Trang chủ

Cảm nhận ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống

Xuất bản: 05/06/2023 - Tác giả:

Một số mẫu bài văn cảm nhận về ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Bài văn nêu cảm nhận về ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống trong truyện ngắn Vợ nhặt để thấy được những thông điệp nhân văn vô cùng sâu sắc mà tác giả Kim Lân đã gửi gắm trong truyện ngắn Vợ Nhặt.

Cảm nhận về ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống bài số 1

"Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một khoảnh thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi, nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại...". Mỗi lần đọc và giảng truyện ngắn Vợ nhặt, tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy, cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều "nhá nhem" không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè "sáng loá".

Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây - cuộc sống của những lao động Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song nhà văn không miêu tả những bi kịch của kiếp người như những cây bút hiện thực thời kỳ ấy. Chọn thời điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong tập truyện nổi tiếng Con chó xấu xí, tác giả Vợ nhặt cũng không dùng giọng văn ngắn mang âm hưởng sử thi ca ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên kiếp, tình nghĩa của con người, toả hơi ấm từ tình người. Tình người - trước hết là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã hội - đã được nhen nhóm, thắp sáng giữa đêm đen của cuộc sống.

Chao ôi, cái đêm đen cuộc sống ở một xóm nghèo ven thành phố của những người ngụ cư mới khủng khiếp làm sao! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc, đường nét rõ rệt, ngay trước mắt con người: đường vào tối om, bóng người đói với những khuôn mặt xanh xám đi lại dật dờ như những bóng ma - Cái đói, cái chết cất lên trong "tiếng quạ gào từng hồi thê thiết trên mây cây gạo ngoài bãi chợ", trong tiếng "hờ khóc tỉ tê" của những gia đình vừa chôn cất người thân. Rồi nó "vẩn thành mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "mùi đốt đống rấm - đốt những vật dụng của người vừa chết - bốc lên khét lẹt". Trong tiến trình văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ đã viết về nạn đói: Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút kể chuyện mùa màng thất bát, cả một vùng rộng lớn ở Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy nhông, đào bới... Nguyễn Du trong Sở kiến hành tả cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và Thạch Lam, và Nguyễn Công Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực tả rõ nét cái nạn đói năm ất Dậu - 1945 - ở một thời gian cụ thể, một không gian đậm đặc như Kim Lân đã làm.

Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao cũng từng dự cảm về "Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể của nhà văn mà như phải trực tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu ấy, nhìn rõ cỏ cây, nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, ngửi thấy mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ "rùng mình", còn khiếp sợ, còn xót thương, ngột ngạt, tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích thực cuộc đời đang hiện về? Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một cảnh điêu tàn, rữa nát. Cái chết lan tràn, bao phủ. Đêm đen buông xuống. Đời người, kiếp nhân sinh giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.

Vậy mà giữa bóng đen, giữa khí lạnh cuộc đời, hai kiếp người - anh con trai mệt mỏi bởi những lo lắng chật vật hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sọp, xám xịt - đã tình cờ gặp nhau, cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là Tràng, rồi cô vợ. Họ được cả làng xóm dõi nhìn, cuối cùng được bà mẹ chấp nhận bằng một tấm lòng ngọt ngào, ấm áp. Họ sưởi ấm cho nhau, cùng thắp sáng ngọn lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần theo từng dòng chữ từng đoạn văn trong Vợ nhặt, chúng la dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh tế của nhà văn khi ông - như có chủ đích - đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và những tiếng nói, giọng cười vui vẻ tuế toá, đan xen những bóng đen, màu xám và những tia sáng, những ánh hồng. Câu chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối cùng "sáng loá " trong ánh nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng lới Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới...

Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái - anh cu Tràng và cô vợ - những phút đầu đúng là một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả đôi anh chị cùng cất lời, đưa mắt thì... dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén Chỉ vừa nghe anh cái tiếng "Muôn ăn cơm trắng với giò...", chị đã "nhà : ơi"... rồi "liếc mắt cười tít". Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế! Rồi hắn toét miệng cười và cũng biết tình tứ lại chẳng kém gì cô em: "Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã". Ai dám chê cái anh chàng đẩy xe bò đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu này không có duyên! Song, giữa cái thời bên bờ vực chết đói này, duyên hay tình, hay gì gì đi nữa trước hết phải là miếng ăn, là sự sống. Do đó sau khi biết đích xác chàng trai có tiền, rồi lại được ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, rồi ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà, ngon!... "Này, nói đùa chứ có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về...". Nói thế, Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngỡ thị về thật.

Câu chuyện ái tình của họ được Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không phải là bèo bọt trăng gió vu vơ. Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc đã nuôi nổi cái thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa nhau về, sau cái chặc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị đi bên nhau đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. Anh: nét mặt phởn phơ khác thường, tủm lỉm cười nụ và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh. Chị: đầu hơi cúi, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt, rón rén e thẹn. Cả làng xóm như bừng dậy. Trẻ con hò reo, có đứa gào lên: "chông vợ hài", người lớn bàn tán, hỏi han, phán đoán. Những khuôn mặt u tối hốc hác bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Tiếng cười, nói, tiếng mời gọi râm ran. Có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói tối tăm ấy của họ.

Câu đố dường như dần dần được giải đáp, mặc cho làng khen chê, đàm tiếu, Tràng vẫn cứ vênh mặt lên tự đắc, lấy làm thích ý. Vì đến lúc này anh mới thực sự cảm nhận ý vị cuộc gặp gỡ tình cờ, cái ý định chớp nhoáng, táo bạo mà đúng đắn của mình. Đi bên người đàn bà ngượng nghịu trước lời khen của ai đó: ''khéo mà vợ anh cu Tràng thật, trông ta e thẹn hay đáo để", Tràng như quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà... Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Đó là tình yêu? Là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất đốì với hai kiếp người tối tăm, vờ vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngầm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai con lên khoe: "- Dầu tối thắp đây này... Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì...".

Tràng đã nói ra được cái ý nghĩa thô mộc mà thiêng liêng nhất: "Vợ mới, vợ miếc". Cô gái cũng đáp lại được bằng "một lời nói suồng sã nhất: "khỉ gió", và một cử chỉ cởi mở nhất "phái đánh đét vào lưng hắn", khiến cho "hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách". Vậy là, những e thẹn, những rụt rè, ngượng nghịu của ái tình trai gái đã được bước qua để tới ngưỡng cửa của quan hệ vợ chồng rồi. Chuẩn bị cho ngày vui đón vợ mới, anh chẳng có bạc vàng, rượu thịt cao sang gì, chỉ có cái chai con đựng ít dầu thắp để... "cho nó sáng sủa một tí chứ"! vậy mà em vẫn khen "sang nhỉ" rồi lại chuyên răn anh "hoang nó vừa vừa chứ". Thật xót xa, mà cảm động, một cuộc rước dâu chỉ có hai người rách rưới, vêu vao đi bên nhau với một ít dầu thắp tối. Song cũng thật đàng hoàng, trịnh trọng, bởi vì họ tự đến với nhau, tin cậy, hoà hợp. "Đôi ta như lửa mới nhen, như trăng mới mọc, như đèn mới khêu". Cái mối tình dân dã của anh Tràng và cô vợ nhặt ngẫm ra cũng có ánh sáng, có lửa ấm đấy chứ!

Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...". Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người vừa sâu nghĩa lý. "Nhà tôi làm bạn... duyên... kiếp... cái số cả...", ấy là những ngọn lửa Tràng thắp lên ừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới "duyên - kiếp" là chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi gái, trai. "Duyên" là sự hấp dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. "Kiếp" là đời sống cơ cực cùng cảnh ngộ, cùng thuyền, cùng hội mà tạo hoá đẩy, trôi đến gần nhau, cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ câu chuyện "tầm phào" ở bên đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm lời bỡn cợt "vợ mới, vợ miếc", giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng đã thực sự coi mối quan hệ giữa mình với người con gái như có tiền định có lương duyên do trời sắp xếp, do đời run rủi, ràng buộc.

Có thể khi nói, Tràng chưa nghĩ được những điều sâu xa như vậy, song cái cách anh ta "tươi cười" mời mẹ "ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện" rồi nhắc mẹ: "Nhà tôi nó chào u", rồi bước lại gần... vừa giới thiệu cô gái trong tư cách "nhà tôi" vừa khẳng định "duyên số" hai người trong giọng điệu rành rẽ, đứng đắn, ai nghe chẳng cảm động, đồng tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con. Bà thâm thía, tủi hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái., rồi bà cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: Người ta gặp bước khó khăn , đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ... Bà nhắc lại ý con để nói với "nàng dâu mới": Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Con tin yêu mẹ. Mẹ già cũng tin yêu, tôn trọng dâu con. Mẹ chồng và nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở, thân tình. Bà mẹ dạy con: "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn", phác ra một tương lai "rồi ra may mà ông giời cho khá...". Rồi an ủi, động viên: "con ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân... cốt chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".

Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người tuy khi nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ làm người là ở chỗ "thương", ấy là tình người, lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vợi đi biết bao đau khổ, giải toả biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại. Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Phải chăng lúc đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh diêm đối đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa...". Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà lụp xụp rách rưới của hai mẹ con bà cụ Tứ không có ánh đèn.

Đêm buông xuống, bóng tối cũng ùa vào, che phủ. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ con sống lủi thủi, âm thầm, hết kiếm ăn ban ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình xuống vì mệt nhọc, chẳng cần đèn đóm, chuyện trò. Nay nhà có người mới:. con trai có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên cho sáng sủa! Ngọn đèn, hay chính là ngọn lửa của tình người mà ánh sáng đã được nhen từ trong trái tim của mỗi con người? Ở Tràng, đó là ánh sáng từ sự ngẫu nhiên, tình cờ đến một quyết tâm, một khát vọng, ở người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên kiếp, của cảnh ngộ, ngẫu nhiên mà như số trời ràng buộc, xe kết. Ở bà cụ đó là ánh sáng của tình thương, lòng bao dung, nhân hậu. Họ nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối "sáng lên một tí", để căn nhà toả ra hơi ấm, lòng người có thêm chút lửa để quyết sống, quyết vượt qua tao đoạn này - cái tao đoạn tăm tối đau thương nhất của đất nước bấy giờ. Có thể nói. nhà văn Kim Lân thắp vào giữa căn nhà bà cụ Tứ một ngọn lửa - dù chỉ là của ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bây giờ - đồng thời thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản lĩnh sống của con người - những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.

Nếu ở phần trước, các chi tiết, các sự việc của câu chuyện diễn biến trong sự lan xen bóng tối và ánh sáng, thì đến phần sau, nhà văn dựng một không gian nghệ thuật cả bề mặt và chiều sâu, đầy... ánh sáng, cả khung cảnh và nhân vật đều tắm trong ánh sáng, chan hòa ánh sáng, ánh sáng bừng lên như một chuyển động tự nhiên, vì nhà văn kể về buổi sáng hôm sau. Song ánh sáng ấy cũng đâu phải ngẫu nhiên. Nó biểu hiện một cảm hứng lạc quan, nó soi tỏ một ngày mới, một trang mới của tâm hồn, sự sống mỗi nhân vật, mỗi kiếp người. Nó cũng là kết quả đẹp đẽ của ngọn lửa tình người.

Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng loá. Nhà cửa, sân vườn được quét tước thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được đem ra hong nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch... Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất... Tất cà như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã "nên người", thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân, ý thức về sự "nên người" khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà. Người đàn bà - vợ nhặt của Tràng cũng đã đổi thay, khác hẳn. Rõ là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gập ở ngoài tỉnh. Rõ là người vợ biết chăm sóc chồng lam làm vun vén cho cái tổ ấm vừa xây dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo quần giặt giũ, ang nước đầy, cái bếp ấm lửa.

Nhà văn không miêu tả chi tiết mà chỉ phác qua một nét nhẹ nhàng bằng cảm nhận của Tràng - người chồng - hình ảnh người vợ vẫn hiện lên thật đáng yêu. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai, nhẹ nhàng bảo nàng dâu: "Anh ấy dậy rồi đây. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn". Vợ Tràng đáp: "Vâng", rồi lẳng lặng đi vào trong bếp. Sự việc diễn ra thật đơn sơ mà thấm thìa làm sao! Mẹ chồng nàng dâu như đã sống với nhau, gắn bó thương yêu, kính trọng nhau, thông thuộc việc nhà như đã hàng chục năm rồi. Cái nền nếp, gia phong như đã được đắp xây bền vững từ lâu lắm rồi. Người đàn bà ấy, đối với Tràng không còn là của "nhặt" được nữa, mà thực sự đã là "vợ" rồi, là "nàng dâu" của mẹ anh rồi. Như vậy, chị ta cũng đã "nên người", xứng đáng "con người". Còn cụ Tứ - người mẹ nghèo khổ, chậm chạp, già yếu - cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, sai bảo, dạy dỗ con đâu, nhắc nhở, động viên con trai. Tâm hồn người mẹ chan hoà một nguồn sáng mới - nguồn sáng của niềm tin yêu, hi vọng.

Ánh sáng của niềm tin yêu, hi vọng từ trong người mẹ, tỏa sang đôi vợ chồng mới. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói - có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo loãng - cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão bàn chuyện ngăn bếp nuôi gà. "Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Một đôi gà thoáng trong tích tắc đã hóa "đàn gà". Có một ông Bụt, một bà tiên nào đã nhập vào lời bà cụ, hay chính bà cụ đang hóa thành tiên, bụt để đem đũa thần biến những khổ đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm vui, ánh sáng? Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành "cái này hay lắm cơ...", thành "chè đây, chè khoán đây". Hình ảnh bà cụ "lật đật chạy xuống bếp", rồi "lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút", cùng cái cử chỉ "cầm môi khuấy khuây" múc từng bát cám và câu nói: "ngon đáo để... ngon đáo để..." được nhà văn đặc tả vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường chắt lọc, nhất là những từ láy đặc sắc: lật đật, lễ mễ, nghi ngút, khuấy khuấy, ngon đáo để.

Càng về cuối, câu chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật cảm động. Ngọn lửa tình người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự gắng gượng vui sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn... cứ nóng dần, lan toả trong từng chi liết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện nồi cháo cám đắng chát mà vẫn "ngon đáo để", ba con người khôn khổ ấy cố quên đi những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài đời rộng lớn. Đó là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người nghèo đói... Từ lời kể của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ của Việt Minh dân đoàn người đi phá kho thóc chia cho người đói. Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng nghĩ tới "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...".

Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong tâm trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng đó, tuy ba con người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh, chấp chới một dự cảm ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng thêm ngọn lửa tình người, giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan màn đêm vây bủa để đi tới một buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng "lá cờ đỏ bay phấp phới" như một vĩ thanh buông ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời chưa diễn ra,song ánh áng hồng một đời mới như đang ở ngay trước mặt, thắp trong người đọc một niềm vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.

Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ nhặt không chào đời cùng lúc với Tắt đèn, Chí Phèo, Bỉ vỏ, hoặc đúng dịp Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chúng ta được biết, nhà văn Kim Lân khởi thảo tác phẩm năm 1940, chắc đã thai nghén những nhân vật, những tình hướng chi tiết truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng táng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, qua sự trải nghiệm cuộc đời với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn hiện thực trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến bế tắc. Điều đặc sắc nhất ở ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc của mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức sống cả một đời người, một đời nhân loại.

Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp mà còn thấm thía một lẽ sống ở đời. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc. Âm hưởng ngân nga trong từng dòng, từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và tiếng cười đan xen, bóng tối và ánh sáng giành giật, để cuối cùng mở ra một ngày sáng loá, có ánh hồng của mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Cảm hứng nhân văn - tinh thương và niềm tin ở con người, trước hết với nhân dân lao động - của Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và điều đặc sắc nữa ở ngòi bút Kim Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian mà giàu lính nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại mà như trong cổ tích. Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới "Vợ nhặt" - sáng tạo riêng của Kim Lân - vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam. Và ... biết đâu, sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện cổ tích - cổ tích về duyên kiếp những con người đói khổ có nồi cháo cám ăn mừng ngày nên vợ nên chồng, có bà mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.

Cảm nhận về ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống bài số 2

Số lượng tác phẩm ít, nhưng sáng tác nào của Kim Lân cũng đều chứa đựng những giá trị cốt lõi quý giá, lấy nền tảng hiện thực làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu rộng, ảnh hưởng lớn đến tâm hồn của người đọc. Chính vì lẽ ấy, thế nên Kim Lân một tác giả không học hành nhiều, nhưng có óc sáng tạo phong phú, đi sâu vào đời sống của nhân dân, đồng thời thấu hiểu nội tâm và vẻ đẹp tâm hồn của họ đã vinh dự được xếp vào là một trong 10 tác giả tiêu biểu nhất cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Cùng viết về chủ đề người nông dân khốn khổ trước cách mạng tháng 8, thế nhưng khác hẳn với Nam Cao hay Thạch Lam, luôn mang đến cho độc giả những cái chết xa hoặc gần, những cái tăm tối, bế tắc không hồi kết, thì ở Vợ nhặt, Kim Lân đã khéo léo mang lại ánh sáng cho người đọc giữa một khung cảnh ngột ngạt của nạn đói năm 1945. Ánh sáng đó xuất phát từ vẻ đẹp của tình người ấm áp và niềm hy vọng sống còn vẫn tiềm ẩn trong mỗi một nhân vật Tràng, Thị, và bà cụ Tứ, dẫu rằng phận đời của họ cũng mấp mé cảnh chết đói.

Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói khủng khiếp mà nhà văn Nam Cao đã không khỏi ám ảnh nhắc lại rằng "có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình". Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện, giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại một viễn cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những câu văn nhẹ nhàng ẩn chứa nhiều nỗi niềm đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp lều chợ", thần chết có lẽ đã triển khai ngay một cuộc tàn sát khi mà "người chết như ngả rạ", "không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người".

Những người còn sống có lẽ cũng đã xác định trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa địa, kẻ "dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma". Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn. Bởi lẽ lúc ban đầu người ta còn có sức chôn, sau vì đói, vì người chết nhiều quá nên người ta mặc kệ. Thậm chí, cái đói nó còn hóa thú cả con người, những kẻ sống sót từ nạn đói ấy có lẽ cũng có vài người nghe đến tên món thịt người cứu đói. Chao ôi, cái sự sống khốn khổ trong văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều ám ảnh.

Tuy nhiên Kim Lân, không cốt để phản ánh hiện thực chết chóc, đau thương hay lên án cái xã hội đày đọa bất công này, mà ông tập trung nhiều hơn về con người và vẻ đẹp tiềm ẩn trong họ. Từ nạn đói, bước ra 3 nhân vật rất tiêu biểu ấy là Tràng, Thị và bà cụ Tứ, những con người cũng bị cái đói hành hạ đến thê thảm. Trước hết nói về nhân vật Tràng, là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì thế Tràng không có nổi một tấm vợ. Anh cùng người mẹ già của mình nương tựa nhau trong một cái chòi rách phía rìa làng, ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn, nhưng ngày càng đói kém và công việc của anh cũng trở nên bấp bênh, bữa được bữa mất.

Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh "nhặt" được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc. Từ một câu nói bông đùa "Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh" khởi đầu nhân duyên và một lời cầu hôn cũng nửa thật nửa đùa hợp với tính vô tư của Tràng "Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về", người đàn bà cong cớn, sưng sỉa, tàn tạ ấy đã sẵn sàng theo không Tràng, không cần mối lái, cưới xin, lễ hỏi gì sất, hai người đã thành vợ chồng dễ dàng như thế. Có thể nói rằng chưa có lúc nào mà con người ta lại xuống giá đến mức ngang bằng cọng rơm cọng rác có thể nhặt bất cứ đâu ở ngoài đường như thế, khốn khổ cho một kiếp người bị cái ăn, cái đói ép uổng.

Tràng không ngờ rằng mình lại có được vợ bằng cái cách ấy, ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc. Đó là cái lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng, người ta đâu thể hứa suông rồi không làm, người ta cũng đâu thể chứng kiến một mảnh đời tàn tạ, tội nghiệp sắp lìa đời, trong khi bản thân có thể giúp đỡ họ bằng 4 bát bánh đúc. Nhưng khi đã thành vợ, thành chồng, dường như trong lòng Tràng có cái gì đó nảy nở, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác từ anh chàng khù khờ, cục mịch trở thành một người đàn ông tinh tế, thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đạc gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ tỉnh mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt. Thương thị không có được một đám cưới đàng hoàng, Tràng lại dẫn vợ đi ăn mừng cưới một bữa no nê, thậm chí phá lệ mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu mới cho có không khí.

Tràng bỗng nhiên trưởng thành, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn. Một niềm hy vọng sống và mưu cầu hạnh phúc mãnh liệt đã thắp lên trong tâm hồn Tràng "trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt". Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những khó khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn. Sau đêm tân hôn, trước "cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động.

Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", Tràng cảm nhận được rõ "một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng". Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này" và biến nó thành hành động "hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà". Việc ý thức được phải lo lắng cho gia đình sau này, hay hành động tu sửa căn nhà rách nát chính là biểu hiện rõ nét nhất về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật. Trách nhiệm và ý thức về cuộc sống hiện tại, đã mở ra trong lòng Tràng khao khát đổi đời, thay đổi cái sự sống khốn khó này bằng một cách nào đó. Hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới" chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm này.

Nhân vật thị, một người đàn bà khốn khổ, không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn, vì muốn tránh khỏi cái lưỡi hái của Tử thần. Cuộc đời của thị chính là tiêu biểu cho một loạt các cuộc đời có số phận tựa rơm rác giữa nạn đói năm 1945, bần cùng, thê thảm và tàn tạ. Ban đầu độc giả có thể có chút ác cảm với thị, một người đàn bà đã xấu người lại còn được cái xấu nết, thế nhưng sau tất cả người ta mới thấy rằng vì thị thiếu thốn quá, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu sự bảo bọc chở che, sắp chết tới nơi thì người ta còn biết cái gì là liêm sỉ, mặt mũi nữa, thị khao khát được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình. Thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng, ngẫm cảnh thị khép nép theo chồng về nhà, ngồi trong nhà Tràng một cách ngượng nghịu, người ta lại thấy thương hơn thấy ghét. Thật là một người đàn bà tội nghiệp.

Thế rồi thấy cái cách chị hành xử trong gia đình, người ta mới dần nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của thị, khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị không tỏ ý chê trách, đỏng đảnh mà trái lại thị chọn im lặng, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho gia đình. Có lẽ rằng trong lòng thị vẫn còn nhớ cái ân nghĩa của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng. Cuối cùng thị cũng có một mái ấm, một tình thân, và thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn bảo ban, săn sóc.

Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo. Điều ấy đã chứng tỏ trong lòng thị thật sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn hết lòng vì nó. Trong bữa cơm sáng, trước món "chè khoán", đắng ngắt và khó khăn, mắt thị tối lại, thị tủi thân, nhưng hơn hết là thị thương bà cụ, một người mẹ già nghèo khó không có tiền bạc chuẩn bị cho con cái được bữa chè mừng cưới, buộc lòng bà phải đãi món chè khoán. Chính vì thế thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này. Bên cạnh đó ngoài vẻ đẹp tình thân, ở nhân vật thị cũng toát lên một niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc đến chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống, thị tin rằng tương lai bằng đôi bàn tay của thị, Tràng và bà cụ Tứ sẽ ngày một tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn.

Với nhân vật bà cụ Tứ, có lẽ rằng đây là nhân vật bộc lộ một cách rõ nét nhất về tình thân và niềm hy vọng vào cuộc sống, mặc dù bà cụ đã là người gần đất xa trời. Người phụ nữ hiền hậu, nghèo khó cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con khôn lớn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con. Thế nên khi nghe chuyện Tràng cưới vợ, bà cụ ban đầu là sửng sốt, hoang mang, sau ấy là trở nên tủi hơn "cúi đầu nín lặng". Bà xót xa cho cái phận mình, phận con, người ta cưới xin lúc ăn nên làm ra, nhà có của dư của để, đãi làng đãi xóm, còn con mình lại lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của làng xóm, nghĩ mà thêm chua xót. Lòng của người mẹ thương con không chỉ buồn bã, tủi phận mà còn lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói khủng khiếp này không. Từ nỗi lo bà cụ là người từng trải, nên cũng nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người đàn bà đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, chứ nào đâu có dễ dàng gì, vì thế bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này.

Bà cụ đã thật hiền từ mà nhanh chóng gật đầu cho mối hôn sự "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm". Rồi xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho các con những lời dặn dò, động viên tinh thần để các con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy ít học hành, nhưng bà cụ Tứ thật xứng đáng là người mẹ hiền, thông tuệ, có tấm lòng yêu thương con sâu sắc, biết chia sẻ và giúp đỡ các con trong cơn đói kém bằng sức mạnh của tình thân, tình người. Sau đêm tân hôn, bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, buồn rầu của nạn đói bằng cách liên tục kể các câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với các kế hoạch làm ăn, nuôi gà,... vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc. Lòng người mẹ thương con, còn bộc lộ thông qua hình ảnh nồi chè khoán, bà cụ Tứ nghèo khó không có tiền đãi con được bữa chè ngon ngọt, chỉ có một nồi cháo cám, đắng ngắt, nghẹn bứ ở cổ, nhưng ấy là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.

Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc, ở đó vẻ đẹp của tình thân tình người, niềm tin và niềm hy vọng vào cuộc sống vẫn hiện lên một cách tiềm tàng và âm ỉ trong tâm hồn mỗi con người, mà không hề bị cái đói, cái chết vùi dập, chôn lấp. Trái lại dựa vào sức nuôi dưỡng mạnh mẽ của tình thân, thì hy vọng sống còn của con người càng trở nên mạnh mẽ và tỏa sáng, mở đường cho con người thoát khỏi cảnh bế tắc, khốn cùng.

-/-

Trên đây là một số bài văn mẫu 12 hay nêu cảm nhận ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Mong rằng nội dung này sẽ là nguồn tài liệu hữu ích cho các em trong quá trình học văn lớp 12. Chúc các em làm bài tốt và đạt kết quả cao !

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM