, dành dụm phần nước ngọt quý giá ấy cho những công việc khác. Ở đảo xa, cơn mưa là niềm ước ao như nhà thơ đã viết trong “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn:

“Ôi ước gì được thấy mưa rơi

Mặt chúng tôi ngửa lên như đất

Những màu mây sẽ thôi không héo quắt

Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên

Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền

Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ”

Cách nói “không lẽ đành”, “đều trọc tếu” mang giọng điệu lạc quan, dí dỏm nhưng lại khiến người đọc cảm thấy xót xa. Nơi đầu sóng ngọn gió, biết bao thế hệ đã “ra đi không tiếc đời mình”, dâng hiến cả thanh xuân cho Tổ quốc. Được tôi luyện bởi gió bão Trường Sa, trái tim họ ngoan cường, dũng cảm nhưng cũng rất mực chân thành, yêu đời, yêu sự sống.

“Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ

Là bà con xa với bụt ốc đây mà

Thôi lặng yên nghe có gì đang sóng sánh

Hoá ra là sư cụ hát tình ca”

Không chỉ cùng nhau ca hát, những người lính còn lấy sự độc đáo trong ngoại hình của mình để bông đùa, tếu táo. Những chàng trai trẻ độ tuổi đôi mươi, những người lính già tuổi xế chiều, tất cả đều là “sư cụ”, “bà con xa với bụt ốc”. Hai tiếng “đây mà” đặt ở cuối dòng khiến câu thơ như tiếng cười khoái chí, giòn giã của người chiến sĩ. Sau niềm vui ấy, lời thơ bỗng đột ngột chuyển giọng “Thôi lặng yên nghe. Có gì đang sóng sánh”. Không gian đang ồn ào bỗng yên ắng lạ, là âm thanh gì đang “sóng sánh”? Là tiếng sóng biển ầm ì ngàn năm đã tác động đến tâm hồn người lính hay chính cơn sóng lòng của người lính đang dâng trào, tạo thành những âm hưởng bất tận? Câu thơ thứ tư mở đầu với ba tiếng “Hóa ra là” như một phát hiện đầy lý thú của người lính, bài hát đã bắt đầu cất lên.

Qua việc miêu tả sân khấu đêm ca hát và chân dung đặc biệt của những người lính đảo, bốn khổ thơ đầu đã đem đến cho người đọc cái nhìn hiện thực về cuộc sống chiếu đấu nơi biên cương hải đảo. Từ đó, ta thấy được nét đẹp tâm hồn, phẩm chất ẩn sâu trong vẻ ngoài gai góc nơi những người anh hùng: trẻ trung, yêu đời, có tâm hồn nghệ sĩ, vui tính, hóm hỉnh và dũng cảm, hiên ngang, không ngại thử thách khó khăn.

Hai khổ thơ thứ năm và thứ sau là những giai điệu của bản tình ca dạt dào, góp phần tô đậm vẻ đẹp của hình tượng những chàng lính đảo:

"Những giai điệu ngang tàng như gió biển

Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi

Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa

Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình."

Thủ pháp đối lập được vận dụng rất tài hoa. Những chàng trai ấy, trên đầu là vùng trời mênh mang của Tổ quốc, dưới chân là đất Mẹ thiêng liêng. Sóng và gió Trường Sa đã tôi luyện họ, chất mặn mòi của muối biển đã thấm vào da thịt để rồi đến âm điệu bài ca cũng mạnh mẽ, dồn dập, “ngang tàng như gió biển”. Trái ngược với giai điệu ấy, phần lời của bài hát lại “toàn nhớ với thương thôi” rất đỗi trữ tình. Ta tìm thấy trong lời ca ước mơ hạnh phúc, khát khao tình yêu đôi lứa bỏng cháy của người lính. Họ mơ về đêm trăng thơ mộng đi dạo dưới hàng cây, bóng dáng người yêu với gương mặt dịu dàng. Họ ước ao những cái nắm tay lãng mạn, ngọt ngào của tình yêu biết mấy! Người lính, dù kiên trung, cứng rắn nhưng trái tim nào phải sắt đá bao giờ, vẫn biết cháy lên những rung cảm xao xuyến khi nghĩ về tình yêu. Một thời, người chiến sĩ trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi cũng được miêu tả dưới khía cạnh ấy:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Khai thác khía cạnh tình yêu người lính không những không làm mất đi vẻ hào hùng, anh dũng mà càng khiến hình tượng những anh hùng Tổ quốc thêm phần gần gũi, chân thực, tự nhiên, sâu sắc. Không chỉ thấy được niềm mong mỏi của họ, tác giả còn thấu hiểu nỗi buồn của người lính khi “Mở mắt chung chiêng lưng trời sóng vỗ”, trở về với thực tại. Một bên là dáng hình, gương mặt “em” yêu dấu cụ thể như kề sát bên đối lập với một bên là thực tế “em” chỉ là nỗi ước ao, là tưởng tượng, là khát khao rất khó thành hiện thực:

"Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?

Tóc em ngắn hay dài có trời mà biết được

Những bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh

Trông bốn phía chỉ âm u mây nước."

Tình yêu vốn dĩ là khát khao thuần khiết, tự nhiên nhất của mỗi chúng ta. Hạnh phúc của con người, suy cho tới cùng, chính là cảm thấy mình yêu và được yêu trên cõi đời này. Còn gì khổ tâm hơn là khi cất lên tiếng gọi tình yêu mà không được hồi đáp. Câu hỏi tu từ “Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?”, cách nói “có trời mà biết được”, “Những bóng dáng nào” bộc lộ ước vọng tình yêu và nỗi buồn, niềm băn khoăn của người lính. Họ gửi sự xao xuyến, suy tư của mình vào không gian rộng lớn nhưng giữa “bốn phía chỉ âm u mây nước”, hình dáng “em” vẫn là điều bỏ ngỏ. Đọc những câu thơ trên, ta thật thương yêu và cảm phục những người lính đã cống hiến tuổi xuân, sức trẻ, tình yêu của mình cho Tổ quốc. Nhờ có họ mà bao mái nhà được bình yên, bao tình yêu được đơm hoa kết trái, bao mầm sống được nảy nở trên mảnh đất quê hương.

"Nào hát lên cho mây nước biết

Rằng chúng ta là những con người

Yêu em thủy chung hơn muối mặn

Dù thư tình chưa biết gửi cho ai

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này…"

Dù có những nốt trầm nhưng bản tình ca vẫn không dừng lại, tiếng hát mỗi lúc một vang vọng hơn. Phép điệp “Nào hát lên…/Rằng…” gợi ra phần điệp khúc và cao trào trong ca khúc. Dù “em” chưa hiện hiện hữu, lá thư tình chưa có tên người nhận nhưng những chàng trai vẫn mạnh mẽ khẳng định tình yêu trước sau như một: “Yêu em thủy chung hơn muối mặn”. Hinh ảnh “muối mặn” trong câu thơ trên khiến ta liên tưởng đến “chén muối, đĩa gừng” trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Chi tiết này vừa gợi lên truyền thống ân nghĩa của dân tộc, vừa nhấn mạnh phẩm chất chung thủy, son sắt ở người chiến sĩ. Mây nước vời vợi, bóng đêm thăm thẳm của Trường Sa không thể chiến thắng tình yêu nồng nàn, bỏng cháy. Tổ quốc sinh ra anh và “em”, bảo vệ Tổ quốc cũng chính là che chở cho “em” và chính tình yêu của những người như chúng ta đã dệt nên đất nước ngàn năm văn hiến. Tình yêu lứa đôi hòa quyện với tình yêu Tổ quốc bừng sáng trong lồng ngực người chiến sĩ. Đó là động lực để người lính “đứng vững trên đảo xa sóng gió”, gìn giữ nền độc lập cho quốc gia và nối dài những câu chuyện về con người Việt Nam nhân hậu, bao dung, nặng tình nghĩa mà vẫn rất dũng cảm, nghị lực phi thường. Dấu “…” đặt ở cuối dòng thơ như lời hứa hẹn về sự phát triển không ngừng của đất nước. Hai khổ thơ có nhịp điệu tha thiết, dâng trào, khỏe khoắn, sôi nổi, tràn đầy niềm tự hào, khắc họa tư thế kiêu hãnh, hiên ngang của người lính đảo.

Bản tình ca đột ngột kết thúc bởi sự xuất hiện của những khán giả đặc biệt:

"Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…"

Lời thơ lại trở về giọng điệu bông đùa, dí dỏm. Đoạn thơ miêu tả một hiện tượng tự nhiên: đêm đến, thủy triều rút, những tảng đá hiện ra. Bản tình ca đang ở hồi cao trào, “chót vót”, người lính bỗng “bàng hoàng” nhận ra tiếng hát của mình có sức lay động kì diệu. Cách nói “người đâu lên đông thế”, từ “Ô” lại diễn tả phát hiện kì thú của các chiến sĩ. Với họ, những hòn đá kia cũng trở thành những khán giả say sưa thưởng thức âm nhạc. Thiên nhiên và con người cùng đồng điệu trong cảm xúc, tất cả tỏa sáng rực rỡ giữa đêm tối Trường Sa. “Còn gì đẹp trên đời hơn thế?”

Bài thơ đã khắc họa sinh động, chân thực hoàn cảnh sống và chiến đấu gian lao của những người lính. Không chỉ vậy, “bản tình ca đặc biệt” này còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính với nhiều phẩm chất đáng quý: yêu đời, lạc quan, có tâm hồn nghệ sĩ, khát khao hạnh phúc, son sắt thủy chung và hơn hết là yêu Tổ quốc, giàu tinh thần trách nhiệm, dũng cảm, hiên ngang, kiên cường. Họ là đại diện cho hình ảnh những con người Việt Nam:

“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững

Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa

Trong và th ực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.”

Về nghệ thuật, nhà thơ đã sử dụng thể thơ tự do với nhịp điệu thơ thay đổi linh hoạt, giọng thơ hóm hỉnh ngôn ngữ đậm chất khẩu ngữ, các biện pháp tu từ như so sánh, điệp ngữ, câu hỏi tu từ. Đặc biệt, việc giọng điệu thơ cho phù hợp với mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình từ tinh nghịch, lạc quan đến suy tư, trầm lắng rồi kiêu hãnh, tự hào đã góp phần lớn vào thành công của tác phẩm.

“Thơ ca trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” (Belinsky). Bài thơ “ Lính đảo hát tình ca trên đảo ” đã làm tròn cả hai phần ấy, khắc họa được hiện thực bằng ngòi bút nghệ thuật tài hoa. Giữa những tác phẩm viết về đề tài người lính ra đời từ trước, Trần Đăng Khoa đã thành công tạo dấu ấn riêng cho mình với “bản tình ca đặc biệt” này.

-/-

Hy vọng với những bài văn mẫu "Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo" mà Đọc tài liệu tổng hợp giúp các em có thêm tài liệu tham khảo. Cùng với trọn bộ văn mẫu lớp 10 là những tài liệu hữu ích giúp các em học tốt Ngữ Văn 10!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM